Nguồn: Theo Vef.vn
Tác giả: Quỳnh Mai
Nền kinh tế còn khó khăn, các DN chưa có nhiều cơ hội
làm ăn nên các ngân hàng cũng phải gánh chịu không ít hậu quả. Tốc độ tăng
trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm cho thấy điều này.
Tính đến ngày 2/7/2014, tăng trưởng tín dụng cả hệ thống là 3,6% so với
cuối năm 2013. Con số này thấp xa so với mục tiêu từ 12% - 14% đề ra cho cả
năm.
Trao đổi về vấn đề này, ông Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu
Quản lý Kinh tế Trung ương - cho rằng, con số này không quá bất ngờ bởi nền
kinh tế phục hồi rất chậm chạp, nhiều khó khăn thể hiện rõ nhất là tổng cầu
giảm, do vậy chưa tạo ra xung lực cho sản xuất kinh doanh, cơ hội làm ăn chưa nhiều.
Có thể nhìn nguyên nhân tổng cầu giảm dưới những biểu hiện nào thưa ông?
- Tổng cầu giảm thể hiện rõ nhất ở 3 yếu tố:
Nhìn vào tiêu dùng, thường người ta lấy chỉ số giá bán lẻ để thể hiện
mức tăng tiêu dùng. Hiện nay, chỉ số này là 5,6%, cao hơn chút chút so với 2
năm trước nhưng chưa bằng một nửa so với giai đoạn khi nền kinh tế có tăng
trưởng cao như thời gian sau năm năm ra nhập WTO. Lúc đó mức tăng tiêu dùng là
khoảng 10% thậm chí có lúc là 15%.
Sụt giảm mạnh, rõ nhất của
tổng cầu là mức đầu tư, sau khi ra nhập WTO mức đầu tư trung bình là 42,6% GDP,
nhưng trong năm ngoái và 6 tháng đầu năm tỉ lệ đầu tư so với GDP chỉ còn 30%.
Trên thực tế, các DN đang có
cơ hội làm ăn, có dự án khả thi, đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn thì đã tiếp
cận được nguồn vốn. Còn những DN không đủ điều kiện vay vốn thì các tổ chức tín
dụng không cho vay.
Vì thế, không nên nóng vội về
việc tăng trưởng tín dụng cao nhưng lại cho vay dưới chuẩn thì sẽ nguy hại cho
nền kinh tế.
Bên cạnh đó, quá trình phục
hồi kinh tế dù đã có những tín hiệu lạc quan nhưng tiến triển chậm chạp. Các dự
báo cho thấy mức tăng trưởng kinh tế VN quanh con số 5,5% so với 5,4% như năm
ngoái thì có phục hồi nhưng không đáng là bao. Nên mức tăng trưởng tín dụng khó
lòng đạt được như kỳ vọng từ đầu năm.
VAMC đi vào hoạt động được
hơn 1 năm nhưng vẫn chưa tạo ra được đột biến đáng kể? Liệu nên tiếp tục hi
vọng vào chiếc "phao" này để kích tín dụng?
Dòng tín dụng phụ thuộc nhiều
vào xử lý nợ xấu, VAMC không phải là chiếc đũa thần, nhất là trong trong bối
cảnh Việt Nam vừa phải làm lại vừa phải hình thành và phát triển thị trường mua
bán nợ vốn đã có manh nha nhưng vẫn còn sơ khai.
Trong thời gian vừa rồi tốc
độ xử lý nợ xấu chậm lại, do VAMC gắn với công tác chuẩn bị về pháp lý, thủ
tục, giao dịch trên thị trường mua bán nợ, phân loại nợ, tìm kiếm thông tin với
nhà đầu tư, các đối tác quan tâm... nhưng tổng thể các công việc còn nhỏ và
đang hoàn thiện.
Tuy nhiên, chỉ mình VAMC là
chưa đủ, còn liên quan nhiều đến vấn đề về tài sản đảm bảo, hay việc cho phép
hay không người nước ngoài tham gia sở hữu và giao dịch trong thị trường bất
động sản VN cũng như các tài sản khác. Và không chỉ là xử lý nợ xấu có tài sản
đảm bảo, bên cạnh đó xử lý nợ xấu ở doanh nghiệp nhà nước còn gắn liền với tái
cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, mặt khác có nhiều đơn vị DNNN cần xử lý lại
không có tài sản đảm bảo. Vì vậy, giải quyết nợ xấu lúc này còn phụ thuộc vào
khung pháp lý của Bộ Tài chính...
Chúng ta đang kỳ vọng sẽ được
hoàn thiện lúc đó giao dịch thực tế trên thị trường mua bán nợ sẽ diễn ra, nhờ
đó VAMC có tiền tươi thóc thật, để xử lý tốt hơn.
Ông dự đoán tăng trưởng
tín dụng trong những tháng cuối năm nay như thế nào?
- Tăng trưởng tín dụng trong
6 tháng đầu năm là 3,6%, trong đó tăng chủ yếu là ở tháng 5 và tháng 6, chứ
tháng 4 thì mức tăng tín dụng rất thấp gần 0% và 3 tháng đầu năm còn ở mức âm.
Còn nếu nhìn mức tăng trong
tháng 6, đặc biệt sau sự kiện căng thẳng trên biển Đông, ta thấy mức tăng trong
tháng 6 khá mạnh so với các tháng trước, tháng 5 là 1.31% , thì trong tháng 6
tăng hơn 2,3%. Để đạt được con số tăng trưởng tín dụng là 12% mà chúng ta đặt
ra từ đầu năm thì còn phải tăng thêm khoảng 8% nữa, như vậy mỗi tháng từ giờ
đến cuối năm theo lũy kế cũng phải tăng khoảng 1,4%. Nhìn vào tính thời vụ của
hệ thống ngân hàng tín dụng thì con số này không đến mức quá không khả thi.
Tuy nhiên, quan trọng hơn là
quan tâm đến phối hợp chính sách và chất lượng tăng trưởng tín dụng để quá
trình phục hồi có chất lượng và ổn định được kinh tế vĩ mô.