(Thị trường) - Nhiều chính sách hỗ trợ cho người
trồng lúa mà những ngành nông nghiệp khác không có chưa thực sự hiệu quả khiến
giá thành sản xuất cao.
Hỗ trợ chưa hiệu quả
Theo ước tính của Bộ Tài chính, giá thành
sản xuất lúa kế hoạch của vụ hè thu 2018 bình quân toàn vùng ĐBSCL khoảng từ
3.261 - 4.985 đồng/kg.
Dù giá thu mua lúa vụ hè thu năm nay có
tăng hơn những vụ trước nhưng kèm với đó, giá thành sản xuất liên tục tăng nên
lợi nhuận của nông dân cũng không còn nhiều.
Thậm chí, số liệu của Bộ Tài
chính cho biết, nhiều tỉnh có giá thành sản xuất lúa cao hơn 4.000 đồng/kg như
Bến Tre 4.985 đồng/kg; Bạc Liêu 4.787 đồng/kg; An Giang 4.782 đồng/kg; Tiền
Giang 4.503 đồng/kg; Đồng Tháp 4.4607 đồng/kg; Trà Vinh 4.388 đồng/kg.
Trao đổi với Đất
Việt, PGS.TS Dương Văn Chín, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu nông nghiệp
Định Thành (Tập đoàn Lộc Trời) cho biết, cần phải xác định rõ liệu Bộ Tài
chính có tính chi phí cơ hội, tức lao động gia đình của nông dân hay không vào
giá thành sản xuất hay không. Nếu như không tính chi phí này thì giá thành sản
xuất lúa không cao như vậy.
Với kinh nghiệm ông biết, nếu áp dụng quy
trình đúng thì giá thành sản xuất lúa thường trên dưới 3.000 đồng/kg.
Phân tích cụ thể, PGS.TS Dương Văn Chín
chỉ ra một số nguyên nhân khiến giá thành sản xuất của người nông dân còn cao
khiến lợi nhuận thu được từ cây lúa không đáng kể.
Cụ thể, trước nay, Việt Nam
vẫn có nhiều chính sách hỗ trợ đầu vào cho nông dân trồng lúa,
như miễn thuế đất, miễn giảm thủy lợi phí, hỗ trợ người trồng lúa nước 500.000
đồng/ha/năm... Tuy nhiên, theo đánh giá của ông Chín, chúng chưa thực sự hiệu
quả.
Ông dẫn ví dụ, đối với chính sách hỗ trợ
người trồng lúa nước 500.000 đồng/ha/năm được áp dụng trước đây nhằm giữ đất
lúa, có nông dân không buồn đi làm thủ tục để nhận số tiền này vì cho rằng
"không đáng". Ngay cả khi mỗi năm Nhà nước tốn hàng ngàn tỷ đồng như
vậy thì đất lúa cũng không giữ được.
Nhiều nông dân làm thủ tục nhận được
500.000 ngàn đồng nhưng bởi trồng lúa thu nhập kém quá nên họ lên liếp trồng
cây ăn trái. Như vậy, mục tiêu ban đầu đặt ra của chính sách hỗ trợ này không
đạt yêu cầu.
Bên cạnh đó, hai yếu tố quan trọng là
phân bón và thuốc trừ sâu, có chí phí chiếm tỷ trọng cao nhất trong đầu
vào thì Nhà nước lại không hỗ trợ cho nông dân.
Phân bón và thuốc trừ sâu đều nằm trong
tay các công ty, mà hiện nay giá phân bón lại đang có xu hướng tăng, nông dân
sử dụng ngày càng nhiều trong khi Nhà nước lại không có giải pháp can thiệp về
giá.
Chưa kể chất lượng phân bón Việt Nam cũng
chưa quản lý được, phân bón giả, chất lượng kém góp phần làm tăng chi phí sản
xuất của người nông dân.
"Trên thế giới, nhiều nước hỗ trợ
nông dân một phần phân bón nhưng thực ra đó không phải là cách căn bản và Tổ
chức Thương mại thế giới phê phán chính sách này nhiều.
Chẳng hạn, Ấn Độ hỗ trợ cho nông dân một
phần phân bón dù nhiều nước cho rằng làm vậy là không theo kinh tế thị trường.
Cái khó của Ấn Độ là nếu không hỗ trợ một phần phân bón cho nông dân thì họ sẽ
không sử dụng phân bón, mà như vậy năng suất sẽ rất thấp.
Việt Nam để thị trường tự do nhưng cái dở
là nạn phân bón giả tràn lan. Chính vì thế, Nhà nước có thể hỗ trợ người nông
dân một cách thiết thực nhất, đó là làm sao dẹp được hết phân bón giả
trên thị trường.
Người nông dân phải mua phân bón giả với
giá cao như giá phân bón thật, nhưng khi rải xuống ruộng thì không có tác
dụng, rất lãng phí. Nếu Nhà nước dẹp được phân bón
giả, để cho những công ty lớn sản xuất phân bón thật được kinh
doanh thì đã giúp được nông dân rất nhiều", Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu
nông nghiệp Định Thành nhận xét.
Một vấn đề khác được PGS.TS Dương Văn Chín
chỉ ra, đó là mục tiêu của chính sách hỗ trợ sản xuất lúa để đem lại
thu nhập cho người nông dân chưa đạt yêu cầu do còn phụ thuộc đầu ra.
Đầu ra không giải quyết được nên nông dân không có thu nhập.
Ông phân tích, đầu ra thị trường phải được
khai thông. Trước mắt, Việt Nam có thị trường nội địa rất lớn với gần 100 triệu
người dân ăn gạo hàng ngày. Chính vì thế, loại gạo sản xuất chính
quy, có người chịu trách nhiệm phải thống lĩnh thị trường.
Như trước nay, phần lớn gạo trên thị
trường là gạo trôi nổi, tiệm tạp hóa mua lúa về chà, đóng bao và có
thể trộn với bất cứ loại gạo kém chất lượng nào mà
họ muốn, rồi bán giao tận nhà cho người tiêu dùng. Người tiêu dùng
ăn thấy được thì tiếp tục mua, người bán lấy lời ở đó.
Còn bản chất hạt gạo đó là giống gì
thì người bán không biết hoặc không muốn trả lời; dư lượng thuốc bảo vệ
thực vật trong gạo đó bao nhiêu thì người tiêu dùng hoàn toàn không biết.
"Bây giờ cần chấn chỉnh thị
trường lúa gạo trong nước. Gạo bán ở chợ phải là gạo có công ty buôn bán
chịu trách nhiệm.
Bên cạnh đó, phải khuyến khích xuất
khẩu. Người dân trên thế giới ngày càng giàu, ăn ngày càng chọn
lựa, đòi hỏi chất lượng cao và an toàn. Vì thế, Việt Nam phải sản
xuất loại gạo thơm, ngon theo thị hiếu của khách hàng chứ không
phải theo thị hiếu của mình.
Phải tìm hiểu thị hiếu từng ngóc ngách,
người dân nước A ăn thế nào, nước B ăn thế nào... rồi sản xuất ra hạt gạo
an toàn, thỏa mãn từng thị trường để xuất khẩu. Xuất càng nhiều, tạo đầu ra ổn
định là giúp nông dân sản xuất bền vững và có thu nhập", vị chuyên gia
nói.
Tạo cú đấm thép
Theo đánh giá của PGS.TS Dương Văn Chín,
bởi chính sách hỗ trợ người trồng lúa còn manh mún, dàn trải khiến lợi nhuận
của người nông dân không bật lên được. Thay vì thiếu tập trung, chính sách hỗ
trợ phải là những cú đấm thép, hỗ trợ trực tiếp cho nông dân.
http://baodatviet.vn/kinh-te/thi-truong/trong-lua-ngay-cang-lo-vi-dau-3363162/