Ảnh bên: Chiếc UH-1H 576 và phi hành đoàn tại Đại Tân (TQ) sáng sớm 30/9/1981
Lời bình của Hiệu Minh:Vụ này khá đình đám năm 1981, nhưng tôi toàn nghe tin đồn do
các con quan “thổi” lại. Bây giờ họ không cướp máy bay nữa, vì quá nhỏ,
mà cướp luôn cơ quan đầu não.
Dự án chiến lược, cho vay ưu đãi, thương
mại một chiều, 16 chữ vàng, 4 tốt, đàn áp biểu tình chống TQ, những nhà
báo, bloggers có yếu tố chống “bạn” đều được hỏi thăm và cho vào hộp.
Báo chí, an ninh, đảng…nhìn Mỹ là kẻ thù số 1, Trung Quốc là bạn
số…”rách”. Đó chính là những UH1H thời @ và toàn cầu hóa.
Trong khi chiến sự vẫn rất căng thẳng trên toàn tuyến biên giới Việt –
Trung, dịp Quốc khánh Trung Quốc 1/10/1981, Việt Nam bàng hoàng bởi vụ
cướp máy bay trực thăng chiến đấu biên chế ngay tại Sở chỉ huy của quân
chủng Không quân ở sân bay Bạch Mai.
Rạng sáng 30/9/1981, 2 chiến sỹ gác sân bay Bạch Mai (Trụ sở Bộ tư
lệnh quân chủng Không quân) tại Hà Nội bị hạ sát bằng lưỡi lê đâm vào cổ
họng. Chiếc máy bay trực thăng UH-1H với đầy đủ vũ khí và cơ số xăng
dầu đã bị cướp mất. Ít ngày sau, qua Nhân Dân Nhật Báo, cơ quan ngôn
luận của ĐCS Trung Quốc, Việt Nam mới hay tin những người trên máy bay
đã được Trung Quốc biệt đãi, được gặp “lãnh tụ” Hoàng Văn Hoan, được
Triệu Tử Dương tiếp đón.
Sáng sớm ngày 30/9/1981, lực lượng bảo vệ sân bay Bạch Mai phát hiện 2
bộ đội gác sân bay bị hạ sát, ngay sau đó họ đã không thấy chiếc máy
bay trực thăng UH-1H số hiệu 576. Táo tợn hơn, sau khi cất cánh khỏi sân
bay Bạch Mai, chiếc máy bay này còn đàng hoàng hạ cánh xuống phường
Phúc Xá thuộc địa bàn quận Ba Đình đón thêm người rồi mới bay thẳng đi
Trung Quốc trước sự bất lực hoàn toàn của lưới lửa phòng không dày đặc
thời chiến.
Tác giả chính của vụ cướp máy bay này là Thiếu úy Kiều Thanh Lục,
ngoài ra còn có sự trợ giúp của một số sỹ quan, cán bộ quân chủng Không
quân (cùng trốn theo sang Trung Quốc) trong đó đáng chú ý có một người
là cựu sỹ quan không lực Việt Nam cộng hòa được thu dung phục vụ tạm
thời trong quân chủng. Dựa vào chi tiết này, phán đoán ban đầu là chiếc
máy bay đã bay ra hạm đội 7 của Hoa Kỳ (lúc đó Việt Nam vẫn coi Hoa Kỳ
là kẻ thù nguy hiểm nhất). Ngay lập tức, toàn bộ các đồng chí diện “thu
dung” bị đặt dưới chế độ giám sát đặc biệt, kể cả đồng chí từng lái máy
bay ném bom dinh Độc Lập.
Chỉ sau khi Nhân Dân Nhật Báo đăng chi tiết về vụ cướp máy bay và Bắc
Kinh tổ chức họp báo quốc tế rầm rộ với Kiều Thanh Lục, Dương Văn Lợi,
Hoàng Xuân Đoàn và Lê Ngọc Sơn (phi hành đoàn) thì Việt Nam mới ngã ngửa
ra rằng chiếc máy bay đang ở trong tay Trung Quốc.
Sau thất bại quân sự năm 79, Trung Quốc cố thổi phồng vụ này lên,
nâng tầm quan trọng ngang vụ “lão thành cách mạng Đảng Cộng sản VN”
Hoàng Văn Hoan bỏ trốn, đặc biệt lại đúng dịp 32 năm Quốc khánh Trung
Quốc (1/10/1981). Bắc Kinh gọi đây là máy bay đặc dụng biên chế riêng
phục vụ Bộ Chính trị của “tập đoàn Lê Duẩn”.
Những ngày sau, không những “lãnh tụ” Hoàng Văn Hoan mà ngay cả Triệu
Tử Dương (Chủ tịch TQ) cũng đích thân tiếp 10 người đi trên máy bay.
Thậm chí còn có tin, nếu Trung Quốc thành lập “chính phủ” Hoàng Văn Hoan
lưu vong thì những người trên sẽ được Bắc Kinh cơ cấu vào các chức vụ
quan trọng như bộ trưởng Quốc phòng, Tư lệnh Không quân …
Vụ giết bộ đội, cướp máy bay ngay tại sân của quân chủng Không quân
đã trôi qua 33 năm nhưng nhiều câu hỏi lớn vẫn chưa tìm được câu trả lời
thấu đáo. Có hay không bàn tay của tình báo Hoa Nam đạo diễn vụ này? Ai
đã cố tình nạp sẵn nhiên liệu vào máy bay và chuẩn bị các điều kiện cất
cánh khác trong khi quy trình để máy bay cất cánh phải qua nhiều khâu,
nhiều người? Tại sao chiếc máy bay bị cướp có thể lọt qua hàng loạt các
trận địa phòng không bảo vệ Thủ đô và nhiều căn cứ không quân, quân sự
trọng yếu trên đường đi trong khi từ lúc cất cánh đến lúc bị phát hiện
chỉ vẻn vẹn chưa đầy 5 phút, đặc biệt trong bối cảnh lực lượng phòng
không VN đã được huấn luyện kỹ chiến thuật chống trực thăng tầm thấp sau
vụ Sơn Tây 1970.
Nếu không có mật lệnh từ trước, hẳn chiếc máy bay đã bị chính lưới
lửa phòng không của Trung Quốc bắn hạ chứ không thể bay sâu vào nội địa
TQ để hạ cánh xuống huyện Đại Tân (lúc đó Bắc Kinh vẫn duy trì một lực
lượng quân sự khổng lồ trên biên giới Trung – Việt nhằm xâm lược Việt
Nam).
Ngoài ra, không thể không nhắc tới việc một vị lãnh đạo quân chủng
Không quân VN năm ấy, không những không bị kỷ luật mà qua hơn 10 năm,
sau khi thăng lên nhiều cấp của Bộ Quốc phòng, thì bị “biếm” bởi một
quyết định phê duyệt được cho là có “yếu tố Trung Quốc”.