"Từ thời hai bà Trưng
đến nay đã có hàng chục cuộc chiến tranh lớn để bảo vệ Tổ quốc.
Trong đó, chiến tranh
với phương Tây cũng có, nhưng ít, còn hầu hết là với các thế lực xâm lăng từ
phương Bắc, nhất là với phương Bắc phong kiến trước kia.
Đối thủ thường mạnh
hơn ta gấp nhiều chục lần, xét về tương quan lực lượng vật chất.
Một dân tộc tha thiết
yêu hòa bình, nhưng sự lâm nguy của Tổ quốc buộc cha ông ta phải cầm súng. Và
họ đã chiến đấu với tinh thần thượng võ.
Dân tộc Việt Nam đã
chiến thắng trong hầu hết các lần chiến tranh ấy, giữ vững độc lập dân tộc và
bảo vệ được Tổ quốc.
Có thời kỳ dân tộc ta
đã bị phương Bắc đô hộ trực tiếp gần một ngàn năm, họ đã dùng mọi thủ đoạn để
đồng hóa dân tộc Việt.
Nhưng cuối cùng, Việt
Nam đã giành lại độc lập và trường tồn với tư cách là một dân tộc văn
hiến.
Xét tới cùng, nguyên
nhân sâu xa của các cuộc bị xâm lăng và mất nước ấy không phải do ta thiếu anh
hùng, cũng không phải do ta nhỏ, mà là do nước ta lạc hậu. "
GDVN: Tiến
sĩ Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Trưởng ban Thường
trực Ban Tuyên giáo Trung ương gửi đến Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài viết
mới.
Đây là nội
dung bài phát biểu của tác giả tại Đại học Fulbright Việt Nam ngày 30/9/2017,
thể hiện tâm tư và trăn trở của Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng đối với việc xây dựng nền
văn hóa phát triển và vai trò của giáo dục đại học.
Tòa soạn
xin trân trọng giới thiệu bài viết này đến quý bạn đọc và cảm ơn Tiến sĩ Vũ
Ngọc Hoàng!
Nội dung,
văn phong bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Tiêu đề bài viết và các đề
mục phụ do Tòa soạn đặt.
Thưa các bạn!
Tôi rất hân hạnh được
có mặt tại đây hôm nay để được chúc mừng các thầy cô giáo, các bạn sinh viên về
những gì các anh chị đã đạt được trong năm học vừa qua.
Và nhân đây, tôi xin
phép được trao đổi vài ý kiến xung quanh câu hỏi: “Hiện nay việc gì là quan trọng nhất đối với Việt Nam ta,
và nên tiếp cận vấn đề đó như thế nào?”
Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương. Ảnh do tác giả cung cấp. |
Nền văn hóa Việt Nam
trường tồn qua mấy ngàn năm đã thể hiện rõ mặt mạnh nổi trội là văn hóa giữ
nước và mặt yếu lớn nhất thuộc về văn hóa phát triển.
Nói văn hóa giữ nước
hay văn hóa phát triển là nói rút gọn, nói tắt, chứ đúng ra nói đầy đủ phải là
văn hóa trong giữ nước và trong xây dựng-phát triển đất nước.
Không chăm
lo xây dựng văn hóa phát triển, dễ đánh mất độc lập
Từ thời hai bà Trưng
đến nay đã có hàng chục cuộc chiến tranh lớn để bảo vệ Tổ quốc.
Trong đó, chiến tranh
với phương Tây cũng có, nhưng ít, còn hầu hết là với các thế lực xâm lăng từ
phương Bắc, nhất là với phương Bắc phong kiến trước kia.
Đối thủ thường mạnh
hơn ta gấp nhiều chục lần, xét về tương quan lực lượng vật chất.
Một dân tộc tha thiết
yêu hòa bình, nhưng sự lâm nguy của Tổ quốc buộc cha ông ta phải cầm súng. Và
họ đã chiến đấu với tinh thần thượng võ.
Dân tộc Việt Nam đã
chiến thắng trong hầu hết các lần chiến tranh ấy, giữ vững độc lập dân tộc và
bảo vệ được Tổ quốc.
Có thời kỳ dân tộc ta
đã bị phương Bắc đô hộ trực tiếp gần một ngàn năm, họ đã dùng mọi thủ đoạn để
đồng hóa dân tộc Việt.
Nhưng cuối cùng, Việt
Nam đã giành lại độc lập và trường tồn với tư cách là một dân tộc văn
hiến.
Xét tới cùng, nguyên
nhân sâu xa của các cuộc bị xâm lăng và mất nước ấy không phải do ta thiếu anh
hùng, cũng không phải do ta nhỏ, mà là do nước ta lạc hậu.
Tất nhiên cũng còn có
những nguyên nhân khác nữa, nhưng nguyên nhân chính yếu – vừa sâu xa vừa trực
tiếp - là do nước ta lạc hậu.
Ta lạc hậu nên bị mất
nước, bằng anh hùng ta lấy lại đất nước, nhưng sau đó vẫn lạc hậu, không phát
triển được, và lại mất nước.
Lịch sử đã từng lặp
lại không ít lần như vậy.
Thời gian xây dựng trong hòa bình vẫn chiếm tỷ lệ phần lớn, có thể nói là đại bộ phận, nhiều hơn gấp bội so với thời gian có chiến tranh. |
Nhưng cho đến nay nước
ta vẫn là quốc gia chưa phát triển, có nhiều mặt còn tụt hậu và lạc hậu đến mức
đáng phải lưu ý.
Nếu không phát triển
được thì không khéo sẽ lại mất độc lập dân tộc.
Ngày nay, trong thời
hội nhập, cơ hội và thách thức đều lớn ngang nhau, nếu yếu kém kéo dài, thì
việc mất độc lập có thể bằng cách khác.
Không có chiến tranh,
không phải bằng sự thua trận trong chiến đấu chống xâm lược như ngày xưa, nhưng
chúng ta vẫn có thể đánh mất độc lập ngay trong hòa bình.
Độc lập có thể bị đánh
mất ngay trong chính sự cạnh tranh phát triển kinh tế, trong quan hệ làm ăn,
buôn bán và dần dần lệ thuộc.
Trước tiên là lệ thuộc
về kinh tế rồi sau đó dẫn đến lệ thuộc về chính trị.
Việc mất độc lập trong
trường hợp như vậy thì không thể lấy lại bằng sự chiến đấu anh hùng theo cách
truyền thống trước đây.
Đối với truyền thống
văn hóa giữ nước, thì hôm nay và mai sau vẫn mãi mãi cần học tập cha ông đến
cùng.
Học để biết, để tự hào
về những giá trị lớn lao của nền văn hóa dân tộc;
Học để có kinh nghiệm,
để khôn lớn và trưởng thành, để noi theo và xứng đáng, để tiếp tục giữ nước bền
lâu cho muôn đời mai sau.
Nhưng điều đó là chưa
đủ, hoàn toàn chưa đủ.
Thời kỳ này, hơn bao
giờ hết, chúng ta cần phải học tập một cách nghiêm túc, thật sự cầu thị, tinh
hoa của văn hóa nhân loại;
Nhất là phải học tập
kinh nghiệm của các quốc gia phát triển, tức là không ngừng bổ sung vào văn hóa
dân tộc những giá trị về văn hóa phát triển.
Chính điều này sẽ bổ
khuyết cho phần yếu kém của văn hóa Việt Nam, để trên cơ sở đó mà thực hiện một
cuộc cải cách căn bản và toàn diện nhằm phát triển đất nước và dân tộc.
Biết khiêm tốn học tập
người khác là con đường để trưởng thành, và cũng là biểu hiện bắt đầu của một
sự trưởng thành.
Phải phát triển! Đó là
yêu cầu lớn nhất, quan trọng nhất, là mệnh lệnh của cuộc sống.
Muốn tránh nguy cơ mất
nước, muốn giữ vững lâu dài nền độc lập dân tộc, muốn xứng đáng với truyền
thống giữ nước vẻ vang của cha ông;
Muốn cải thiện đời sống nhân dân và xây dựng một xã hội tốt đẹp…thì đất nước và dân tộc này phải phát triển. |
Nếu không phát triển
được thì mọi lý tưởng dù đẹp đẻ bao nhiêu cũng sẽ chỉ là những mơ ước xa xôi và
không bao giờ thành hiện thực.
Trong công cuộc phát
triển quốc gia thì sự phát triển của con người, từng con người, những con
người, cả một cộng đồng dân tộc, là quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định.
Khi có sự phát triển
của con người thì đất nước nhất định sẽ phát triển, vì đất nước như thế này hay
thế kia đều là sản phẩm của con người.
Kinh tế hay chính trị
đều do con người làm nên, do con người thực hiện.
Và văn hóa là con người, với chữ Người viết hoa. Vậy nên, văn hóa là nền tảng quan trọng nhất của sự phát triển một quốc gia.
Và văn hóa là con người, với chữ Người viết hoa. Vậy nên, văn hóa là nền tảng quan trọng nhất của sự phát triển một quốc gia.
Mặt khác, mọi sự phát
triển của một quốc gia cuối cùng cũng là để phát triển con người với nhân cách
văn hóa.
Cho nên, văn hóa – con
người không chỉ là nền tảng, mà còn là mục tiêu chiến lược lớn nhất. Để có một
cộng đồng phát triển thì trước nhất cần có một tầng lớp trí thức thật sự trưởng
thành, để từ đó lan tỏa ra.
Giáo dục
đại học và trách nhiệm đào tạo ra đội ngũ trí thức tự do và trách nhiệm
Giáo dục đại học có
nhiệm vụ quan trọng nhất là góp phần trực tiếp tạo ra tầng lớp trí thức
ấy.
Họ là những con người
có trách nhiệm cao với đất nước và cộng đồng dân tộc, có tầm rộng và chiều sâu
về văn hóa;
Họ là những con người
thật sự tự do, trong xã hội và với chính mình, có tự do tư tưởng và tư duy độc
lập, có bản lĩnh để bảo vệ các chân lý khoa học.
Đất nước thật sự cần
những con người như vậy, chứ không phải những con người chỉ biết nói theo, dựa
dẫm, không có chính kiến, luôn thực dụng, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích
của cộng đồng quốc gia.
Để có thể tạo ra những
người trí thức chân chính và đẳng cấp ấy, nhất thiết cần có một nền đại học có
tính tự chủ cao.
Quan trọng nhất là tự
chủ về chương trình, và thực hiện tự do học thuật, với một đội ngũ giảng viên
giỏi.
Tự chủ đại học, tự do
học thuật, tự do tư tưởng và tự do ngôn luận là bộ phận hợp thành quan trọng
bậc nhất của công cuộc đổi mới căn bản, không chỉ riêng đối với nền giáo dục
quốc gia, mà còn đối với tất cả các lĩnh vực khác của đời sống xã hội nói chung.
Đất nước ta rất cần
phải đổi mới đồng bộ và căn bản như vậy.
Tất nhiên chúng ta
hiểu đó là sự tự do trong tất yếu, tự do gắn với trách nhiệm xã hội, trách
nhiệm đối với cộng đồng.
Đồng thời cần có một
phương pháp đào tạo đúng, giúp cho người học phát triển được tối đa năng lực
của chính mình.
Trong nền đại học ấy,
sinh viên là những con người có tinh thần tự học rất cao, biết tư duy độc lập
và tự đào tạo mình trong môi trường học tập hiện có.
Lâu nay, tại Việt Nam, và trên
thế giới cũng vậy, các trí thức lớn chủ yếu nhờ tự học mà thành, họ chủ động
tự tạo ra mình, chứ không phải nhà trường nặn ra được họ.
Còn nhà trường là môi
trường hết sức quan trọng, nơi tạo mọi điều kiện cần thiết và các thầy cô giáo
là những người hướng dẫn phương pháp tự học.
Chứ thày cô không phải
là những người cung cấp đầy đủ tất cả kiến thức có sẵn theo cách áp đặt một
chiều.
Thầy cô giáo là người
bạn lớn, đồng hành cùng học sinh trong quá trình đi tìm chân lý;
Thầy cô là người giúp
đỡ về phương pháp tiếp cận để học sinh có thể vượt thầy, vượt sách, chứ không
phải là những người nắm giữ độc quyền các chân lý để cấp phát cho học trò.
Trường Fulbright là cơ
sở đào tạo có điều kiện rất thuận lợi trong quan hệ với các trường đại học lớn
của Hoa Kỳ, để có thể thường xuyên trao đổi kinh nghiệm trong công tác đào
tạo.
Hoa Kỳ có một nền giáo
dục đại học, nhất là sau đại học, có nhiều ưu điểm.
Chúng ta cần hết sức cầu thị để học hỏi và chủ động tiếp thu có chọn lọc được nhiều nhất những kinh nghiệm tốt và phù hợp cho giáo dục của Việt Nam.
Chúng ta cần hết sức cầu thị để học hỏi và chủ động tiếp thu có chọn lọc được nhiều nhất những kinh nghiệm tốt và phù hợp cho giáo dục của Việt Nam.
Trong chương trình
Fulbright trước đây cũng như trong quá trình chuẩn bị và triển khai dự án đại
học Fulbright hiện nay, có nhiều nhà khoa học-giáo dục và hoạt động xã hội ở Mỹ
đã rất tận tâm, hết lòng góp công sức và trí tuệ cho công việc phát triển giáo
dục ở Việt Nam.
Đó là những người bạn
lớn, những người bạn tốt. Chúng ta thật sự cảm kích và rất cảm ơn những người
bạn chân tình ấy.
Trong quá khứ giữa hai
nước Việt Nam và Hoa Kỳ rất đáng tiếc đã xảy ra một cuộc chiến tranh như mọi
người đã biết.
Những năm qua cả hai
nước đã cùng nhau xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác ngày càng phát triển
với nhiều ý nghĩa chiến lược lâu dài.
Hai dân tộc Việt Nam
và Hoa Kỳ đều yêu chuộng độc lập và tự do, đều có tinh thần thượng võ.
Trong lịch sử của mỗi
bên đã từng có những trường hợp từ cựu thù trong chiến tranh trước đó đã trở
thành bạn lớn, thành đối tác tốt đáng tin cậy của nhau sau chiến tranh.
Tôi nghĩ và tin rằng,
mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ ngày càng tốt đẹp và bền chặt hơn.
Trường Đại học
Fulbright ngoài công việc đào tạo, nghiên cứu khoa học sẽ còn có vai trò quan
trọng, góp phần đáng kể tham gia tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp ấy.
Xin chúc các bạn thành
công ./.
Thành phố
Hồ Chí Minh ngày 30.9.2017.
Tiến
sĩ Vũ Ngọc Hoàng
Nguồn : Theo GDVN