19 février 2017

Vào ngày 17 tháng 2 năm 79




Hai người lính: Binh nhì Quốc Phong (trái) và họa sĩ Đặng Kông Ngoạn của báo Nhân Dân trước khi nổ ra cuộc chiến tranh biên giới phía bắc ngày 17.2.1979



 "Không lẽ người cầm súng đánh Pháp, đánh Mỹ thì được suy tôn, còn người đánh kẻ đến nước ta tàn phá, giết chóc tàn bạo nơi biên giới phía bắc năm xưa lại cứ ngậm ngùi mãi vậy sao? Các thế hệ con cháu sau này họ sẽ nghĩ gì về chúng ta hôm nay?".


Tôi nhập ngũ ngày 25.11.1978, tức là vào lúc nước nhà đang sôi sục bởi những cuộc tấn công của lực lượng Khơ me Đỏ ở biên giới Việt Nam - Campuchia sang đất Việt ta. Mỗi ngày, tin tức về những cuộc tàn sát đẫm máu với những người dân vô tội ở biên giới Tây Nam cứ dội về, bằng nhiều kênh khác nhau nhưng cũng phải nói, thông tin trên báo chí thì lại không nhiều. Đồng bào cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài đều đứng ngồi không yên...

Lúc đó, tôi đang còn ở đơn vị huấn luyện tân binh của Sư đoàn 433, Quân khu 3, chưa bổ sung cho hướng chiến đấu nào. Nhưng ngày 17.2, quân Trung quốc tràn sang biên giới phía bắc với câu nói trịch thượng của Đặng Tiểu Bình là "dạy cho Việt Nam một bài học".

Trước khi nhập ngũ, tôi đang là biên tập viên của Tạp chí Thanh niên thuộc Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Lẽ ra, tôi đã lên đường nhập ngũ từ tháng 8 năm đó. Song, đến sát ngày lên đường thì cơ quan Trung ương Đoàn phát hiện ra tôi là con trai duy nhất của gia đình. Mà đây lại là đối tượng được Nhà nước cho tạm hoãn nhập ngũ (khi đó, tuy là thời chiến nhưng vẫn chưa phải là giai đoạn cao điểm nên có một số đối tượng được tạm hoãn, ví dụ nếu là công nhân bậc 5, nhân viên hành chính bậc 6, cán bộ tốt nghiệp đại học mà trong nhà chỉ có một con trai, dù còn có chị em gái... thì đều được tạm hoãn).

Thế rồi, cuộc chiến cứ ngày một căng thẳng thêm ở cả hai đầu đất nước khiến cho áp lực tuyển quân ngày một lớn. Vậy là đợt gọi nhập ngũ 25.11.1978, tôi vẫn có tên và lên đường chiến đấu để thay cho một người khác (cũng là một đơn vị của Trung ương Đoàn như tôi). Anh xin phép về quê cưới vợ, nhưng rồi đến ngày, anh vẫn chưa lên. Sau này, nghe nói anh báo cáo tổ chức là do bị ốm nên không thể lên. Mà ngày đó làm gì có điện thoại ở nhà. Muốn nói chuyện thì phải ra bưu điện huyện mà gọi theo giờ đăng ký. Và nếu có gửi một bức điện tín về nông thôn cũng phải 2 ngày mới đến. Với truyền thống của cơ quan Trung ương Đoàn, việc để thiếu quân giao nộp là chuyện không thể chấp nhận. Vì thế, tôi trở thành nhân vật "cờ bí thí tốt".

Tuy là đối tượng được tạm hoãn, nhưng thấy gọi đến mình lần 2 tôi vẫn vui vẻ lên đường mà không hề viện dẫn chính sách khi đó để xin ở lại. Có lẽ, với riêng tôi có cả 2 lý do: Thứ nhất, cái không khí hừng hực của một đất nước sắp nổ ra chiến tranh, khiến người thanh niên nào cũng không đành ngồi im, né tránh trách nhiệm; Thứ hai, tôi lại là cháu họ của Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn khi đó là ông Đặng Quốc Bảo. Nay nếu mình mà nại lý do nằm trong diện "chính sách quy định" mà không đi, e rằng có khi ở lại cơ quan thêm ngày nào lại mang tiếng cho ông Bảo. Biết đâu có người đưa chuyện lại bảo do tôi "là cháu ông Bảo nên được tổ chức xét ưu tiên" này nọ nên mới được tạm hoãn... Như vậy thì sau này, dù tôi có rèn luyện, phấn đấu thế nào chăng nữa cũng chỉ là chuyện giả tạo - dưới con mắt người ngoài nhìn vào. Tôi nghĩ thật lòng như thế nên đã ra đi thanh thản...

Thời kỳ đó, tinh thần dũng cảm của chiến sĩ biên phòng Lê Đình Chinh tại biên giới phía bắc khi đấu tranh bảo vệ chủ quyền đã hy sinh anh dũng hình như đã tiếp lửa cho lớp trẻ chúng tôi. Thật rất lạ! Nó có sức mạnh tinh thần thật ghê gớm mà sau này, khi đất nước yên bình, có thời gian nghĩ lại cũng rất khó lý giải. Đặc biệt là những bài hát "đặc chính trị" kiểu như "Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới..." sao có sức mạnh kỳ lạ, khơi dậy ý chí bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc đến vậy.

Xin quay trở lại ngày 17.2.1979. Tôi được vị chỉ huy đại đội huấn luyện tân binh cho về tranh thủ thăm nhà 3 ngày để đi chiến đấu ở mặt trận Campuchia. Thật không ngờ, sáng hôm sau, 17.2.1979, Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam đưa bản tin đặc biệt: Trung Quốc phát động chiến tranh toàn biên giới phía bắc. Ai nghe tin sáng hôm đó cũng thật bất ngờ cho dù ai cũng ít nhiều có thông tin về tình hình biên giới ở cả hai đầu đất nước, đang rất căng thẳng. 

Sợ đơn vị mình sẽ di chuyển sớm, tôi lo sẽ khó tìm để đuổi theo đơn vị nên cha tôi đã đưa ra bến xe và về đơn vị trước hạn. Trở về đơn vị gấp mà lòng cảm thấy nhẹ đi nhiều khi nhìn thấy đồng đội tôi vẫn ở đó dù đúng ngày đó, gia đình tôi chuyển nhà từ khu Thủ Lệ (quận Ba Đình) về khu Vĩnh Hồ (quận Đống Đa, Hà Nội) mà không giúp được gì cho gia đình...

Cũng do tình hình đột biến này, khi điểm danh và đọc quyết định thì tôi được tách ra khỏi đại đội để rút lên cơ quan Bộ Tư lệnh Sư đoàn 433. Tôi được giao nhiệm vụ cùng anh Công Ngoạn, họa sĩ của báo Nhân dân làm tờ Tin nội bộ, in roneo, gọi là "Tin Sư đoàn". Công việc chưa được mấy tuần thì Sư đoàn 433 được lệnh tách làm đôi. Tôi được phiên sang Ban Tuyên huấn Sư đoàn 319 để tăng cường cho biên giới phía bắc. 

 
Tiểu đội tân binh thuộc E104, F433 đóng tại Bút Sơn, Phủ Lý, Hà Nam




Sau này, tôi được biết một điều thật đau xót. Đơn vị cũ của tôi được chi viện cho mặt trận phía nam mà lớp lính mới tò te như tôi ở cùng tiểu đoàn huấn luyện ngày đó đã thật không may (họ phần lớn là sinh viên đang học dở đại học). Lớp tân binh đó vừa mới bước qua cửa ngõ biên giới với Campuchia chưa bao xa thì có tới gần nửa đại đội cũ của tôi đã vướng phải mìn lá của Khơ me Đỏ. Họ bị thương vong quá nặng, mà lại toàn bị tiện đứt ống chân, trong khi họ chưa được đánh một trận nào. Tôi đã may mắn không bị như các anh. Thật đau xót và ngậm ngùi!

Chiến sự 17.2.1979 ở biên giới phía bắc đâu chỉ diễn ra vài ngày mà nó còn kéo dài khá nhiều năm (đến khoảng năm 1989). Nhiều người bạn đồng lứa với tôi đã hy sinh trong cuộc chiến đấu ấy. Người còn sống thì vẫn tiếp tục bám trụ kiên cường trên những mỏm núi cao, họ giữ chốt để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của ông cha.

Có những khó khăn, gian khổ rất bình thường nhưng cũng thật dễ sợ mà sau vài chục năm, nay có nói lại với lớp trẻ, họ cũng không thể hình dung nổi: Bộ đội ta khi đó ở trên chốt, ăn uống thì kham khổ đã đành, nhưng vài ngày mới được"tắm" một lần nhưng mà là tắm... khô thì cơ cực lắm. Tức là phải kỳ cọ khan cơ thể mà không có giọt nước nào, sau rồi xoa một thứ hợp chất giống như cồn khô để sát trùng, mát lạnh. Đó là một hợp chất do ngành quân y hồi đó chế ra, nó cũng hơi giống với dạng khăn ướt của ta sau này. Thực chất, chỉ để xoa vào người nhằm tẩy khô, vệ sinh cho đỡ mắc bệnh ngoài da chứ không hề được tắm rửa. Chờ hết đợt trực chiến, họ lại xuống núi thay nhau tắm rửa, nghỉ ngơi. Và, họ lại đổ máu và hy sinh cũng không ít vì những viên đạn bắn tỉa hiểm hóc, đầy khiêu khích từ phía bên kia biên giới. Lúc nào, những họng súng đó cũng rình rập họ.

Tôi có may mắn nằm ở tuyến 2, không phải là đơn vị chiến đấu trực tiếp như các anh và đó cũng là may mắn thứ 2 trong 9 năm khoác áo lính. Ấy vậy mà suốt mấy chục năm qua, cả người đã mất trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên cương phía bắc lẫn người thân của họ còn sống và cả những cựu chiến binh, cứ mỗi năm vào ngày này, 17.2. lại thêm một lần ngậm ngùi vì họ không được suy tôn, tưởng nhớ. Không lẽ người cầm súng đánh Pháp, đánh Mỹ thì được suy tôn, còn người đánh kẻ đến nước ta tàn phá, giết chóc tàn bạo nơi biên giới phía bắc năm xưa lại cứ ngậm ngùi mãi vậy sao? Các thế hệ con cháu sau này sẽ nghĩ gì về chúng ta hôm nay? Việc xây dựng ở nơi biên cương một tượng đài tưởng nhớ các chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc mà sao đã gần 40 nay nay vẫn chưa xây nổi?

Tôi cũng thấy ấm lòng sau nhiều năm im ắng, khi năm 2015, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã có cuộc tiếp xúc với cựu chiến binh các sư đoàn 313, 314, Quân khu 2, đơn vị đã hy sinh cả ngàn người ở Vị Xuyên, Hà Giang trong thời kỳ chiến tranh biên giới phía bắc nhiều năm trời (1984-1988) vào dịp kỷ niệm ngày Thương binh liệt sĩ để tri ân họ và có lời hứa sẽ thực hiện ý nguyện này.

Quay trở lại với không khí của những ngày đất nước bị quân bành trướng phương Bắc gây hấn, tôi mới hiểu rằng: Khi đất nước bị đe dọa xâm lăng từ các thế lực bên ngoài thì lòng căm giận kẻ xâm lược lại càng bốc cao hơn bao giờ hết. Khi đó, tinh thần dân tộc, tính bất khuất không cam chịu mất nước càng khiến con người ta đoàn kết một lòng hơn hết thảy. Nó mạnh mẽ đến lạ kỳ. Có lẽ khi ấy, chúng ta mới chứng kiến thứ thuốc thử liều cao về tinh thần yêu nước, bảo vệ giang sơn đất nước của mỗi con người Việt Nam ta chuẩn xác nhất.

Từ một đất nước nghèo nàn, Việt Nam ta lại phải kinh qua nhiều cuộc chiến tranh liên miên, chúng ta càng thấu hiểu cái giá phải trả cho một đất nước luôn mong mỏi có hòa bình và sự ổn định. Với chúng ta, chiến tranh, dù chỉ để tự vệ cũng chỉ một sự bất đắc dĩ. Chỉ có hòa bình và ổn định, chúng ta mới xây dựng được cuộc sống no ấm và hạnh phúc.

Tôi rất thấm thía câu chuyện mà ông Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng, khi còn là Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương nhắc nhở chúng tôi trong một dịp đầu năm mới. Đó là cái thời điểm cả nước đang sục sôi vụ giàn khoan 981 của Trung Quốc xâm phạm vào vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Khi đó, nhiều tờ báo tỏ ra thiếu bình tĩnh khi phản ánh, dù rằng cũng chẳng sai gì. Ông Huynh nói chân tình và cũng là nhắc nhở theo lối anh em trong nhà: "Nếu một mình báo chí các cậu mà làm được cái việc giàn khoan Trung Quốc họ rút thì tốt quá, cần gì phải có quân đội đông vậy? Đấu tranh thì cũng cần hết sức tỉnh táo và bình tĩnh và dùng nhiều biện pháp. Chiến tranh là cái điều cực chẳng đã mới để xảy ra. Các chú không thấm thía bằng anh đâu. Trong ngần ấy năm ở quân ngũ thời chống Mỹ, có giai đoạn ác liệt nhất là bảo vệ thành cổ Quảng Trị, anh từng chôn cất biết bao đồng đội. Anh hiểu, chỉ con nông dân như bọn anh là cầm súng và chết nhiều thôi. Anh còn nhớ, đơn vị anh chỉ có một cậu là con cán bộ cấp vụ ở Bộ Ngoại giao hy sinh, có còn ai là con quan chức đâu? Vì thế, nếu có chiến tranh, người dân thường vẫn là đối tượng thiệt thòi, hy sinh nhiều nhất...".

Song, có lẽ, dù ở vào giai đoạn nào của lịch sử, một dân tộc nếu đoàn kết, cùng một lòng chung sức gánh vác trách nhiệm trước vận mệnh của Tổ quốc, biết tôn trọng quá khứ, tôn trọng lịch sử và các thế hệ đã đổ máu hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc thì dân tộc ấy sẽ mãi mãi trường tồn. Một khi lòng dân không yên, thiếu niềm tin vào cuộc sống vì thấy nhiều bất công, oan ức không được giải quyết thấu đáo thì sẽ luôn là những mối lo tiềm ẩn cho một xã tắc khao khát bình yên mà chưa thật yên...

Nhưng có một điều dễ thấy nhất, là tình yêu đất nước trong mỗi chúng ta, sự kiêu hãnh của một dân tộc luôn biết chiến thắng ngoại xâm cho dù nước mình là một nước nhỏ, cũng không giàu có gì, nếu không nói còn rất nghèo. Đó là điều cần được ghi nhận ở người Việt Nam chúng ta. 


Quốc Phong