12 juillet 2014

Hội chứng ký ức giả tạo của Trung quốc

Theo Nguyễn Ái Việt


Cả một dân tộc đã bị giáo dục sai lầm rằng người Trung quốc đã phát hiện và đặt tên cho các đảo của Biển Nam Trung Hoa.
Bill Hayton / 10 Tháng Bảy, 2014    Người dịch: Lệnh Lỗi Dương
“Chìa khóa đến tương lai hòa bình ở Châu Á nằm ở việc xem lại quá khứ một cách trung thực và có tính phê phán.”
Biển Nam Trung Hoa là nơi những tham vọng của Trung Quốc gặp phải lo ngại của toàn thể Châu Á và sức mạnh của Mỹ. Trên lãnh hải của mình Trung Quốc đã vứt bỏ trò vờ vĩnh về “sự vùng lên hòa bình” để theo đuổi chính sách ngoại giao pháo hạm. Những con tàu tuần bờ biển của Trung Quốc được vũ trang đã đâm húc vào các đối thủ Việt Nam, phong tỏa các điểm tiền tiêu của Philippine, ngăn cảnh các cuộc khảo sát về dầu khí của Malaysia và đe dọa các tàu của Indonesia đang bảo vệ ngành đánh cá của nước này.  Để đáp lại, tất các nước này đang mua nhiều vũ khí hơn và cải thiện các quan hệ quân sự với các chính phủ khác đang lo ngại về sự quả quyết ngày càng tăng của Trung Quốc— trước hết là Mỹ và còn có cả Nhật, Hàn Quốc, Ấn Độ và Úc.
Căn nguyên của khó khăn này là việc Bắc Kinh đưa ra “yêu sách lịch sử không thể tranh cãi” của mình tới 80 phần trăm của Biển Nam Trung Hoa: suốt từ cảng Hồng Kông đến tận gần bờ biển Borneo, cách xa tới 1500km. Vấn đề với cái yêu sách này là không có bằng chứng tin cậy nào ủng hộ cho nó.  Và cái hư cấu lịch sử này sẽ đe dọa hòa bình và an ninh Á Châu và sẽ trở thành sàn đấu cho cuộc tranh đấu giữa Trung Quốc và Mỹ với các hệ quả mang tính toàn cầu. Dường như khó mà tin được việc đối đầu tiềm tàng một cơn chấn động toàn cầu, về căn nguyên, lại là việc tranh giành những vệt đất hầu như hoàn toàn không có người ở.
Có hai tập hợp “các đảo” chính ở Biển Nam Trung Hoa. (Chỉ có rất ít đảo thực, đa số chỉ là các bãi san hô, dải cát hay đá). Ở phía bắc, quần đảo Paracel đang bị tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam. Về phía Nam, quần đảo Spratly rộng lớn hơn rất nhiều đang bị Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippine đòi hỏi chủ quyền. Hầu hết những địa điểm cách biệt này đều mang tên tiếng Anh,  thường được đặt bởi các tàu và thủy thủ đoàn đã vẽ chúng trên bản đồ. Richard Spratly là một thuyền trưởng săn cá voi đã xác định vị trí hòn đảo mang tên ông vào năm 1843, Chiến hạm hoàng gia Iroquois đã đặt tên cho bãi san hô Iroquois trong công tác khảo sát vào năm 1920, và vân vân.
Khi một ủy ban chính phủ của Trung Quốc lần đầu đặt tên tiếng Trung Quốc cho các hòn đảo này vào năm 1935 họ chỉ làm mỗi một việc là dịch hoặc phiên âm các tên Anh đã có. Ở quần đảo Paracels, ví dụ,  bãi san hô Antelope trở thành Linh Dương (từ tiếng Trung quốc của antelope) và ở quần đảo Spratlys, bãi san hộ North Danger trở thành Bắc Họa (tiếng Trung Quốc cho “mối nguy hiểm phương bắc”),  đảo Spratly trở thành Si-ba-la-tuo (phiên âm tiếng Trung Quốc của tên tiếng Anh).  Ủy ban Trung Quốc đã đơn giản sao chép các bản đồ của Anh, và kể cả các lỗi. Các tên đó sau này được sửa chữa hai lần. Bãi ngầm Scarborough, được mang tên một con tàu Anh vào năm 1748, ban đầu được phiên âm là Si ge ba luo vào năm 1935, được gọi là bãi san hô Dân Chủ bởi Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1947 và sau này được đặt một cái tên bớt nhạy cảm chính trị là Hoàng Nham (Đá vàng) bởi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1983.
“Chưa hề có bằng chứng khảo cổ nào được tìm thấy về việc có bất cứ con tàu Trung quốc nào đã đi qua vùng biển này trước thế kỷ 10”
Ngày nay, có vẻ như các nhà chức trách Trung Quốc hoàn toàn không biết gì về điều này. Lý lẽ bảo vệ chính thức được chuẩn hóa về chủ quyền “không thể tranh cãi” của Trung  Quốc trên Biển Nam Trung Hoa bắt đầu  với cụm từ, “người Trung Quốc là người đầu tiên phát hiện và đặt tên cho quần đảo  Nam Sa.” Trong thực tế, “người Trung Quốc” đã sao chép các tên từ người Anh. Thậm chí từ “Nam Sa” (có nghĩa “cát phía nam”) đã di chuyển lòng vòng trong các bản đồ Trung Quốc. Vào năm 1935 tên này được dùng để mô tả vùng biển nước nông gọi bằng tiếng Anh là “Bờ Macclesfield” (vâng, cũng lại mang tên một con tàu Anh khác). Vào năm 1947 cái tên Nam Sa đã bị di chuyển về phía Nam trên các bản đồ Trung Quốc để chỉ quần đảo Spratly.
Việc khảo sát đầy đủ mỗi chứng cớ mà phía Trung Quốc đưa ra có thể cần rất nhiều trang giấy, nhưng đã đủ để nói rằng không hề có chứng cứ nào đã được tìm thấy về việc có bất cứ con tàu Trung Quốc nào đã đi qua vùng biển này trước thế kỷ 10. Cho đến lúc đó mọi việc giao thương và thám hiểm đều được thực hiện bởi các con tàu Malay, Ấn Độ và Ả Rập. Chúng có thể, thỉnh thoảng, đã mang theo hành khách Trung Quốc. Những chuyến đi được bàn đến rất nhiều về các “đô đốc thái giám” Trung Quốc bao gồm cả Trịnh Hòa, chỉ kéo dài tổng cộng khoảng 30 năm, cho đến những năm 1430. Sau đó, mặc dù các thương nhân và các ngư đoàn đã đi lại khá nhộn nhịp trên những vùng biển này, quốc gia Trung Hoa không bao giờ lai vãng đến vùng nước sâu này lần nữ cho đến khi chính phủ dân quốc được Mỹ và Anh tặng các tàu vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Lần đầu tiên có bất cứ quan chức chính phủ Trung Quốc nào đặt chân lên bất cứ đảo nào trong quần đảo Spratly là vào 12 Tháng Mười Hai năm 1946, vào lúc mà các đế quốc Anh và Pháp đã đưa ra các tuyên ngôn vể chủ quyền trên vùng biển này. Một phái đoàn cấp tỉnh của Trung Quốc đã đến được quần đảo Paracels vài thập kỷ trước đó, vào mùng 6 Tháng Sáu năm 1909, hình như thực hiện một chuyến dã ngoại trong một ngày, được dẫn đường bởi các thuyền trưởng người Đức mượn từ hãng buôn Carlowitz. Những đụng độ ở tầm quốc tế đang dựa trên các tuyên bố yếu ớt như vậy.
Bức tranh lịch sử này được hình thành từ các nghiên cứu độc lập tốt nhất. Nhưng nếu nói điều này với bất cứ người Trung Quốc nào, họ sẽ phản ứng với sự ngờ vực. Từ phòng học tới các pháp đình ngoại giao một ký ức chính thức về chủ quyền của Trung Quốc trên vùng biển này đã trở thành một sự thực được xác lập. Làm thế nào một cảm xúc dân tộc về chủ quyền đối với Biển Nam Trung Hoa phát triển mạnh mẽ từ những nền tảng quặt quẹo thế này?
Câu chuyện có thể bắt đầu từ Chiến tranh Nha phiến lần đầu vào năm 1840 và cái mà người Trung Quốc bây giờ gọi là “thế kỷ nhục nhã của dân tộc”  tiếp theo đó. Trung Quốc rõ ràng đã phải rên xiết đau thương dưới bàn tay của các đế quốc phương Tây và Nhật: hàng ngàn người bị giết, các thành phố bị biến thành thuộc địa và chính phủ trở thành con nợ của các ngân hàng quốc tế.
Nhà địa lý William Callahan và những người khác đã vạch rõ bằng cách nào, như là một bộ phận của cuộc đấu tranh chống áp bức của ngoại bang, những người quốc dân đảng và cộng sản đã vun đắp cho một cảm giác bị vi phạm lãnh thổ để vận động nhân dân. Từ những năm 1900 trở đi, các nhà địa lý Trung Quốc như Bạch Mi Sơ, một trong những người sáng lập ra Hội Địa lý Trung Quốc, đã bắt đầu vẽ những bản đồ để cho dân chúng thấy có bao nhiêu lãnh thổ bị xé khỏi Trung Quốc bởi bọn đế quốc.
“Những bản đồ quốc sỉ” này đã giả định rằng lãnh thổ hợp pháp của Trung Quốc bao gồm mọi chư hầu đã từng cống nạp cho hoàng đế Trung Hoa. Chúng bao gồm bán đảo Triều Tiên, phần lớn nước Nga, Trung Á, Himalayas và nhiều phần của Đông Nam Á. Các đường đã được vẽ ra trên các bản đồ này để làm tương phản các vùng rộng lớn của các đế chế trước đây với tình trạng bị thu hẹp của đất nước. Kết quả tất yếu là, sau khi ủy ban hữu quan của Trung Quốc đã đặt tên mới cho các quần đảo ở Biển Nam Trung Hoa vào năm 1935, một trong những đường này được vẽ ra vòng quanh vùng biển này. Đây chính là cái mà bây giờ được gọi là đường “ hình chữ U” hoặc “9-đoạn” thâu tóm  80 phần trăm của vùng biển này và tất cả các quần đảo trong đó. Một sự cố về công tác bản đồ, dựa trên việc đọc sai lịch sử Đông Nam Á, chính là cơ sở cho tuyên bố chủ quyền lãnh thổ hiện nay của Trung Quốc.
Trung Quốc rõ ràng đã bị cưỡng đoạt dưới tay của người ngoại quốc áp bức nhưng trạng thái hiện tại xuất hiện từ đống đổ nát của nhà Thanh và các cuộc nội chiến sau đó đã tìm được sự an ủi ở các ký ức giả tạo có rất ít quan hệ với những gì đã xảy ra trong thực tế. Như bất cứ khách tham quan nào đến triển lãm “Con đường sống sót” mới đây ở Bảo tàng Dân Tộc Trung Quốc tại quảng trường Thiên An Môn nào đều có thể nhận thấy, hội chứng ký ức giả này là một thành phần quan trọng trong huyền thoại của Đảng Cộng Sản để hợp pháp hóa vị thế:  chính Đảng đã cứu đất nước khỏi nỗi ô nhục.
Các học viện và ủy ban chính phủ quốc dân đảng trong nửa đầu thế kỷ 20 đã di chúc lại cho Đảng Cộng sản một “lịch sử chính thức” rõ ràng là bịa đặt. Chính điều này, chứ không phải nguy cơ của bọn côn đồ dân tộc chủ nghĩa trên đường phố đã làm cho các tranh chấp về Biển Nam Trung Hoa trở nên căng thẳng và nguy hiểm. Nhưng chấp nhận điều sai này có thể sẽ xóa bỏ một hòn đá tảng về vị thế của Đảng trong thượng tầng của xã hội Trung Quốc.
Không may, không có lựa chọn nào khác để tiếp tục tranh đoạt ở Biển Nam Trung Hoa. Chẳng có bên nào muốn khiêu khích để bùng nổ xung đột nhưng không ai muốn giảm sức ép bằng cách giảm đi các yêu sách về lãnh thổ. Một số quan chức Trung Quốc về phương diện cá nhân cũng nhận ra sự vô nghĩa về mặt pháp lý của việc duy trì yêu sách về “đường chữ U”. Nhưng cũng các quan chức đó nói rằng họ không thể điều chỉnh yêu sách này vì các nguyên nhân chính trị—do các phê phán trong nước sẽ vô cùng ghê gớm. Làm thế nào để sau đó có thể thuyết phục nhân dân Trung Quốc chấp nhận quan điểm khác về lịch sử của Biển Nam Trung Hoa?
Có lẽ một câu trả lời nằm ở phía Đài Loan. Cơ hội cho một cuộc tranh luận tự do hơn về lịch sử Trung Quốc là lớn hơn nhiều ở Đài Loan so với trong lục địa
Đã có một số học giả “lạc loài” đã suy nghĩ lại về các khía cạnh về lịch sử của thế kỷ 20. Đài Loan cũng là nơi có các lưu trữ của Trung Hoa Dân quốc, chính phủ đầu tiên đã vẽ là “đường chữ U”. Một cuộc khảo sát cởi mở và cần thận về quá trình lộn xộn mà cái đường này được vẽ ra có thể thuyết phục được những người tạo ra công luận sẽ xem xét lại một huyền thoại quốc dân đảng mà họ đã tuyên bố là chân lý kinh thánh.
Có lẽ lý lẽ mạnh nhất cho việc bắt đầu ở Đài Loan là các quan chức ở Bắc Kinh đang sợ rằng nếu họ có chấp nhận bất cứ thỏa hiệp nào đều sẽ bị phê phán ầm ĩ ở Đài Bắc. Nếu các quan chức này xuống thang với các xung đột lịch sử địa lý ở Biển Nam Trung Hoa, sẽ dễ dàng hơn cho chính quyền Bắc Kinh làm việc giống như vậy. Chìa khoa của tương lai hòa bình ở Á Châu nằm ở việc xem xét lại quá khứ một cách trung thực và có tính phê phán.

Hội chứng nhớ lầm của Trung Quốc

Posted by adminbasam on 12/07/2014
Tác giả: Bill Hayton
Người dịch: Huỳnh Phan
10-07-2014
H1Cả nước đã được dạy sai, rằng người Trung Quốc đã phát hiện và đặt tên các đảo ở biển Đông
Biển Đông là nơi mà tham vọng của Trung Quốc (TQ), nỗi âu lo của châu Á và sức mạnh của Mỹ hội tụ nhau. Trong vùng biển của mình, TQ đã từ bỏ mọi giả vờ về “trỗi dậy hòa bình” để ngã về kiểu ngoại giao pháo hạm. Tàu cảnh sát biển vũ trang của TQ đã đâm vào tàu của đối phương Việt Nam, phong tỏa các tiền đồn của Philippines, ngăn trở các tàu khảo sát dầu của Malaysia và doạ nạt các tàu Indonesia đang bảo vệ ngư trường quốc gia. Đáp lại, tất cả các nước này đang mua vũ khí nhiều hơn và cải thiện quan hệ quân sự với chính phủ các nước khác, lo lắng với sự quyết đoán ngày càng tăng của TQ – chủ yếu là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Australia. 
Cội rể của tất cả các rắc rối này là điều mà Bắc Kinh gọi là “yêu sách lịch sử không thể tranh cãi” chiếm tới đến 80% biển Đông: chạy thẳng từ cảng Hồng Kông tới gần sát bờ biển Borneo cách xa 1.500 km. Vấn đề với yêu sách này là không có bằng chứng đáng tin cậy nào làm chỗ dựa cho nó. Tuy nhiên, mẫu chuyện hư cấu lịch sử này đe dọa hòa bình và an ninh ở châu Á và cung cấp sàn diễn cho một cuộc đấu tranh giữa TQ và Mỹ với những tác động mang tính toàn cầu. Dường như rất khó có thể tin rằng cuộc đối đầu tiềm năng có tính huỷ diệt này lại có gốc rễ là tranh chấp về những đảo rải rác gần như hoàn toàn không thể sinh sống được.
Có hai nhóm “đảo” chính ở biển Đông. (Chỉ có một số rất ít là đảo thực sự, phần lớn chỉ là rạn san hô, bãi cát hoặc đá). Trong cụm phía bắc, quần đảo Hoàng Sa đang có tranh chấp giữa TQ và Việt Nam. Ở phía nam quần đảo Trường Sa rộng hơn nhiều do TQ, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippines đòi hỏi chủ quyền. Hầu hết những chỗ hoang vắng này đều có tên tiếng Anh, thường do các tàu và các nhân viên trên tàu vẽ ra bản đồ các đảo này tặng cho tên riêng. Richard Spratly là một thuyền trưởng tàu săn cá voi đã phát hiện hòn đảo có tên ông vào năm 1843, tàu HMS Iroquois cho tên của mình cho đá Iroquois (bãi Amy Douglas) trong khi làm công việc khảo sát trong thập niên 1920, và cứ thế tiếp tục…
Khi một ủy ban của chính phủ TQ lần đầu đặt tên tiếng Trung cho các đảo vào năm 1935, mọi việc họ làm là dịch hoặc phiên âm các tên tiếng Anh đang có. Ví dụ, ở quần đảo Hoàng Sa, đá Antelope Reef (Hải Sâm) trở thành Lingyang (羚羊: linh dương = antelope) và ở quần đảo Trường Sa, North Danger Reef (đá Bắc) trở thành Beixian (北崄: bắc hiểm [nguy hiểm phía bắc = north danger], đảo Spratly (Trường Sa đã trở thành Si-ba-la-te-li – 斯普拉特利phiên âm tên tiếng Anh)(1). Uỷ ban TQ chỉ việc sao y các bản đồ, các sai sót và mọi thứ của Anh. Các tên này sau đó được xem xét chỉnh lại hai lần. Bãi cạn Scarborough, được đặt tên theo tên một tàu của Anh vào năm 1748, được phiên âm là Si ka bo lei jiao (斯卡伯勒礁 –Tư ca bá lặc tiều) vào năm 1935, đổi tên thành Min’zhu Jiao (民主礁- Dân chủ tiều [đá Dân chủ]) của nước THDQ vào năm 1947 và sau đó được CHNDTH đặt tên ít nhạy cảm chính trị hơn là Huangyan (黄岩岛 – Hoàng Nham [đá màu vàng]) vào năm 1983.
Hiện nay, chính quyền TQ dường như hoàn toàn không biết về điều này. Việc biện hộ khuôn mẫu chính thức về chủ quyền “không thể tranh cãi” của TQ đối với biển Đông bắt đầu bằng cụm từ “người TQ là những người đầu tiên phát hiện và đặt tên cho quần đảo Nam Sa”. Trên thực tế, “người TQ” chỉ sao chép các tên này từ người Anh. Ngay cả từ “Nam Sa” (có nghĩa là “cát phía Nam”) cũng đã chạy vòng quanh trên bản đồ TQ. Năm 1935 tên này đã được sử dụng để mô tả các khu vực biển cạn, được biết tên tiếng Anh là “Macclesfield Bank” (lại theo tên một tàu khác của Anh). Năm 1947, tên Nam Sa đã được chuyển về phía nam trên bản đồ TQ để chỉ quần đảo Trường Sa.
Một cuộc xem xét đầy đủ mỗi biện minh mà phía TQ đưa ra sẽ tốn nhiều trang giấy nhưng đủ để nói rằng chưa hề thấy có bằng chứng khảo cổ học nào về việc có tàu TQ chạy trên biển này trước thế kỷ 10. Cho đến thời điểm đó, tất cả việc giao thương và khai thác đều do các tàu thuyền Malaysia, Ấn Độ và Ả Rập thực hiện. Các tàu này có thể, vào lúc này lúc khác, có chở khách TQ. Các chuyến đi được bàn luận nhiều của các “đô đốc thái giám” TQ kể cả Zheng He (Trịnh Hoà), kéo dài tổng cộng khoảng 30 năm, cho đến thập niên 1430. Sau đó, mặc dù các thương nhân và ngư dân chạy tàu thuyền tới lui vùng biển này, nhà nước TQ không bao giờ đến các vùng biển sâu lần nào nữa cho mãi đến khi chính phủ Quốc dân đảng được Mỹ và Anh tặng cho một số tàu thuyền vào cuối Đệ Nhị Thế chiến.
Lần đầu tiên quan chức chính phủ TQ đặt chân lên một đảo thuộc quần đảo Trường Sa là ngày 12 tháng 12 năm 1946, vào thời điểm đó cả hai đế quốc Anh và Pháp đã đưa ra các tuyên bố chủ quyền ở vùng biển này. Một phái đoàn TQ cấp tỉnh đã đến quần đảo Hoàng Sa một vài thập niên trước đó vào ngày 6 tháng 6 năm 1909, thực hiện điều có vẻ như là một cuộc thị sát trong một ngày, nhờ hai thuyền trưởng Đức mượn của hãng buôn Carlowitz dẫn đường. Nhiều đối đầu quốc tế phát xuất từ tuyên bố đơn sơ này.
Đây là bức tranh toàn cảnh lịch sử hiện ra từ các nghiên cứu độc lập tốt nhất. Nhưng khi nói điều này cho bất kỳ người TQ nào nghe, thì họ sẽ phản ứng với sự ngờ vực. Từ phòng học đến sảnh đường ngoại giao, một ký ức chính thức về chủ quyền của TQ trên biển đã trở thành một thực tế được xác lập. Làm sao mà một ý thức quốc gia về quyền được hưởng đối với biển Đông lại phát triển rất mạnh từ một nền móng lung lay như vậy?
Câu chuyện có thể bắt đầu với cuộc chiến tranh nha phiến lần một vào năm 1840 và điều mà bây giờ người TQ gọi là “thế kỷ quốc sỉ (thế kỷ nhục nước)” tiếp sau đó. TQ rõ ràng gánh chịu đau thương dưới bàn tay của đế quốc phương Tây và Nhật Bản. Hàng ngàn người bị giết, nhiều thành phố đã bị thuộc địa hoá và chính phủ rơi vào vòng nợ nần các ngân hàng quốc tế.
Nhà địa lý William Callahan và những người khác đã vạch ra cách mà phe Quốc dân đảng (QDĐ) và Cộng sản, như là một phần của cuộc đấu tranh chống lại sự thống trị của nước ngoài, đã cố tình gieo trồng một ý thức về vi phạm lãnh thổ để động viên nhân dân như thế nào. Từ những năm 1900 trở đi, các nhà địa lý của TQ như Bai Meichu (Bạch Mi Sơ), một trong những người sáng lập Hội Địa lý TQ, bắt đầu vẽ các bản đồ cho công chúng TQ thấy các nước đế quốc đã xâu xé lãnh thổ TQ tới mức nào.
Những “bản đồ quốc sỉ” này cho rằng lãnh thổ hợp lẽ của TQ bao gồm tất cả các nước chư hầu trước kia đã từng triều cống hoàng đế Trung Hoa. Các bản đồ này bao gồm bán đảo Triều Tiên, nhiều vùng rộng lớn của Nga, Trung Á, Hymalaya, và nhiều khu vực Đông Nam Á. Các đường được vẽ trên các bản đồ để đối chiếu các khu vực rộng lớn của đế quốc xưa với tình trạng teo lại của đất nước này. Tai hại là sau khi ủy ban chính thức của TQ đổi tên các đảo trên biển Đông vào năm 1935, một trong những đường này đã được vẽ ra vòng quanh biển này. Đây là điều mà bây giờ được gọi là đường “chữ U” hoặc “9 vạch” choán 80% biển Đông và tất cả các đảo bên trong nó. Tai nạn bản đồ đó, dựa trên việc đọc sai lịch sử Đông Nam Á, lại là cơ sở cho yêu sách chủ quyền hiện tại của TQ.
TQ rõ ràng gánh chịu sự sỉ nhục dưới bàn tay của người nước ngoài độc đoán nhưng nhà nước hiện đại nổi lên từ đống đổ nát của nhà Thanh và các cuộc nội chiến sau đó đã tìm thấy niềm an ủi trong những ghi nhớ sai lầm vốn ít liên quan đến những gì thực sự xảy ra. Như bất kỳ người nào đi xem triển lãm “Con đường hồi sinh” mới tại Bảo tàng Quốc gia TQ ở quảng trường Thiên An Môn sẽ thấy ra, hội chứng nhớ lầm này là một thành phần cốt lỏi trong huyền thoại làm nên tính chính đáng của Đảng Cộng sản: huyền thoại đảng cứu đất nước thoát khỏi sỉ nhục.
Các viện nghiên cứu và các ủy ban của chính phủ Quốc dân Đảng trong nửa đầu thế kỷ 20 đã để lại Đảng Cộng sản một “lịch sử chính thức” sai lầm có thể chứng minh được. Chính điều này, chứ không phải là mối đe dọa của đám đông theo chủ nghĩa dân tộc trên đường phố làm cho tranh chấp Biển Đông rất khó giải quyết và nguy hiểm. Nhưng nếu thừa nhận sự sai trái của nó, sẽ loại bỏ một nền tảng cốt lỏi vị thế của Đảng trong đỉnh cao của xã hội TQ.
Rủi thay, không có cách dễ dàng nào khác cho xung đột đang tiếp diễn trên biển Đông. Không bên nào muốn kích động một cuộc xung đột hoàn toàn nhưng không ai sẵn sàng giảm bớt căng thẳng bằng cách điều chỉnh yêu sách lãnh thổ phải chăng hơn. Một số quan chức TQ đã bí mật thừa nhận sự vô lý về pháp lý của việc duy trì yêu sách “đường chữ U” này. Nhưng cũng chính những quan chức này lại nói rằng họ không thể chính thức điều chỉnh yêu sách này vì những lý do chính trị (sự chỉ trích trong nước sẽ rất lớn). Thế thì làm thế nào để có thể thuyết phục người dân TQ có một cái nhìn khác về lịch sử biển Đông?
Có lẽ câu trả lời nằm ở Đài Loan. Các cơ hội cho một cuộc tranh luận tự do hơn về lịch sử TQ ở Đài Loan lớn hơn ở đại lục rất nhiều. Hiện đã có một số học giả “bất đồng chính kiến” đang xem xét lại các khía cạnh của lịch sử thế kỷ 20. Đài Loan cũng là nơi các văn thư của THDQ, chính phủ vẽ nên “đường chữ U” lần đầu, được lưu trữ. Một cuộc kiểm tra thấu đáo và mở rộng quá trình lộn xộn mà theo đó đường này được vẽ ra có thể thuyết phục những người làm ra dư luận phải xem xét lại một số huyền thoại của Quốc dân Đảng mà từ lâu họ đã tuyên bố như là chân lý trong kinh.
Có lẽ lý do mạnh nhất để bắt đầu tại Đài Loan là chính quyền Bắc Kinh sợ rằng bất kỳ sự nhượng bộ nào họ có thể đưa ra, sẽ bị lớn tiếng chỉ trích tại Đài Bắc. Nếu nhà chức trách ở đó muốn xuống thang sự xung đột do việc chép sử trên biển Đông, thì sẽ dễ dàng hơn nhiều để chính quyền Bắc Kinh làm tương tự như vậy. Chìa khóa cho một tương lai hòa bình ở châu Á nằm trong việc xem xét trung thực và có tính phê phán quá khứ.
Quyển sách The South China Sea and the struggle for power in Asia (Biển Đông và cuộc đấu tranh giành quyền lực ở châu Á) của Bill Hayton sẽ được Đại học Yale xuất bản vào tháng 9.
—–
(1) Lưu ý rằng đối với âm R người Hoa thường chuyển thành âm L (ví dụ: Roma –> Luó Mă [La Mã], Rousseau–> Lú Suō [Lư Thoa]… mới thấy Si-pu-la-te-li [tư phổ lạp đặc lợi - 斯普拉特利] là phiên âm của S-p-ra-t-ly, hoặc Pai-la-su [phách lạp tô - 柏拉苏] là Pa-ra-cel… Qua đó cũng thấy khi chuyển thêm qua âm Hán Việt thì thường là cách biệt quá xa so với âm gốc như mấy ví dụ vừa nêu
Ảnh: Bài báo trên SCMP, ngày 3/1/1947, về việc Trung Hoa Dân Quốc được Mỹ tặng chiếc tàu, có nêu trong bài viết trên.