Ngày 28/4/2018, anh Nguyễn Trung cho đăng trên Viet-studies bài “Khao
khát của chữ tâm” do cảm hứng về cuộc gặp lịch sử
thượng đỉnh liên Triều 27-04-2018. Đây là một “lời tiên tri” của anh dựa trên
cơ sở của chữ “nếu”, được trình bày trong một bài viết ngắn mà chủ yếu là: “Nếu
lãnh đạo 2 miền Triều Tiên cùng nhau đặt lợi ích của tổ quốc chung lên trên
hết, đủ thông minh và nghị lực vượt lên chính họ, kiên trì lý tưởng hòa hợp dân
tộc, để từng bước theo đuổi một lộ trình khả thi và có các giai đoạn khác nhau
trên con đường đi tới thống nhất đất nước, thì ngay trong quá trình vận động có
thể kéo dài nhiều năm này, song chắc chắn vẫn còn ngắn hơn rất nhiều con đường
đã cắt đôi bán đảo này cho đến hôm nay…”
Anh
Nguyễn Trung có nhắc đến “sự thống nhất nước Đức là một thí dụ vẫy gọi những nỗ
lực” của hai miền Triều Tiên nhưng cũng nhận định rằng “con đường này còn vô cùng mờ nhạt,
chắc chắn sẽ vô cùng phức tạp và gian khổ.” Anh Trung còn gọi đây
là một “thực tế vô cùng mong manh” nhưng anh vẫn tin tưởng vững chắc ở hướng đi
tất yếu của xứ sở Triều Tiên. Là một trí thức luôn luôn trăn trở về tình hình
đất nước, anh kết luận cho cả Triều Tiên lẫn Việt Nam:
“Thực
tế vô cùng mong manh nói trên vẫn khẳng định đanh thép: Trong thế giới đã sang
trang hôm nay mỗi quốc gia đứng trước đòi hỏi sống còn phải đứng lên tự quyết
định vận mệnh của chính mình! Chính thực tế vô cùng mong manh này, tự nó vạch
ra hướng đi và thôi thúc hai miền Triều Tiên phải hành động… Nghĩ về đất nước
mình, tôi càng thấy chỉ có một lẽ phải như vậy.”
Khao
khát của anh Nguyễn Trung cũng chính là khao khát của toàn thể nhân dân Triều
Tiên, nhân dân Việt Nam và tất cả những người yêu chuộng hòa bình trên thế
giới. Ở đây, tôi muốn góp thêm ý kiến là ngoài niềm khao khát chung dựa vào chữ
“nếu”, chúng ta cần tìm hiểu khả năng hiện thực của niềm khát khao đó, liệu có
diễn ra được hay không. Trước hết, hãy xem xét những kinh nghiệm đáng bi quan
trước đây trong quan hệ giữa hai miền Triều Tiên.
Ngày
27.4.2018 không phải là lần đầu tiên mà lãnh đạo hai miền gặp nhau để thương
thuyết về vấn đề giải trừ vũ khí hạt nhân và hòa giải dân tộc.
– Ngày
20.01.1992, thủ tướng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Chung Won-shick đã
gặp Thủ tướng Đại Hàn Dân quốc Yon Hyong-muk và ký Tuyên bố chung về phi hạt
nhân hóa trên Bán đảo Triều Tiên. Một liên Ủy hội Kiểm soát Hạt nhân được thành
lập nhưng sau 13 lần hội họp đã không đạt được thỏa thuận nào và các cuộc họp
phải chấm dứt năm 1993.
– Ngày
15.6.2000, cuộc họp Thượng đỉnh đầu tiên được diễn ra giữa Tổng thống Đại Hàn
Kim Dae-jong và Chủ tịch CHDCNDTT Kim Jong-il. Bản Tuyên bố chung của hai vị
nguyên thủ xác nhận ý nghĩa lớn lao của nhu cầu thống nhất đất nước trong hòa
bình và hòa giải dân tộc qua phát triển kinh tế, trao đổi thăm viếng của những
gia đình bị chia cách, trao đổi và hợp tác về văn hóa, thể thao, y tế, môi sinh
và nhiều lãnh vực khác. Trong khi những cuộc tiếp xúc giữa hai miền tiến hành
một cách chậm chạp, Bắc Triều Tiên cũng thương thuyết với Hoa Kỳ và ký một
Khung Thỏa thuận (Agreed Framework) ngày 21.10.1994. Theo bản thỏa thuận này,
Bắc Triều Tiên sẽ ngưng xây dựng và hoạt động các lò phản ứng hạt nhân để đổi
lấy hai lò phản ứng chống phổ biến năng lượng hạt nhân. Hoa Kỳ đồng ý sẽ cung
cấp nhiên liệu cho Bắc Triều Tiên trong khi chờ đợi xây dựng hai lò phản ứng
này. Một tổ chức quốc tế có tên là Tổ chức Phát triển Năng lượng trên Bán đảo
Triều Tiên được thành lập để thi hành thỏa thuận này.
– Ngày
2.10.2007, cuộc họp Thượng đỉnh lần 2 diễn ra trong ba ngày giữa Tổng thống Roh
Moo-hyun (Nam) và Chủ tịch Kim Jong-il (Bắc). Theo quan sát viên Choe Sang-hun
của báo New York Times, TT Roh đưa ra một sáng kiến mạnh bạo là nếu miền Bắc
thực thi hòa giải dân tộc, hợp tác toàn diện, tiến đến thống nhất trong hòa
bình, và từ bỏ chế tạo vũ khí hạt nhân thì miền Nam sẽ giúp miền Bắc vực dậy
nền kinh tế đang kiệt quệ để có thể cùng phát triển vững mạnh.
Mặc dù
đôi bên đã có những bản tuyên bố và lời lẽ hứa hẹn tốt đẹp, thực tế đã chứng tỏ
rõ ràng là Bắc Triều Tiên không hề tôn trọng những điều đã thỏa thuận với Hàn
quốc trong những bản Tuyên bố chung mang dấu ấn lịch sử. Bắc Triều Tiên vẫn
tiếp tục chống hòa giải và thống nhất trong hòa bình, gia tăng vũ khí hạt nhân
và thường xuyên đe dọa tấn công miền Nam. Lãnh đạo miền Bắc chỉ tỏ ra thiện chí
thương thuyết với Hàn quốc và Hoa Kỳ khi gặp khó khăn về kimh tế, chính trị
(như sự sụp đổ của khối Nga Sô-viết,) hay khi nhân dân bị đói kém trầm trọng.
Những
hứa hẹn và thỏa thuận trong tiến trình thương thuyết chỉ là mưu chước kéo dài
thời gian cho những toan tính hiểm độc, hoặc để đổi lấy những sự giúp đỡ tối
cần thiết. Bình luận gia Max Boot của tờ Washington Post nhắc đến trường hợp cố
Tổng thống Đại Hàn Kim Dae-jung với chính sách hòa giải Sunshine Policy đã đem
lại cho ông giải thưởng Nobel Hòa Bình vì cuộc họp Thượng đỉnh với Chủ tịch Bắc
Triều Tiên Kim Jong-il năm 2000. Trong khoảng từ năm 1998 đến 2008, Nam Hàn đã
viện trợ cho miền Bắc 8 tỉ đô-la, với hi vọng sẽ tạo lập được một chế độ tử tế,
nhân hậu hơn. Đó là một thất bại lớn. Sau này, tin tức được tiết lộ là Kim
Dae-jong đã hối lộ cho Kim Jong-il 500 triệu đô-la để có được cuộc họp thượng
đỉnh “lịch sử” năm 2000.
Tóm
lại, Hàn quốc và Hoa Kỳ đều có thừa hiểu biết và kinh nghiệm về tâm địa dối
trá, lật lọng của Bắc Triều Tiên, từ sau cuộc đình chiến năm 1953. Họ chỉ chú
trọng phát triển sức mạnh quân sự, đặc biệt là khả năng chế tạo và thiết lập
một kho vũ khí hạt nhân khiến Hoa Kỳ và thế giới phải nể sợ và Nam Hàn sẽ phải
chịu khuất phục. Như Walter Russell Mead của tờ Wall Street Journal đã nhận
xét, “Bình
Nhưỡng có thể sẽ chấp nhận phi hạt nhân hóa như ‘một mục tiêu’ để đổi lấy việc
Hoa Kỳ bãi bỏ ngay một số biện pháp trừng phạt và khởi sự thương thuyết về một
hiệp ước hòa bình. Điểm then chốt là chương trình chế tạo tên lửa đạn đạo xuyên
lục địa (ICBM)”. Được biết những tên lửa này nếu mang đầu đạn hạt
nhân sẽ có thể tấn công bất cứ nơi nào trên đất Mỹ. Như vậy, tại sao bỗng nhiên
Bắc Triều Tiên lại đưa đề nghị họp thượng đỉnh với Mỹ và trước đó họp thượng
đỉnh với Nam Hàn? Và tại sao cả Nam Hàn và Mỹ đều nhận lời mời không do dự?
Tình thế đã đổi khác
Sau
những nỗ lực phi thường và liều lĩnh, Bắc Triều Tiên đã trở thành một lực lượng
hạt nhân đáng nể sợ và có tiếng nói ảnh hưởng đối với các cường quốc hạt nhân.
Dù biết mình còn kém Hoa Kỳ rất xa và sẽ bị tiêu diệt mau chóng nếu gây chiến
với Hoa Kỳ, Bình Nhưỡng cũng tin chắc là Washington muốn giải quyết hòa bình
vấn đề bán đảo Triều Tiên cả về quân sự lẫn chính trị. Trong khi đó, Kim
Jong-un cũng biết rằng lãnh đạo Bắc Kinh muốn Bắc Triều Tiên phải lệ thuộc lâu
dài vào Trung Quốc, do đó không thể để cho Bắc Triều Tiên trở thành một quốc
gia phát triển, nhất là sở hữu một sức mạnh hạt nhân.
Lịch
sử quan hệ giữa hai nước đã cho thấy từ thời cổ đại, các bộ tộc Triều Tiên
thường nổi dậy chống “thiên triều” Trung Quốc. Tinh thần độc lập của dân tộc
Triều Tiên thể hiện mạnh mẽ trong những cuộc chiến chống quân xâm lược Mông Cổ
(nhà Nguyên) mà hoàng tử Việt Nam tị nạn Lý Long Tường (đời Trần) đã có công
lớn giúp Triều Tiên chiến thắng quân Nguyên hai lần trong thế kỷ 13. Đến thế kỷ
17, Triều Tiên chống quân xâm lược Mãn Châu nhưng thất bại và phải chịu sự bảo
hộ của nhà Thanh cho tới cuối thế kỷ 19 khi Nhật Bản đánh bại quân Thanh trong
chiến tranh Trung-Nhật (1894-1895). Triều Tiên hoàn toàn bị Nhật đô hộ từ 1910
cho đến khi Nhật đầu hàng Đồng Minh năm 1945. Ngay sau đó, Triều Tiên bị Nga và
Mỹ chia đôi ở vĩ tuyến 38.
Nhân
dân Triều Tiên, dù dưới chế độ cộng sản ở miền Bắc hay chế độ cộng hòa ở miền
Nam cũng đều nuôi dưỡng khát vọng độc lập và thống nhất trong hòa bình, thịnh
vượng. Kim Jong-un thấy rất rõ, nhờ liên kết với Hoa Kỳ, Hàn quốc đã phát triển
mau chóng về khoa học công nghệ và trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 ở Á châu. Đó
là lý do ngấm ngầm khiến Bắc Triều Tiên luôn nghi ngại “giấc mơ Trung Quốc” của
Tập Cận Bình với chủ trương sáp nhập và Hán hóa các dân tộc láng giềng nhỏ như
Triều Tiên và Việt Nam cũng như tham vọng bá quyền của Trung Quốc tại Á châu và
thế giới. Quả thật trong nhiều năm qua, quan hệ thân thiết giữa Bình Nhưỡng và
Bắc Kinh ngày càng lạnh nhạt. Bắc Kinh bỏ phiếu tán thành quyết định của Hội
đồng Bảo An LHQ trừng phạt Bắc Triều Tiên về vũ khí hạt nhân. Một tài liệu lưu
trữ tại The Wilson Center, Washington, DC, cho thấy ngay từ năm 1973, Đại sứ
quán Nga Xô đã tiết lộ là “Trung Quốc không muốn thấy một nước
Triều Tiên thống nhất vì với tổng số 50 triệu dân (nay đã lên tới 80 triệu)
Triều Tiên sẽ trở thành một yếu tố chính trị quan trọng và tinh thần độc lập sẽ
mạnh mẽ hơn nữa … Lãnh đạo Trung Quốc sẽ chỉ ủng hộ Triều Tiên thống nhất nếu
họ có đủ bảo đảm là một Triều Tiên thống nhất sẽ đi theo đường lối thân Trung
Quốc.”
Dù
sao, không thể đơn giản kết luận rằng những lý do trên đã dẫn đến việc Bắc
Triều Tiên bỗng nhiên xoay trục về chính sách đối ngoại, biến kẻ thù thành bạn,
muốn hợp tác với Mỹ và hòa giải với Nam Hàn. Thực tế là Kim Jong-un muốn gấp
rút đem lại cho Bắc triều Tiên một vị thế thuận lợi và một tiếng nói thuyết
phục hơn, không chỉ với Mỹ và Nam Hàn, mà cả trong những cuộc đàm phán sáu bên
về vấn đề giải trừ hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên mà họ đã tự ý rút khỏi năm
2009. Sáu nước tham gia gồm có: Trung Quốc (chủ nhà), Hoa Kỳ, Nga, Nhật, CHDCND
Triều Tiên và Hàn Quốc.
Sau
khi đã thành công trong việc phóng tên lửa đạn đạo xuyên lục địa năm 2017, họ
Kim thấy đã đến lúc có thể mở những cuộc thương thuyết ở cấp cao nhất với Mỹ và
Nam Hàn đồng thời trở lại bàn đàm phán sáu bên để có thể thoát khỏi tình trạng
kiệt quệ về kinh tế do quyết định cấm vận của LHQ. Kim Jong-un cũng đủ khôn
ngoan không làm mất lòng Trung Quốc nên đã bí mật qua Bắc Kinh gặp Tập Cận Bình
trước khi có cuộc hội đàm với Moon Jae-in vào tháng Tư và cuộc thương thuyết với
Donald Trump được chuẩn bị vào tháng Sáu.
Đường
lối mới của Bắc Triều Tiên được tất cả các đối tác hoan nghênh, khích lệ và đặt
hi vọng vào kết quả tích cực của những vòng đàm phán tương lai. Trung Quốc dù
không mong muốn có hòa giải giữa hai miền Nam – Bắc Triều Tiên, cũng hiểu rằng,
để tránh chiến tranh, miền Bắc cần phải chứng tỏ thiện chí với miền Nam để làm
cầu nối cho cuộc họp thượng đỉnh Mỹ-Triều. Tập Cận Bình thông báo cho Donald
Trump biết rằng, chuyến viếng thăm Bắc Kinh của Kim Jong-un “đã diễn ra rất tốt
đẹp” và Chủ tịch Kim đang mong chờ cuộc hội kiến với Tổng thống Trump. Tập Cận
Bình cho hay, ông ủng hộ những nỗ lực gỡ bỏ các mối căng thẳng trên bán đảo
Triều Tiên và tuyên bố với Tân Hoa Xã rằng “Năm nay có nhiều thay đổi hứa hẹn
trong tình hình Triều Tiên. Chúng tôi trân trọng những cố gắng cải thiện của
chủ tịch Kim.”
Về
phía Hoa Kỳ và Nam Hàn, hai nước đều không muốn chiến tranh Triều Tiên lại xảy
ra một lần nữa, và đều muốn chấm dứt tình trạng căng thẳng và những hành động
hiếu chiến của miền Bắc đã kéo dài 65 năm. Với tư cách một quốc gia thịnh vượng
và tiến bộ, và vì lợi ích của dân tộc, Nam Hàn mong muốn thương thuyết và ký
kết với CHDCNDTT một thỏa ước hòa bình vĩnh cửu thay thế cho hiệp định đình
chiến (thực tế là một thỏa thuận ngưng bắn) ký kết giữa Hoa Kỳ và Bắc Triều
Tiên năm 1953.
Miền
Nam cũng mong muốn thực hiện hòa giải dân tộc và sẵn sàng trợ giúp miền Bắc về
kinh tế và phát triển về mọi mặt. Để đạt mục đích ấy, Bắc Triều Tiên phải chấm
dứt những hành động chuẩn bị chiến tranh mà chủ yếu là giải trừ vũ khí hạt
nhân. Tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in thừa hiểu rằng, Kim Jong-un không muốn có
một cuộc chiến tranh tự sát với Hoa Kỳ nhưng nhất quyết không chấp nhận điều
kiện giải trừ vũ khí hạt nhân, vì đây là chỗ dựa duy nhất để Bắc Triều Tiên tạo
được vị thế vững chắc trong những cuộc thương thuyết với Hàn quốc và Hoa Kỳ.
Như vậy, mục đích thầm kín của Kim Jong-un không phải là làm cho Bắc Triều Tiên
trở thành một cường quốc hạt nhân, mà làm sao được bảo đảm là sẽ không bị Mỹ
lật đổ và tương lai có thể trở thành một nước giàu có và phát triển như Nam
Hàn.
Trong
hội nghị thượng đỉnh 27.4, Chủ tịch Kim đã thẳng thắn nhìn nhận tình trạng tụt
hậu của Bắc Triều Tiên và khi Tổng thống Nam Hàn nhận lời mời sang thăm Bình
Nhưỡng vào mùa Thu năm nay, ông Kim đã khuyên ông Moon nên đi bằng phi cơ vì hệ
thống giao thông đường bộ ở Bắc Triều tiên quá tồi để đi bằng xe hơi. Có thể
hai nhà lãnh đạo của hai miền Nam – Bắc đã tiến đến đồng ý về một lịch trình
phi hạt nhân hóa với những bước cụ thể có kiểm soát để đổi lấy việc Hoa Kỳ và
LHQ hủy bỏ một số biện pháp trừng phạt và khởi sự thương thuyết về một hiệp ước
hòa bình. Vấn đề là giải pháp này có được Tổng Thống Trump chấp nhận hay không.
Chỉ biết rằng ông Trump đã mau chóng chấp thuận đề nghị của ông Kim về một cuộc
họp thượng đỉnh Mỹ-Triều và cho rằng, đây là cơ hội tốt để phi hạt nhân hóa bán
đảo Triều Tiên và đem lại hòa bình cho cả hai miền Nam, Bắc.
Cuối
tháng Tư, tân Ngoại trưởng Mike Pompeo đã bay sang Bình Nhưỡng gặp Kim Jong-un
để chuẩn bị chi tiết cho cuộc họp Trump-Kim. Ông nói với hãng truyền hình ABC
rằng: “Tôi
đem theo một thông điệp minh bạch của TT Trump và Chủ tịch Kim đã hiểu rõ sứ
mạng của tôi là phải đạt được mục tiêu phi hạt nhân hóa toàn diện, có kiểm
chứng và không thể đảo ngược”. Chủ tịch Kim cho hay,
“ông đã chuẩn bị sẵn sàng để đưa ra một bản đồ có thể giúp chúng tôi hoàn tất
sứ mạng.”
Ngày
4/5, Bạch Ốc lại loan tin, Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ tiếp đón Tổng thống
Hàn Quốc Moon Jae-in tại tòa Bạch Ốc vào ngày 22/5 và đôi bên sẽ thảo luận về
thượng đỉnh Mỹ-Triều sắp tới. Trong dịp này, chắc chắn ông Moon sẽ tìm mọi cách
thuyết phục ông Trump chấp thuận giải pháp phi hạt nhân hóa Triều Tiên bằng một
lịch trình được thực hiện dưới sự kiểm soát chặt chẽ của tất cả sáu bên đối tác,
thay vì đòi hỏi Bắc Triều Tiên phải lập tức hủy bỏ toàn diện các phương tiện
chế tạo vũ khí hạt nhân. Các bình luận gia quốc tế đang theo dõi sát tình hình
hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Triều với những phân tích và dự đoán khác nhau, nhưng
không ai muốn thấy cơn thịnh nộ của ông Trump nếu chẳng may cuộc hội nghị này
thất bại. Nếu hội nghị thành công thì cả hai ông Donald Trump và Kim Jong-un
đều xứng đáng lãnh giải Nobel hòa bình.
Thấy người lại ngẫm đến ta
Trả
lời câu hỏi của phóng viên liên quan đến hội nghị thượng đỉnh liên Triều, người
phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng cho biết: “Việt
Nam chúc mừng và đánh giá cao những nỗ lực của Hàn Quốc và Triều Tiên trong
việc tổ chức thành công Hội đàm thượng đỉnh liên Triều ngày 27/4, góp phần quan
trọng vì hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới, trong đó có việc thúc đẩy
phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên. Việt Nam tin tưởng Triều Tiên và Hàn Quốc
cùng các bên liên quan sẽ tiếp tục nỗ lực thúc đẩy đối thoại, phát huy các kết
quả tích cực đã đạt được thời gian qua, đặt nền móng lâu dài cho hòa bình, ổn
định, phát triển tại bán đảo Triều Tiên và trong khu vực, đáp ứng nguyện vọng
của nhân dân hai miền Triều Tiên cũng như vì lợi ích chung của cộng đồng quốc
tế“.
Cho
đến nay, chưa thấy một lãnh đạo Việt Nam nào cho biết cảm tưởng về hội nghị
thượng đỉnh liên Triều, nhất là đối với vấn đề hòa giải dân tộc đã được hai nhà
lãnh đạo Nam Bắc Triều Tiên nhấn mạnh trong bản Tuyên bố chung: “Hàn
Quốc và Triều Tiên sẽ nối lại quan hệ huyết thống giữa người dân 2 nước nhằm
đem lại tương lai cùng thịnh vượng và thống nhất bằng việc tạo dựng mối quan hệ
liên Triều toàn diện và đột phá. Thúc đẩy quan hệ liên Triều nhằm đáp ứng khao
khát của toàn dân tộc và sự cấp thiết của thời đại khiến cho mối quan hệ này
không thể tiếp tục bị kìm hãm nữa . . .
“Hàn Quốc và Triều Tiên thống nhất khuyến khích hợp tác, trao
đổi, thăm hỏi và liên lạc ở tất cả các cấp một cách tích cực hơn nhằm hồi sinh
khát vọng hòa giải và đoàn kết dân tộc. Hai bên sẽ tiếp tục khuyến khích bầu
không khí hòa bình và hợp tác bằng cách tổ chức hàng loạt các sự kiện chung
trong những ngày lễ trọng đại đối với cả 2 nước như ngày 15/6 với sự tham gia
của Chính phủ, Quốc hội, các đảng phái chính trị, tổ chức dân sự 2 nước.” Một
sự kiện đột phá đáng ghi nhớ là em gái Chủ tịch Kim Jong-in và phái đoàn cao
cấp Bắc Triều Tiên đã tham dự khai mạc Thế vận hội Olympic mùa Đông năm nay tại
Nam Hàn, và hai đoàn lực sĩ hai miền Nam, Bắc đã cùng diễn hành dưới một lá cờ
truyền thống chung.
Chính
những nỗ lực “nhằm hồi sinh khát vọng hòa giải và đoàn kết dân tộc” của Triều
Tiên đã khiến anh Nguyễn Trung liên tưởng đến trường hợp Việt Nam: “Trong
thế giới đã sang trang hôm nay mỗi quốc gia đứng trước đòi hỏi sống còn phải
đứng lên tự quyết định vận mệnh của chính mình! Chính thực tế vô cùng mong manh
này tự nó vạch ra hướng đi và thôi thúc hai miền Triều Tiên phải hành động…
Nghĩ về đất nước mình, tôi càng thấy chỉ có một lẽ phải như vậy.”
Tôi
đồng ý với anh Nguyễn Trung nhưng muốn nhấn mạnh rằng, “đòi hỏi sống còn” của
dân tộc Việt Nam quá cấp bách và cơ hội hồi sinh mong manh hơn nhiều so với Bắc
Triều Tiên:
1. Từ
nhiều năm qua, đặc biệt từ hội nghị Thành Đô 1990, Trung Quốc tiếp tục từng
bước chiếm đoạt đất nước Việt Nam và Hán hóa chủng tộc Việt.
2.
Lãnh đạo Việt Nam đặt sự tồn tại của Đảng công sản lên trên sự sống còn của đất
nước, tuân thủ một chiều quan hệ 16 chữ và 4 tốt do Trung Quốc áp đặt. Quan hệ
hợp tác với Mỹ chỉ là một xảo thuật để thuyết phục TQ giảm bớt tốc độ thôn tính
Việt Nam.
3. Sự
tranh giành quyền lực và trừng phạt lẫn nhau giữa các phe phái trong Đảng không
vì lợi ích của đất nước mà chỉ vì muốn giành độc quyền tham nhũng và bóc lột
nhân dân.
Trí
thức và các tổ chức xã hội dân sự đã nhiều lần kiến nghị lãnh đạo cải thiện
chính sách để tạo sự đoàn kết và hậu thuẫn của toàn dân trong sứ mạng bảo vệ
độc lập, chủ quyền và phát triển đất nước, nhưng chỉ được chính quyền trả lời
bằng thái độ lạnh nhạt, ngăn cấm hay đàn áp. Bệnh ngu dốt, độc tài và tham
nhũng của lãnh đạo Việt Nam đã hết thuốc chữa, chỉ có thể thay thế chứ không
thể sửa đổi. Đất nước chỉ có hi vọng hồi sinh nếu có sự xuất hiện của một đảng
đối lập được lãnh đạo bởi những người thật sự yêu nước, không kể tuổi tác và
giới tính, có tầm nhìn, có bản lãnh và lề lối làm việc dân chủ để lôi cuốn được
sự ủng hộ của nhân dân và các đảng viên đã và đang “tự diễn biến, tự chuyển
hóa.”
Được
như vậy, khát vọng của anh Nguyễn Trung, dù “vô cùng mong manh,” cũng có nhiều
khả năng trở thành hiện thực.