23 juin 2015

Đôi điều về “Hòa Giải, Hòa Hợp Dân Tộc Việt Nam”

David Thiên Ngọc

Bài viết cho chuyến Mỹ du của ông Nguyễn phú Trọng. 

Sở dĩ tôi viết về HGHHDT trong bài này cho chuyến Mỹ du của ông Nguyễn phú Trọng vì tôi tin rằng ngoài những vấn đề nóng bỏng, sôi động trên chính trường QT mà nhất là Châu Á TBD, Đông Nam Á, Biển Đông và chương trình chuyển trục của Hoa Kỳ có liên quan đến sự sống còn của CSVN trước nanh vuốt của Tàu cộng thì vấn đề HGHHDT mà hơn 10 năm qua Bộ Chính Trị đảng CSVN đã có nghị quyết 36 cũng không thể thiếu vắng trong chuyến Mỹ du lần này của Nguyễn phú Trọng.

Trước khi đi vào bài viết tôi xin mạn phép đứng ra ngoài quan điểm chính trị để có những lập luận, phân tích và dẫn giải mọi sự việc liên quan đến Hòa Hợp, Hòa Giải Dân Tộc (HHHGDT) được khách quan và công bằng. Bởi có một điều rằng nguyên nhân từ đâu để có hận thù (điều không thể không có trong chiến tranh VN), mâu thuẫn, nợ nần về tinh thần, tài sản từ vật chất lẫn máu xương để cho ngày nay phải đặt ra vấn đề “Hòa Giải”. Đồng thời trong việc xử lý cái hệ lụy từ hận thù, nợ nần mọi mặt… nêu trên như thế nào để đi đến xóa bỏ? Rồi đặt ra hai từ “Hòa Hợp”? dĩ nhiên là thuận cả đôi bề về tư tưởng tình cảm, không kể nợ máu xương vì khoản này khó mà trả cho được, còn phần tài sản vật chất cùng các quyền của người dân đã bị tước đoạt thì CSVN đã khắc phục hậu quả đến đâu trong quá trình “Hòa Giải” rồi mới đi tiếp bước thứ hai là “Hòa Hợp”! Cũng giống như trong quá trình “ly hôn” của đôi vợ chồng. Khi đã ổn thỏa trong bước “hòa giải” ở tòa án có nghĩa là “hòa giải thành”, xóa tan mâu thuẫn thì mới “hòa hợp” trở lại được. Ngược lại thì “…Anh đi đường anh… tôi đường tôi…”.

Nguyên nhân và mục đích:

Để phân tích cho thấu đáo trong vấn đề Hòa Giải rồi đi đến Hòa Hợp cho dân tộc VN sau cuộc chiến tương tàn nồi da xáo thịt… ta phải tìm hiểu nguyên nhân và hậu quả. Trong trường hợp này ta dùng phạm trù “nguyên nhân” thì theo tôi có lẽ nó chưa lột hết nội hàm mà phải là “phương tiện”. Về phía cộng sản Bắc Việt (CSBV) đánh tráo khái niệm “phương tiện” ra “nguyên nhân” và lập luận rằng nguyên nhân xảy ra cuộc chiến trên là do “Đế Quốc Mỹ xâm lược MNVN” và “Ngụy Quyền SG” (họ chỉ VNCH) làm tay sai bán nước cho Đế Quốc Mỹ. Do đó CSBV phải kháng chiến chống Mỹ-Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào - và đạt được kết quả là “Giải phóng MNVN” và là mục đích cuối cùng, là “cứu cánh” mà thâm tâm đích thực là “cưỡng chiếm MNVN”. Sau khi “cưỡng chiếm MNVN” CSBV tiến hành chủ trương "cải tạo công thương nghiệp", “cải tạo tư sản mại bản”… cái phương tiện này che giấu cho hành động “cướp trắng”, “cướp có chính sách, chủ trương”… được đem ra áp đặt đối với người dân MNVN với mục đích mơ hồ điếm xảo, cứu cánh ngụy tạo là “đấu tranh giai cấp, xóa bỏ giai cấp bóc lột” mà mục đích chính là thu vén tất cả tài sản cướp được về cho cá nhân, bè nhóm, tập đoàn CSVN nói chung cho cả CS Bắc và Nam VN (thành phần nhảy núi, ra bưng và số cán bộ đảng viên không đi tập kết ra Bắc sau năm 1954). Riêng về tài sản QG VNCH thì sau khi tập đoàn CSVN tịch thu và tự chia chát cho nhau còn lại sung công quỹ một số gọi là… cho tài sản đất nước XHCN như vụ 16 tấn vàng cướp của Nhân Dân MNVN mà đại diện là Chính Phủ VNCH đến nay vẫn còn là dấu hỏi lớn. Ở giai đoạn này CSVN “lấy cứu cánh biên minh cho phương tiện”.

Về phần con người thì CSVN lùa người dân cùng hầu hết gia đình vợ/chồng con của “ngụy quân, ngụy quyền” (từ CSVN dùng) đưa đi KTM… với mỹ từ là “cải tạo lao động XHCN”, “lao động là vinh quang”… nhưng thực chất, mục đích cuối cùng là chiếm đoạt tài sản, nhà cửa ở thành phố của những gia đình nạn nhân nói trên.

Về thành phần quân cán chính VNCH thì CSVN lùa vào các “trại tập trung cải tạo” mà đúng nghĩa là những “trại tù CS” mà họ gọi từ hoa mỹ là “cải tạo tư tưởng, văn hóa, chính trị” để hòa nhập vào xã hội mới XHCN. Nhưng mục đích cuối cùng là “trả thù” một cách dã man. Từ “dã man” này được thể hiện qua hàng trăm ngàn nạn nhân (quân cán chính VNCH) bị bức hại, giết chết lần mòn, đày ải xác thân mà rất nhiều người phải gởi nắm xương tàn nơi bìa rừng, đầu suối mà cho đến ngày nay vợ con còn chưa tìm thấy được. Một số sống sót họ kể lại sau khi được phóng thích và được sự nhìn nhận, lên án của các tổ chức phi chính phủ và các chính phủ văn minh, dân chủ trên thế giới nghe, thấy và công nhận.

Sau ngày 30.4.1975 CSVN sa thải, sách nhiễu, đày ải hầu như toàn bộ công nhân viên kể cả các thành phần trí thức, khoa học kỹ thuật không liên quan đến quân sự, chính trị… có một số ít thuộc thành phần trí thức trong ngành giáo dục và khoa học kỹ thuật được lưu dụng nhưng trong tình trạng bị phân biệt đối xử, quản lý và theo dõi… với chính sách “tẩy não”. Nói chung là đại bộ phận các đơn vị, tổ chức trong hoạt động xã hội lẫn bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương, các cấp, các cơ sở… của chính phủ VNCH đều chung một hoàn cảnh. Một con số rất lớn phải bị thất nghiệp, bị quẳng ra lề XH. Nhiều người lâm vào hoàn cảnh bi đát, nghiệt ngã thiếu thốn chưa nói là khốn cùng…

Thay vào đó là một số rất lớn cán bộ đảng viên CSVN thoát ra từ rừng núi xuống và từ Bắc tràn vào để lấp chỗ, thay thế điều hành bộ máy chính quyền MNVN mục đích xây dựng XH mới chỉ là hình thức mà nội dung và mục đích chính là cướp đoạt, thu vén cho cá nhân và gây thanh thế, bè nhóm để ngồi trên đầu người dân MNVN mà cai trị và bóc lột lâu dài. Cái giai cấp (bóc lột) mà họ đã và đang đấu tranh để xóa bỏ chỉ áp dụng cho tha nhân còn đối với họ (CSVN) lại là bản chất, là thuộc tính của tập đoàn mình.

Ngoài số quân cán chính VNCH bị CSVN trả thù khốc liệt tạm dẫn trên thì hàng triệu người dân từ cụ già đến đàn bà trẻ nít… phải liều chết băng rừng, vượt biển tìm 1 phần sống trong 10 phần chết cũng phải đứt ruột bỏ quê hương mồ mả người thân, vợ xa chồng cha xa con mà chạy trốn, tránh “họa cộng sản” để ngày nay được tô hồng với mỹ từ đầy yêu thương “khúc ruột ngàn dặm”!!!.

Về phía chính quyền VNCH thì cuộc chiến trên hai mươi năm khói lửa, máu xương là một cuộc chiến vì nhân quyền, dân chủ và độc lập. Người lính VNCH Bảo vệ Tổ Quốc trước sự xâm lăng của CSBV làm tay sai cho Nga-Tàu nhằm nhuộm đỏ Đông Nam Á theo cuồng vọng của CS đệ tam QT. Chưa có một người lính hay cán bộ nào của VNCH xâm phạm lãnh thổ, tài sản vật chất… của nhân dân Miền Bắc VN mà chỉ tự vệ, bảo vệ những gì thuộc về VNCH trong suốt hơn 20 năm cuộc chiến. Như vậy cái mục đích cuối cùng trong cuộc chiến của cả hai bên thì phần chính danh thuộc về bên nào? câu trả lời dành cho toàn dân VN để được khách quan. Đồng thời cái nguyên nhân từ đâu để có cuộc chiến thì không cần nói ra mà qua các dẫn chứng tự nó đã có câu trả lời.

Ván bài lật ngửa: 

Người xưa nói “Minh thương dễ đỡ, ám tiêu khó lường”. Nội hàm trong câu nói nó đã ám chỉ hai hạng người. “Minh thương” cho hành động của hàng chính nhân quân tử còn “ám tiêu” là dành cho phường hạ đẳng tiểu nhơn. Trên vũ đài chính trị thế giới hiện nay đã qua rồi cái thời “lọc lừa dối trá”. Thắng nhau bằng “miếng lừa”, bằng dối gian xảo trá nó không còn chỗ đứng mà cái sự hơn nó được thể hiện qua thực lực từ kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật (chất xám)… những lĩnh vực ấy nó hình thành nên bức tranh chính trị mà gam màu sáng tối sẽ tùy thuộc vào nội, ngoại lực cộng sinh. Đọc chiến sử (Tàu) xưa có những vị được xem là dũng tướng tài ba, võ nghệ được ca tụng là dưới trời không đối thủ… thế nhưng giữa trận tiền còn dùng những mánh “trá bại” mà xuất chiêu “hồi mã thương” hay “đà đao” để sát hại đối thủ trong phút sơ kỳ bất ý thì lấy gì làm vinh? hay trá hàng, khổ nhục kế… lừa đối phương một cách tiểu nhơn. Những mánh lừa không trong sáng, quân tử ấy cho dù xưa hay nay nó vẫn không bao giờ được tôn vinh và tồn tại mà nó sẽ bị “lột mặt” nơi chính trường và sẽ ngã ngựa nơi trận tiền… vì những cú lừa khó thực hiện được lần thứ hai.

Những chiêu thức đó nó có từ ngàn xưa bên Sở bên Tề… tuy nhiên những cái “chước hạ nhân” đó nó vẫn còn lưu giữ trong máu của loài “Hán cộng” và nó lây truyền cho CSVN và điều tất nhiên là tất cả sẽ chuốc lấy thất bại và cô đơn trên chính trường thế giới.

Sau 40 năm tàn cuộc chiến nhưng cái lằn ranh Quốc-Cộng trong tâm thức của người VN nó vẫn còn hiện hữu chưa có dấu hiệu phai mờ. Hơn 10 năm qua đảng CSVN tung ra nghị quyết 36 những mong “hát ru” cho hàng triệu “khúc ruột ngàn dặm” ngủ mê mà thi hành quỷ kế. Nhưng CSVN đã thêm lần nữa sai lầm! Đảng CSVN cứ ngỡ rằng dưới bàn tay sắt máu, bạo cường… họ sẵn sàng tước đoạt mạng sống, nghiền nát bất cứ ai ở quốc nội dám cản đường hay đi ngược lại bánh xe của CS mà họ dán mác là “bánh xe lịch sử”. Do đó họ tung ra chiêu bài “HGHHDT” đối với “khúc ruột ngàn dặm” mà thôi mà quên rằng (hoặc chủ quan) họ có hòa giải được với hơn 80 triệu dân VN đang sinh sống trong nước và đang từng giờ đối đầu với họ hay không? Trong khi tận đáy lòng người dân chất chồng bao thù hận, nỗi niềm, oan khiêng nghiệt ngã mà hàng chục năm qua vì mạng sống của chính họ cùng chồng/vợ con lẫn chén cơm cho cả nhà mà khiến cho lưỡi họ phải thụt vào trong mà không nói được nên lời… Bởi khi tàn cuộc chiến bằng bom đạn thì CSVN điên cuồng biến cuộc chiến trên thành một cuộc chiến khác tuy không súng đạn xe tăng thiết giáp nhưng cũng ngập tràn máu lửa… mà một bên là đảng CSVN và bên còn lại là toàn dân Việt. Thế thì chiêu bài HGHHDT chỉ đối với 4 triệu người Việt hải ngoại mà hầu hết là tị nạn “tránh họa CS” có phải là sai lầm? chưa nói là ngớ ngẩn và lố bịch! Canh bạc HGHHDT trên vũ đài chính trị VN đã đến hồi lật ngửa vì con “bài tẩy” của CSVN đã bị nhân dân nắm trong tay.

Đa nguyên chính trị.

Người VN chân chính trong mọi lúc luôn tôn trọng sự công bằng và minh bạch. Không đố kỵ, trả thù nhỏ mọn mà muốn sòng phẳng công khai dưới ánh đèn của vũ đài chính trị. Dùng minh thương chứ không lén lút ám tiêu. Đảng CSVN luôn tự hào là vô địch, không đối thủ! Thế tại sao lại sợ đối lập? luôn dùng mọi phương tiện bạo cường để trấn áp triệt tiêu mọi tổ chức cho dù là tổ chức xã hội dân sự? mà những tổ chức Dân Sự này luôn cần phải có trong bất cứ một đất nước Dân Chủ-Văn Minh nào trong đó kể cả các hội đoàn, tôn giáo? Chưa nói là đảng phái chính trị! Đồng thời tước đoạt mọi quyền tối thiểu của người dân? Sợ tiếng nói của người dân? Như trên tôi đã ví von vị dũng tướng tự hào là dưới trời không địch thủ mà phải dùng “miếng lừa” hèn hạ để hạ đối phương?

Đảng CSVN làm sao chứng minh cho thế giới biết cái chính danh của mình mà họ luôn ca ngợi và tự hào? đồng thời luôn lớn tiếng cho rằng đảng được dân tin yêu trong lúc họ cương quyết dùng mọi biện pháp, bằng vũ lực, bằng pháp luật ngụy tạo mơ hồ… để triệt tiêu các đảng phải chính trị từ trong trứng nước, triệt hạ mọi tiếng nói, ý tưởng của người dân để một mình một chợ? Múa gậy vườn hoang? Không có thế lực thứ 2, thứ 3… và nhiều hơn nữa thì sao cho mình là hạng nhất, là vô địch? không một tổ chức XHDS, tổ chức chính trị của các nước văn minh nào được tự do tiếp xúc thăm hỏi, chia sẻ, giao lưu với người dân trong đó có dân oan, những nhà dân chủ, đại diện các tôn giáo, các hội đoàn… thì sao biết được lòng dân thuộc về đảng? độc đảng, độc tài, độc trị thì sao gọi là ưu việt, là văn minh tiến bộ?. 

Nhân dân VN luôn tôn trọng sự công bằng, bác ái và bao dung. Mọi tổ chức trong xã hội sẽ sẵn sàng giúp sức cho đảng CSVN lớn mạnh, tốt đẹp hơn và công nhận sự lãnh đạo, cầm quyền của đảng đối với đất nước nếu đảng CSVN thực sự chính danh, chiếm được đa số người dân ủng hộ, trao quyền lãnh đạo đất nước được thể hiện công khai trên một sân chơi công bằng và minh bạch, bằng lá phiếu của chính mình. Để thực hiện điều đó chỉ có một con đường duy nhứt là “đa nguyên chính trị”, đa đảng cùng nhau cạnh tranh tích cực để vạch ra phương án tối ưu nhằm phục vụ tốt nhất cho Tổ Quốc, Nhân Dân.

Đôi dòng về thuật ngữ “Đa Nguyên”:

"Đa nguyên " (Ngoài chính trị ra, thuật ngữ đa nguyên cũng được dùng với một số nghĩa khác trong ngữ cảnh tôn giáo, kinh tế và triết học...) luôn đồng hành với Dân Chủ, Nhân Quyền, nó là 3 ngọn đuốc sáng soi cho con đường mà mọi dân tộc bước đi để xây dựng một xã hội nhân bản và phồn vinh. Không phải đến gần đây từ "đa nguyên" mới xuất hiện để đối kháng lại với "đơn nguyên" của chế độ độc tài, độc trị mà CS áp đặt trên các nước bị nhuộm đỏ... mà nó đã có từ giữa thế kỷ thứ 4 sau công nguyên để lập nên những giá trị làm nền tảng cho những cộng đồng xã hội ngoại KiTô giáo sống thích nghi, sinh tồn trong xã hội mà lúc bấy giờ là thời hoàng kim của xã hội KiTô giáo. Chính những giá trị tinh thần của cộng đồng xã hội ngoại KiTô đó đã khiến cho những vị đứng đầu Giáo Hội Ki Tô đầy quyền lực chấp nhận cho một sự thỏa hiệp, một sự hòa mình sống chung với nền văn hóa đặc thù của xã hội ngoài KiTô tương phản với KiTô Giáo (có thể gọi là đối lập) một cách hòa bình. Những giá trị đó là "Đa nguyên". Từ đó qua hàng thế kỷ xã hội đa nguyên phát triển không ngừng trong xã hội Châu Âu với phương châm "Tương đồng trong dị biệt". Sau này triết gia Pierre Abelard (1079-1142) đã nói rõ nguyên lý này rằng: "Diversa non Adversa" (tương phản nhưng không là địch thủ) và từ đó "Đơn nguyên" Ki Tô Giáo đã trở thành "Đa nguyên".

Khái niệm về "Đa nguyên" đã được các nhà chính trị, văn hào như Benjamin Constant, Alexis de Tocqueville tôn vinh như một con đường sáng để đem lại an lành, hòa bình cho xã hội.

Còn Nietzche thì cho rằng Đa nguyên bắt nguồn từ Đa Thần Giáo, việc tạo tác các thần linh cùng các vị Anh Hùng cùng những sự vật phản ánh bản năng phóng khoáng, đa dạng của tư tưởng con người và nó cũng là khát vọng của bản ngã, của mọi con người, của mọi tầng lớp trong xã hội.

William James thì cho rằng Đa Thần biểu hiện tính chất "Đa nguyên" của vũ trụ, là tổng hợp những hình thái và nguyên lý bao trùm vũ trụ.

Theo Aristote thì con người có 2 động cơ chính là quyền sở hữu và cảm tình. Hai yếu tố này không có vị trí trong xã hội "Đơn nguyên" khép kín của Platon, Hegel, Marx. Xã hội đa nguyên rộng mở trái ngược với xã hội đơn nguyên khép kín (CSCN) xem sự tự do, sở hữu cá nhân từ vật chất đến tinh thần đều là những trở lực, là thù địch với thể chế đơn nguyên độc trị.

Còn rất nhiều các triết gia, chính trị gia nổi tiếng nói về đa nguyên nữa nhưng tựu chung lại tất cả đều cùng một tư duy về đa nguyên là sự gắn kết không thể tách rời của sự sống (muôn loài) với thiên nhiên, vũ trụ luôn đa dạng muôn chiều... qua đó đa nguyên bao trùm, chất chứa tinh thần thực tiễn, đối nghịch lại với mơ hồ ảo tưởng. Đồng thời Đa nguyên song hành với phương pháp luận thực nghiệm (Pragmatisme). Có một điều ta thấy "Đa nguyên" nó gần gũi với sự mong mỏi của người dân và xã hội VN hiện nay là nó "chấp nhận đối thoại", chấp nhận ý tưởng phát kiến của cá nhân không phân biệt dân tộc, tôn giáo hay quốc gia nào và nâng cao sự khiêm tốn, tự trọng, khách quan và bao dung. Đó là nền tảng của đạo đức muôn đời.

Nói tóm lại, với những nhận xét và lý luận của các triết gia, chính trị gia trên thế giới xưa nay thì ta có thể nói rằng xã hội đa nguyên là một xã hội rộng mở, nhân văn, đa diện... trái ngược với xã hội đơn nguyên, khóa chặt, độc tài thiển cận mà Platon, Hegel, Marx đã đề cao.

Từ xa xưa cũng chính cái ý tưởng của xã hội đa nguyên là nguyên nhân cho sự tan rã của các xã hội đơn nguyên khép kín mang hình thái bộ lạc, lạc hậu thiếu nhân bản và nhân văn. Cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 thế kỷ trước với sự sụp đổ của bức tường Berlin, hệ thống CNXH ở LX và Đông Âu cũng không là ngoại lệ.

Ngày nay trước thềm vận hội mới trong gam màu đa sắc của bức tranh chính trị thế giới nếu đảng CSVN chịu mở rộng tầm nhìn, đoạn tuyệt với bảo thủ, thiển cận, tự mãn, tự hào, tự kiêu… và tỏ ra thật chân thành trong chiều hướng muốn HGHHDT nhằm xóa bỏ mọi đố kỵ hận thù, xoa dịu, hàn gắn vết thương do chiến tranh phi nghĩa gây ra cho toàn dân thì trước hết phải chấp nhận đa nguyên chính trị, đa tổ chức xã hội, đa đảng cạnh tranh lành mạnh công khai trên vũ đài chính trị, thành tâm hối lỗi chuộc lại sai lầm trong quá khứ… thì cánh cửa HGHHDT sẽ từ từ hé mở đón nhận những bước đi ban đầu hướng về phía trước. Còn ngược lại thì chính đảng CSVN tỏ tường hơn ai hết.

Liệu con đường HGHHDT có khả thi với những sư kiện như sau: 

Tôi xin lược dẫn một số sự kiện, dữ liệu tiêu biểu nếu đảng CSVN lý giải một cách thành tâm, nhìn nhận sự thật thì tôi tin rằng con đường “HGHHDT” sẽ có cơ hội khả thi.

Thời gian gần đây rộ lên từ hải ngoại đến quốc nội cụm từ “Hòa giải-Hòa hợp Dân Tộc”. Tôi nghe câu này mà ngẫm nghĩ lại trong thời gian dài gần thế kỷ qua nơi vũ đài chính trị VN mà chẳng biết nói sao đành mượn lời của cụ Nguyễn Tiên Điền“Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Không đau lòng sao được? Khi nhân dân VN như một cô “Gái quê” chân ướt chân ráo lạc bước lên chốn thị thành đô hội dưới ánh sáng muôn màu và bầy chồn cáo, cuối cùng “em đã bị sa chân”. Với bản chất hiền hòa và chơn chất làm sao mà có sự đề phòng, chuẩn bị để đối phó với kẻ lưu manh, điếm ngôn xảo ngữ nói một đàng rồi làm một nẻo? để chứng minh cho điều đó tôi xin sơ lược qua từng bước.

Kể từ những năm 40s của thế kỷ trước. Hồ tập Chương đã chiêu dụ các thân hào chí sĩ, các tên tuổi lớn yêu nước VN cùng nhau đứng chung dưới mái nhà “Chính phủ liên hiệp” để chung tay chống đế quốc Pháp cứu sơn hà, thử hỏi ai mà không ủng hộ?. Nhưng thật ra đây chỉ là một ngôi nhà ma của loài quỷ dữ ngụy tạo để điểm mặt từng người và dễ dàng tiêu diệt, hầu loại trừ đối thủ sau này có thể cản trở con đường "cách cái mạng" của nhân dân mà bán nước. Tất nhiên xong việc, ngôi nhà ma đó sẽ trở thành nghĩa trang mai táng các nhà chí sĩ chân chất yêu nước VN.

Sau khi Hồ tập Chương và đồng đảng đã đứng lên “cướp” chính quyền từ tay nhân dân do học giả, Thủ Tướng Trần trọng Kim đứng đầu. Từ đó xây dựng lên một nhà tù lớn trên toàn cõi Miền Bắc VN mà ngụy danh là nước VNDCCH và ra tay tàn sát nông dân (CCRĐ) kể cả những người yêu nước và từng cưu mang cả bộ sậu chóp bu đảng cướp CSVN. Tàn sát giam cầm, khổ sai văn nghệ sĩ (NV-GP) vì bản chất CS rất sợ trí thức với lý do gì ai cũng hiểu mà tôi không phải phân tích, dẫn chứng ra nhiều.

Cũng trong những năm 40s khi thế chiến thứ 2 kết thúc thì phong trào độc lập của các nước thuộc địa trên toàn thế giới nở rộ như nấm mọc sau mưa…. đó là xu thế của thời đại. Hầu hết từ Phi sang Á không một nước nào phải bỏ ra một giọt máu để giành độc lập, tự do. Thế mà tập đoàn Hồ tập Chương và bè lũ đã ngu muội nghe theo lời xúi dục của CS Nga-Tàu đem máu xương nhân dân chôn vùi nơi thung lũng Điện Biên và ngửa mặt xưng là chiến thắng “kinh thiên động địa-rúng động năm châu” với tâm thức thằng Bờm ngửa mặt nhận nắm xôi từ tay phú ông Mao-stalin.

Tiếp diễn bản chất của một kẻ dối lừa. Hiệp định Genève được ký kết để chấm dứt sự hiện diện của quân đội Pháp ở Đông Dương. Qua hiệp định này Lập trường của nước VNDCCH mà đại diện là ông Phạm Văn Đồng đã nêu lên và đưa vào nội dung hiệp định 8 điểm trong đó điểm thứ 3 như sau: "Tổ chức tổng tuyển cử tự do trong 3 nước nhằm thành lập chính phủ duy nhất cho mỗi nước".

Thế nhưng sau khi hiệp định được ký kết đúng ra toàn bộ lực lượng CS phải rút hoàn toàn về Bắc bên kia vỹ tuyến 17 để chuẩn bị tổng tuyển cử. Vậy mà CSVN chỉ rút một phần trên hình thức để che mắt Quốc Tế. Bộ phận nòng cốt được bí mật cài ở lại Miền Nam VN để làm cơ sở, hậu thuẫn cho cuộc chiến sau này cưỡng chiếm MNVN như đã định sẵn. Rõ ràng hiệp định ký một nơi mà thi hành một nẻo. Lừa đảo nhân dân Miền Nam lúc đó rằng cán bộ chỉ đi tập kết ra Bắc thời gian 3 năm để chờ tổng tuyển cử. Thế rồi chồng vợ, cha con, người thân tan đàn xẻ nghé đằng đẵng 21 năm trời mà vết thương đó đến mãi hôm nay vết sẹo vẫn chưa mờ.

Đốt dãy Trường Sơn. Làm tay sai cho Nga-Tàu đẩy gần 5 triệu quân dân, nam nữ thanh niên VN nướng vào chảo lửa Trường Sơn để mang chủ nghĩa vỹ cuồng nhuộm đỏ Đông Nam Á. Nếu không phản bội hiệp định Genève, cài đảng viên CS ở lại Miền Nam chuẩn bị mưu đồ và thực hiện tổng tuyển cử thì làm gì có cuộc chiến tranh tương tàn nồi da xáo thịt, để sau ngày 30/4/1975 huênh hoang rằng đảng đem lại hòa bình, thống nhất cho dân tộc???

Dựng ngọn cờ đánh Mỹ ư? Đuổi Mỹ ư? Vậy tại sao sau khi hiệp định Paris ký kết vẫn tiếp tục bắn giết anh em? Đốt phá làng mạc gọi là khúc ruột Miền Nam khi không còn một người Mỹ nào trên đất nước Miền Nam Việt Nam? rồi cũng xảo trá cam kết thực hiện “hòa hợp, hòa giải dân tộc” như trong hiệp định Paris điều 11 khoản IV:

Ngay sau lệnh ngừng bắn, hai phía miền Nam Việt Nam:

- Thực hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận thù, nghiêm cấm mọi hành động thù địch, kỳ thị nhằm vào các cá nhân hay tổ chức đã từng cộng tác với bên này hoặc bên kia.

- Bảo đảm tự do dân chủ cho nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do di trú, tự do làm việc, quyền tư hữu, quyền tự do kinh doanh.

Hòa giải, hòa hợp dân tộc xóa bỏ hận thù ư? Gần triệu người dân quân cán chính VNCH xương bỏ núi đồi, máu rơi rừng sâu sông suối… xương cốt đa phần đến ngày nay vợ con cũng chưa được thấy tìm… cả triệu người dân MNVN đàn bà, trẻ nít phải bỏ nước ra đi một số lớn đã chìm thây trong lòng biển làm mồi cho cá, phụ nữ là nạn nhân cho hải tặc làm nhục trước mặt chồng con rồi xác thân cũng trôi theo dòng nước. Ai mà không có một quê hương, một nơi chôn nhau cắt rốn? Ai mà không có một cõi đi về, nơi đó là Quê Hương mà “Quê hương là chùm khế ngọt… quê hương là cầu tre nhỏ… là đêm trăn tỏ... Quê hương nếu ai không nhớ! Sẽ không lớn nổi thành người…” (Đỗ trung Quân). Như vậy mỗi người VN phải đứt ruột đành bỏ Tổ Quốc để chịu kiếp “ly hương” thì cái động lực và nguồn cơn không hề nhỏ, với trang viết này không đủ để tỏ bày.

Cũng trong điều 11 khoản IV HĐ Paris những cái tự do mà nhân dân MNVN phải có cũng đều bị CSVN tước đoạt. Các tù nhân lương tâm VN đang đứng sau hàng song sắt của nhà tù CS là gì? Có phải những người có dũng khí, can đảm đứng lên đòi lại những quyền tự do mà trong điều 11 khoản IV HĐ Paris đã ghi rõ?

Như vậy hầu hết người dân VN bỏ nước ra đi sau ngày Quốc hận 30/4/1975 dứt khoát đều mang trong lòng một nỗi hận, nỗi đau không dứt… Thế thì ngược thời gian một chút, tôi xin hỏi ông Trương tấn Sang ngày 25/7/2013 trong buổi diện kiến Tổng Thống Mỹ B.Obama ai đã cho phép ông thay mặt người VN ở Mỹ- Những thuyền nhân bỏ nước ra đi tránh họa cộng sản- để nói lời “Cảm ơn nước Mỹ đã tạo điều kiện cho người Mỹ gốc Việt được thành công trên cả hai lĩnh vực kinh tế và chính trị.”??? Lúc này nhìn qua lớp kính màn hình ai cũng thấy bản mặt của Trương tấn Sang dày như một lớp vữa của một bức tường ô nhục, rêu phong mục nát sắp đổ nhào.

Trở về với vấn đề hòa giải- hòa hợp dân tộc. Suốt từ đầu bài viết cho đến đây tôi đã tạm nêu ra một số ít trong vạn ngàn trường hợp có liên quan và những điểm trong chính sách mà CSVN có đề cập đến trong lĩnh vực hòa hợp-hòa giải dân tộc. Ở điểm này tôi xét thấy vấn đề hòa hợp-hòa giải dân tộc nó có hai tình huống. Thứ nhất là về mặt địa chính trị nếu CSVN ở thế cân bằng hay thượng phong thì chiêu bài hòa hợp-hòa giải dân tộc chỉ là các điều khoản trên bàn hội nghị, bàn giấy mà thôi. Nghĩa là cứ hứa suông, ký suông để đạt được mục đích, tham vọng và sau cùng thì cái hòa hợp- hòa giải đó sẽ đi vào quên lãng… chưa nói là rơi vào sọt rác… và nước cờ sắp sẵn cứ tiến lên từng bước như sau hai hiệp định Genève và Paris mà ta đã rõ, kể cả gần đây để được vào WTO, UBNQLHQ… thì CSVN cũng cam kết, hứa hẹn thực thi các điều khoản được các tổ chức thế giới đặt ra. Nhưng khi đã đạt được mục đích thì những lời hứa hẹn, cam kết kia cũng bay theo gió mà mai một với thời gian… rồi mọi sự tệ hại, xấu xa… bị thế giới chỉ trích, cười chê vẫn đâu vào đấy như cũ.

Với sự gian xảo cộng thêm lỳ lợm và vô sỉ thì CSVN không ngại một điều gì miễn sao đạt được ý đồ cho dù là sự nghiệp đó được xây dựng trên nền tảng vô đạo.

Thứ 2 nếu CSVN ở trong thế hạ phong và bị bao vây, cô lập. Thì chiêu bài hòa hợp- hòa giải dân tộc là kế hoãn binh, sống chung, hòa mình để tìm kẽ hở, điểm yếu của đối phương và chờ ngày phục hận và tiêu diệt như chúng đã làm với chiêu bài chính phủ liên hiệp năm 1946.

Ngọn Đông Phong cùng với lửa lòng dân tộc- Dòng thác cách mạng thứ 4- đã thổi lên và ngùn ngụt cháy khắp mọi miền đất nước. Bắt đầu những đóm lửa hồng là những năm đầu của TK 21. Thế là năm 2004 nghị quyết 36 của bộ chính trị T.Ư đảng CSVN đã bày ra với khúc ruột ngàn dặm.

Trong những năm cuối của TK trước và xa hơn nữa CSVN cũng đã bí mật lập ra những chi bộ đảng hoạt động lén lút ở hải ngoại từ Mỹ-Canada-Úc và Châu Âu. Với mạng lưới này chúng len lỏi xâm nhập vào cộng đồng người Việt hải ngoại và các tổ chức chính trị đối kháng lại với chế độ độc tài CSVN. Chưa thấy đủ, CSVN cũng trong NQ36 đó đã đưa tên Nguyễn thanh Sơn thứ trưởng bộ Ngoại Giao CSVN làm chủ nhiệm UB về người VN ở nước ngoài với nhiệm vụ “kiều vận”. Đến những năm gần đây nền KTVN bắt đầu thoi thóp chết lâm sàng với gần 400 ngàn/700 ngàn doanh nghiệp đã phá sản và khai tử, còn lại cũng đang lao dốc và gần chạm đáy. Những cú đấm thép của 3 Ếch Mit tơ Bin đã gãy càng sứt gọng. Lớp thì chìm vào đáy biển như Vinashin, Vinalines, Vinaconex… lớp thì chờ ngày hạ huyệt như Than khoáng sản, Tổng Cty Sông Đà… số còn lại thì giở trò bịp bợm tăng giá sản phẩm từng ngày móc túi nhân dân để bù vào khoảng chúng đã bòn rút mà xảo ngôn là “bù vào khoảng lỗ”… như EVN, VNPetro… hòng kéo dài sự sống. Thế thì con số mỗi năm gần 20 tỉ USD kiều hối đổ về là cả “một chùm khế ngọt”nếu CSVN quên đi thì hơn 3,5 triệu đảng viên “sẽ không lớn nổi thành người…”.

Nhưng sự đời thật trớ trêu. Tạo hóa đã sinh ra loài Công, loài Phụng với bộ lông muôn hồng ngàn tía, lại múa giỏi hát hay. Ngược lại loài kênh kênh đã xấu xí hằng ngày chỉ biết bu vào xác thối mà rút tỉa, giựt giành! CS là loài “Bất tri lý” như trong những bài viết trước đây tôi đã nói. Đã bất tri lý thì không phân biệt được phải trái đúng sai, đen trắng… là loại đần độn. Tên Nguyễn thanh Sơn mà người Việt hải ngoại còn gọi là “Sơn heo” nhìn bản mặt là biết xuất xứ. Trong lúc nhiệm vụ mà đảng của hắn ta giao cho hắn là kiều vận. Thế nhưng tôi nhớ không lầm là vào những ngày cuối của tháng 7/2013 khi ông Trương tấn Sang qua chầu Nhà Trắng. Để phản đối tập đoàn CSVN bán nước, một số đông người Việt hải ngoại đã biểu tình khi Trương tấn Sang diện kiến TT Obama. Trước sự kiện trên tên Nguyễn thanh Sơn nói với phố Bolsa TV rằng: “có những người chỉ vì đồng tiền, có những người chỉ vì nhu cầu cuộc sống, có những người chỉ vì có một chút thu nhập thêm mà tham gia những hoạt động…" và còn nhiều phát biểu khác gây phẫn nộ trong cộng đồng người Việt hải ngoại.

Như vậy công tác “kiều vận” của tên Sơn mà đảng CSVN đã giao cho hắn đã bị phá sản không làm nên chuyện mà còn gây phản tác dụng nữa. Đáng lẽ ra thì cái đảng thổ tả, quái thai này phải lôi đầu hắn về nước mà trị cái tội “Ngu mà láo”. Nhưng chúng ta cũng nên nghĩ lại. Hãy nghe tên Nguyễn sinh Hùng chủ tịch Quốc hội, một trong tứ trụ triều đình phát biểu vào ngày 12/6/2010 trước phiên chất vấn của các ĐB Quốc hội rằng “Hôm nay thấy sai một chút chỗ này, xử lý cách chức đi, kỷ luật đi. Ngày mai thấy sai chỗ kia cách chức đi, kỷ luật đi. Lấy ai làm việc nữa các đồng chí?” các bạn nghĩ sao? Hết biết. Cái đất nước này là của riêng của đảng CSVN?.

Vậy để đem lại độc lập tự do, dân chủ và nhân quyền cho đất nước, dân tộc VN bằng con đường hòa hợp-hòa giải có khả thi? Biết rõ điều này nên trên lộ trình tìm kiếm con đường hòa giải-hòa hợp để kéo dài sự tồn tại của chế độ. Nguyễn thanh Sơn luôn né tránh phạm trù “hòa giải” mà chỉ đề cập đến “hòa hợp” mà thôi.

Lược qua từ trên ta đã thấy rõ giữa hai con người Quốc-Cộng có hòa giải được những món nợ trong quá khứ? Mà nhất là những món nợ đó nó kết dính ăn sâu như tế bào ung thư đã di căn vào lục phủ ngũ tạng. Những vết thương đó nó không phai mờ mà nó thẩm thấu qua các thế hệ sau đời F2-F3… Ta hãy nhìn cảnh cháu nội của người tù xuyên thế kỷ Nguyễn hữu Cầu (lúc ông còn trong ngục thất) trên những bước đường xuôi ngược, nước mắt trải suốt quãng đường đi đến trại giam để thăm nuôi và suốt thời gian qua là nuôi bệnh cho ông trong những ngày trên dương thế, không biết ngắn dài, do hậu quả của tù đày tra khảo. Làm sao trong những giấc ngủ của vợ và 3 người con gái của nhà giáo yêu nước Đinh đăng Định được bình yên? Làm sao trong những bữa ăn của những người vợ trẻ, con thơ của anh Ngô thanh Kiều Phú Yên, Nguyễn công Nhựt Bến Cát-Bình Dương, cô Trịnh Kim Tiến con gái của nạn nhân Trịnh Xuân Tùng Hà Nội cùng nhiều, nhiều nạn nhân khác không chan bằng nước mắt? Làm sao trong những cơn mưa dầm hay dông bão, gió mùa đông bắc lùa qua, hàng vạn dân oan đầu bờ cuối bãi với cảnh màn trời, mà không tê buốt cõi lòng? Cách đây 76 năm (1939) cố nhạc sĩ Nguyễn văn Thương cũng đã chia sẻ trong cảnh gió lạnh đêm đông chỉ với tâm trạng của người lữ khách qua đường “…có ai thấu tình cô lữ đêm đông không nhà…???”.Trong những đêm đông không nhà có cụ già dân oan đã chết giữa công viên không một chiếc chiếu quàng thây.

Thế thì làm sao mà “Giải”? không giải được thì lẽ nào mà “hợp”??? Ví như trong một gia đình anh em bằng mặt chứ không bằng lòng, liệu cuộc sống có được bình yên và lâu dài? Nếu có bị gò ép trong tư thế chẳng đặng đừng thì cũng chỉ tính bằng ngày một với ngày hai.

Nếu muốn đi đến ngôi nhà dân chủ qua cửa ngõ “hòa hợp-hòa giải” thì ít ra thành phần đôi bên phải thật sự thành tâm. Đàng này hòa hợp-hòa giải mà một bên chỉ là kế hoãn binh để tìm phép màu hay tạo thêm mưu kế hòng hóa giải mà trong lòng luôn chất chứa súng đạn, bom mìn và một rừng âm mưu sâu độc thì đó là miệng lưỡi của những tên chính trị lưu manh hay đúng hơn là “điếm chính trị” với lời hoa mỹ giáo điều “niềm tin chiến lược” và “thành tâm chính trị” của những tên bồi bút, đĩ bút lấp ló sau lưng mách nước như cảnh “nhắc tuồng” trên những sân khấu rẻ tiền với những diễn viên vừa dốt lại vừa ngu mà bản chất thì lưu manh gian dối.

Con đường ngắn nhất để đi đến tự do, dân chủ, nhân quyền cho VN mà không đổ nhiều máu xương là đảng CSVN tự biết sức mình, nhận biết được sứ mạng lịch sử không còn nữa, từ bỏ mánh lừa “HGHHDT” hòng kéo dài sự sống và mau trao trả lại quyền lực cho nhân dân để còn hưởng được chút hồng ân trước khi cáo chung chế độ. Với đức bao dung sẵn có, dân tộc VN sẽ không cấm kỵ một khi những người cộng sản sau khi sám hối vẫn còn muốn tham gia chính trường… trên một sân chơi công bằng, minh bạch, tích cực và văn minh!

Nếu CSVN vẫn không từ bỏ thói gian manh, lọc lừa xảo trá… thì tôi xin nói một điều rằng và cũng là lời kết cho con đường HGHHDT VN.

- Bạn đã có bao giờ sống chung với lũ chưa? Ngày nào bạn chưa thoát hẳn lên bờ thì ngày đó bạn còn có thể bị lũ nhấn chìm bất cứ lúc nào chưa biết!

Và rằng - Cộng sản như loài virus… chúng chỉ ẩn náu ở một nơi nào đó trong cơ thể chúng ta khi chúng yếu. Đợi khi cơ thể chúng ta suy kém hay có vấn đề là chúng chui ra hoành hành và vật ngã chúng ta ngay.

Cuối cùng tôi cũng xin nhắc nhở cùng ông Nguyễn phú Trọng rằng chớ lú lẫn mà lặp lại lời cảm ơn chính phủ Hoa Kỳ như ông Trương tấn Sang đã trơ trẽn nói với ngài TT Hoa Kỳ B.Obama hai năm về trước.

22/06/2015

Nguồn 
: DLB