Nguồn: “What is federalism?”, The Economist, 13/06/2017
Biên dịch: Lê Thị Hồng Loan | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Nghị trình của
Emmanuel Macron về củng cố Liên minh châu Âu đã làm sống lại cuộc thảo luận về
một “Liên bang châu Âu”. Tham vọng của tổng thống Pháp sẽ dễ dàng đạt được hơn
nếu không có nước Anh: quốc gia này có xu hướng đi theo đường lối của Margaret
Thatcher, người vào năm 1990 đã nói rằng việc đưa ra đồng euro có thể dẫn tới
“một liên bang châu Âu, điều mà chúng tôi hoàn toàn và dứt khoát từ chối.” Ba
năm trước đó, đồng minh về ý thức hệ của bà Thatcher, Tổng thống Mỹ Ronald
Reagan, đã ủng hộ chủ nghĩa liên bang ở Hoa Kỳ bằng một sắc lệnh hành pháp
tuyên bố thiết lập lại “các nguyên tắc liên bang được đưa ra bởi các nhà soạn
thảo [hiến pháp Hoa Kỳ]” khi trao bớt quyền lực từ Washington cho các tiểu
bang.
Reagan tuyên bố “Chủ nghĩa liên bang bắt nguồn từ nhận thức rằng tự do
chính trị của chúng ta được đảm bảo tốt nhất bằng cách hạn chế quy mô và phạm
vi của chính quyền trung ương”. Người đọc sẽ nhận thấy rằng “chủ nghĩa liên
bang” có hai ý nghĩa đối nghịch ở đây, trong trường hợp thứ nhất nó mang nghĩa
là một chính quyền trung ương mạnh mẽ hơn, và trong trường hợp thứ hai là một
chính quyền trung ương yếu hơn. Tại sao lại như vậy?
Câu trả lời ngắn
gọn là: đấy là do lỗi của Richard Nixon. Câu trả lời dài hơn bắt đầu với Hội
nghị Lập hiến Hoa Kỳ năm 1787, nơi thuật ngữ “chủ nghĩa liên bang” đã được đặt
ra. Những người ủng hộ một chính quyền trung ương nhiều quyền lực, bao gồm
Alexander Hamilton và James Madison (những người cuối cùng trở thành người chắp
bút chính của bản hiến pháp), đã chọn tên gọi “các nhà chủ nghĩa liên bang”
(federalists). Những người muốn các chính phủ tiểu bang mạnh và một chính phủ
trung ương yếu trở thành “những người chống chủ nghĩa liên bang”
(anti-federalists). Tập Tiểu luận Liên bang (Federalist Papers), một loạt các
bài viết về hiến pháp mới được viết bởi Hamilton và Madison, thừa nhận sự cần thiết
phải cân bằng quyền lực giữa tiểu bang và liên bang, nhưng họ chủ yếu ủng hộ
chính phủ trung ương (mạnh). Sau khi hiến pháp được thông qua, những người ủng
hộ chính quyền trung ương mạnh (chủ yếu từ các bang miền Bắc) đã kết hợp với
nhau thành Đảng Liên bang (Federalist Party). Khi hệ thống sụp đổ trong cuộc
nội chiến vào thập niên 1860 vì vấn đề chế độ nô lệ, chiến thắng của miền Bắc
đã tăng cường sức mạnh của Washington. Quyền lực của chính phủ trung ương càng
được củng cố hơn nữa bởi các chương trình kinh tế và xã hội mở rộng thời kỳ
Chính sách Kinh tế mới (New Deal), tới mức mà vào những năm 1950, khó có thể
nói rõ ràng rằng Hoa Kỳ là một nhà nước liên bang hay thực tế là một nước cộng
hòa đơn nhất.
Trong thế kỷ 19
và đầu thế kỷ 20, nhiều quốc gia mới khác có sự chia rẽ nội bộ đáng kể cũng đã
đón nhận khái niệm liên bang, bao gồm Brazil, Canada, Mexico và Thụy Sĩ. Trong
Thế chiến II, một ý tưởng đã bám rễ cho rằng một Liên bang châu Âu, với một
chính phủ châu Âu bao trùm chia sẻ quyền lực với các quốc gia, có thể là chìa
khóa để chấm dứt các cuộc chiến tranh dai dẳng của lục địa này. Ở Ý, Altiero
Spinelli thành lập Liên minh Liên bang châu Âu (European Federalist Union) vào
năm 1943. Vào năm 1946, Winston Churchill kêu gọi thành lập “một kiểu Hợp chúng
quốc châu Âu”. Bởi vì các quốc gia châu Âu bắt đầu mà không có bất cứ liên bang
chung nào, “chủ nghĩa liên bang” ở châu Âu hiển nhiên có nghĩa là ủng hộ một
chính quyền trung ương mạnh hơn. Điều này tiếp tục được ghi nhận khi Cộng đồng
Than Thép Châu Âu phát triển trở thành Cộng đồng Kinh tế Châu Âu, và được xác
nhận bởi ngôn ngữ của Hiệp ước Roma năm 1957, kêu gọi tiến tới một “liên minh
ngày càng gần gũi hơn”. Khi người ta gọi các chính trị gia châu Âu hiện nay như
Martin Schulz hay Guy Verhofstadt là “các nhà chủ nghĩa liên bang” có nghĩa là
họ ủng hộ một EU mạnh hơn với quyền lực lớn hơn cho Brussels.
Tuy nhiên, tại Mỹ, mọi thứ đã thay đổi. Vào những năm
1960, khi đối mặt với Đạo luật Dân quyền của chính phủ liên bang, những người
mang tư tưởng da trắng thượng đẳng một lần nữa tập trung lại để kêu gọi gia
tăng quyền cho các tiểu bang. Trong khi đó, những người bảo thủ và các nhóm lợi
ích kinh tế đã chuyển sang bất bình trước các quy định điều tiết và các chương
trình phúc lợi của liên bang, cảm thấy rằng khía cạnh phân quyền của chủ nghĩa
liên bang đã bị phản bội. Tổng thống Nixon đã lợi dụng những bất bình này. Năm
1969, ông đề xuất “một Chủ nghĩa liên bang Mới, trong đó quyền lực, công quỹ và
trách nhiệm sẽ chuyển từ Washington sang các tiểu bang và người dân.” Rất ít
trong số những điều này trở thành hiện thực, nhưng ý thức rằng chủ nghĩa liên
bang chủ yếu có nghĩa là hạn chế bớt quyền lực của chính quyền trung ương đã
trở nên bắt rễ trong đảng Cộng hòa. Kết cục là ngày nay, khi người châu Âu nói
về “chủ nghĩa liên bang”, họ muốn nói đến việc trao cho Brussels nhiều quyền
lực hơn, ngược lại khi người Mỹ nói về “chủ nghĩa liên bang” thì họ muốn giảm
quyền lực của Washington D.C..
http://nghiencuuquocte.org/2017/10/16/chu-nghia-lien-bang-la-gi/#more-22093