Nguyễn
Quang Duy
Trương Vĩnh Ký |
Trương Vĩnh Ký,
người tạo nền móng cho giáo dục và cải cách ngôn ngữ Việt Nam vào thế kỷ 19,
là nhà bác học nhiều năm qua vẫn chưa được hậu sinh hiểu một cách tận tường.
Bài viết này muốn
nhắc lại nỗ lực giáo dục và cải cách ngôn ngữ tiếng Việt của ông nhân kỷ niệm
181 năm ngày sinh của ông, vào ngày 6/12/1837 tại ấp Cái Mơn, tỉnh Vĩnh Long.
Sau 30/4/1975, khi
ngôi trường trung học Petrus Trương Vĩnh Ký bị đổi tên và bức tượng bán thân
giữa sân trường bị dời đi, học sinh chúng tôi thường tranh luận về “công và
tội” của Petrus Ký khi mượn tay người Pháp giúp nền văn học nước nhà.
Chúng tôi thường
kết thúc bằng ngạn ngữ được Pétrus Ký dùng nhiều lần khi viết thư “Sic vos non
vobis”.
Hồi ấy chúng tôi
hiểu câu ngạn ngữ trên là “Ở với họ mà không theo họ”, vừa tránh dẫn đến chuyện
bị quy kết “phản động”, vừa tỏ bày tâm sự “Ở với cộng sản mà không theo cộng
sản”.
Gần đây tôi mới
biết câu ngạn ngữ tiếng La Tinh “Sic vos non vobis” có 2 nghĩa và dịch như trên
là hoàn toàn sai ý Pétrus Ký.
Winston Phan Đào
Nguyên phổ biến trên trang Nghiên Cứu Lịch Sử bài “Minh oan cho Pétrus
Trương Vĩnh Ký về câu ‘ở với họ mà không theo họ’ ”, theo tác giả
thì Pétrus Ký dùng một nghĩa khác của ngạn ngữ là “Làm điều lợi cho người
khác chứ không cho chính mình.”
Tác giả đã trình
bày rất rõ và rất thuyết phục triết lý sống của Pétrus Ký là mỗi người phải làm
tròn vai trò hay số phần trong đời để làm cho xã hội của mình tốt đẹp hơn.
Cuộc đời của Pétrus
Ký đã chứng minh triết lý sống này đặc biệt là sự cống hiến ông dành cho chữ
Quốc ngữ và nền Quốc văn hiện tại.
Hoàn
cảnh xã hội…
Pétrus Ký sinh ra
cuối triều vua Minh Mạng, khi ấy nhà vua dầu muốn nhưng thất bại trong việc
canh tân đất nước, triều thần chỉ toàn những nhà Nho biết làm thơ phú chứ không
có ai có khả năng trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật.
Vua Minh Mạng lại
thường hành xử thiếu công minh, nhất là đối với kẻ công thần, nhiều người giỏi
đâm ra chán nản, trái lại phe gian nịnh nẩy nở mỗi ngày một nhiều, quan tham
mỗi ngày một tăng.
Các vua nhà Nguyễn
còn ra lệnh bế môn tỏa cảng không giao thương với nước ngoài, cấm đạo Công
giáo, dân tình đói khổ, loạn lạc khắp nơi, để cuối cùng đất nước lọt vào tay
Pháp cả trăm năm.
Petrus Ký là người
công giáo, Pétrus là tên Thánh, theo học trường dòng ở Mã Lai về nước đúng lúc
thực dân Pháp đem quân sang xâm chiếm nước ta.
Pháp tấn công Đà
Nẵng ngày 1/9/1858 không thành nên chuyển sang tấn công 3 tỉnh miền Đông Nam
Phần. Ngày 18/2/1859 Pháp chiếm thành Gia định.
Việc cấm đạo Công
giáo trở nên gay gắt hơn. Petrus Ký phải trốn lên Sài Gòn và được Giám mục
Dominique Lefèbre giới thiệu làm thông ngôn cho Pháp, nên từ đó bị kết tội là
tay sai cho giặc.
Pétrus
Ký, nỗi oan thế kỷ …
Sau 30/4/1975, nhà
cầm quyền Hà Nội vẫn giữ độc quyền đánh giá “công và tội” của Petrus Ký.
Năm 1993, ông
Nguyễn Văn Trấn, một đảng viên Cộng sản từ hồi 1930, được Ban Khoa học xã hội
thành ủy Tp HCM cho phép phát hành quyển “Trương Vĩnh Ký, Con Người Và Sự Thật”
nhưng sách đã bị tịch thu sau khi in mà không biết lý do.
Đầu tháng 1/2017,
cuốn "Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ" do nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu
soạn đã được Cục Xuất bản cho phép lưu hành, nhưng chỉ ít ngày trước khi phát
hành thì một "lệnh miệng" được ban xuống yêu cầu hủy bỏ buổi ra mắt
sách.
Ông Nguyễn Đình Đầu
cho trang BBC tiếng Việt biết ông đã phát hiện một tư liệu nói về sự hợp tác
của ông Trương Vĩnh Ký với người Pháp từ đầu đã không có suôn sẻ như người ta
vẫn tưởng:
"Trong
những lời đối đáp khi chính quyền Pháp yêu cầu Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn,
có những văn thơ chứng tỏ là Trương Vĩnh Ký rất bất mãn trong chuyện người Pháp
cư xử với người Việt Nam, cho nên ông không muốn hợp tác.".
Bức
thư giả ký tên Petrus Key…
Còn ở hải ngoại từ
năm 1996, nhà nghiên cứu sử Vũ Ngự Chiêu cho phổ biến nhiều bài viết về một lá
thư ông Chiêu cho là do chính Petrus Ký viết, bằng tiếng Pháp, với chữ ký là
Petrus Key.
Trong lá thư Petrus
Key cầu khẩn quân Pháp đến giải cứu cho những người An Nam theo đạo Thiên Chúa
ở Nam Kỳ.
Mặc dù kết tội
Petrus Ký nhưng ông Chiêu chưa bao giờ cho công bố lá thư gốc bằng tiếng Pháp
nên không thuyết phục được nhiều người.
Nhưng nhiều nhà
nghiên cứu sử trong nước lại dựa vào các bài viết không chứng cớ của ông Vũ Ngự
Chiêu để tiếp tục kết tội Petrus Ký là tay sai cho Pháp.
Cũng trên trang
Nghiên Cứu Lịch Sử, Winston Phan Đào Nguyên cho phổ biến một công trình
nghiên cứu sử với tựa đề “Petrus Key và Petrus Ký - Chuyện một lá thư mạo danh
Trương Vĩnh Ký vào thế kỷ 19”, gồm 3 bài viết.
Trong bài thứ nhất
ông Nguyên cho biết đã tìm thấy lá thư ký tên Petrus Key, mà ông Vũ Ngự Chiêu
bấy lâu nay giữ kín, tại Văn Khố Service Historique De La Defense ở Chateau
Vincennes, Paris, Pháp.
Ông Nguyên so sánh
văn phong, nội dung, hình thức, chữ viết, chữ ký… để kết luận rằng đây không phải
là bức thư của Pétrus Trương Vĩnh Ký và đã có người mạo danh Petrus Ký viết lá
thư này.
Trong bài thứ hai
ông Nguyên cho biết kiếm thấy một lá do chính tay Petrus Trương Vĩnh Ký viết
cho các bạn học ở Penang vào ngày 4/2/1859 bằng tiếng Latin khi Petrus Ký đã
vào tới Sài Gòn lánh nạn cấm đạo.
Trong lá thư Petrus
Ký đã kể về việc ông trốn quan quân nhà Nguyễn truy lùng và cho biết quan điểm
về việc cấm đạo cũng như quan điểm về cuộc xâm lăng của liên quân Pháp và Tây
Ban Nha.
Theo Petrus Ký, sự
bắt đạo, tuy rất tàn ác, nhưng lại là một điều tất yếu phải xảy ra, cũng như
một cơn mưa bão trước một sự yên bình, hay nói cách khác, là một thử thách của
Chúa.
Nhưng ông hoàn toàn
phản đối sự can thiệp bằng vũ lực của Pháp. Với ông, cách dùng vũ khí và bạo
lực để can thiệp của quân Pháp là một giải pháp còn tệ hơn là bạo lực bắt đạo
của vua quan nhà Nguyễn.
Trong bài thứ 3,
Winston Phan Đào Nguyên chứng minh chính bà Pauline Jaricot người sáng lập ra
Hội Truyền Bá Đức Tin đã mạo danh Pétrus Trương Vĩnh Ký để viết thư lá thư ký
tên Petrus Key.
Công trình nghiên
cứu của Winston Phan Đào Nguyên bổ sung cho một cách nhìn khác về việc truyền
đạo Công giáo vào Việt Nam và cả việc thực dân Pháp xâm chiếm Đông Dương.
Công trình nghiên
cứu còn cho thấy ngay từ ban đầu Trương vĩnh Ký đã không có ý định theo Pháp
nhưng vì hoàn cảnh không thể tránh được.
Chữ
Quốc ngữ giữ văn hóa nước nhà
Về việc giữ gìn
tiếng Việt trong sách giáo khoa sử An Nam bằng tiếng Pháp xuất bản tại Sài Gòn
năm 1875 (Cours d’histoire annamite à l’usage des écoles de la
Basse-Cochinchine, Impr. du Gouvernement, Saigon, 1875) trang 13 Pétrus Trương
Vĩnh Ký đã nhận xét (được dịch) như sau:
“Sĩ
Nhiếp đã du nhập toàn bộ văn học Trung Hoa, cùng đạo lý Khổng Tử, ép buộc dân
An Nam phải tiếp nhận làm văn hóa của mình, và cấm dân An Nam dùng thứ chữ viết
phiên âm đặc biệt riêng của người An-nam.
Vì
biện pháp nghiệt ngã ấy mà người An-nam đã hoàn toàn mất đi thứ chữ viết riêng
của mình”.
Sĩ Nhiếp (137–226)
là một người Việt gốc Hán được triều đình Trung Hoa phong Thái Thú cai trị Quận
Giao Chỉ.
Sĩ Nhiếp được sử
sách chính thống các triều đại Việt Nam đánh giá rất cao vì đã dạy cho dân ta
chữ Hán, văn hóa, phong tục và văn minh Trung Hoa.
Vừa là sử gia vừa
là nhà ngôn ngữ học Trương Vĩnh Ký đã đánh giá Sỹ Nhiếp là người hủy diệt chữ
viết cổ của người Việt, đồng thời áp đặt cách cai trị và văn hóa của người Hán
giết chết văn hóa cổ của người Việt Nam.
Điều này cho thấy
ông hiểu rất rõ khi phải mượn tay người Pháp phổ biến chữ Quốc ngữ để cạnh
tranh và loại bỏ ảnh hưởng tiếng Hán và cả tiếng Pháp, để giữ gìn văn hóa,
phong tục và ngôn ngữ Việt Nam.
Pétrus
Ký tổ báo chí Việt ngữ.
Năm 1864, Pétrus Ký
được cử là Hiệu trưởng trường Thông ngôn (Collège des Interprètes) và theo lời
đề nghị của ông người Pháp cho lập tờ Gia Định báo bằng tiếng Việt.
Để phân biệt với
tiếng Pháp, tiếng Hán và tiếng Nôm, Pétrus Ký gọi cách viết tiếng Việt theo
kiểu La Tinh là chữ Quốc ngữ còn văn học thì được gọi là Quốc văn.
Gia Định báo phát
hành số đầu tiên ngày 15/4/1865 tại Sài Gòn dưới hình thức một tờ Công Báo do
ông Ernest Potteaux làm chánh tổng tài (chủ nhiệm hay tổng biên tập) và ông
Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút.
Ngày 16/9/1869,
thống đốc Nam Kỳ G. Ohier ký quyết định số 189 giao tờ Gia Định Báo cho ông
Trương Vĩnh Ký làm chánh tổng tài và ông Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút.
Gia định báo gồm
các văn kiện và quyết định của nhà cầm quyền bằng tiếng Pháp do Nha nội vụ cung
cấp và được ông Trương Vĩnh Ký dịch ra chữ Quốc ngữ. Và những bài viết tiếng
Việt về thời sự, về lịch sử, về luân lý dân gian giúp truyền bá chữ Quốc ngữ.
Trên Gia Định báo
và nhiều tài liệu khác ông lấy bút hiệu là Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký. Trong số 11
ra ngày 8/4/1870 ông kêu gọi cộng tác viên như sau:
"Lời cùng
các thầy thông ngôn, ký lục, giáo tập... đặng hay: Nay việc làm Gia Định Báo
tại Sài Gòn ở một chỗ nên không có lẽ mà biết các việc mới lạ các nơi trong sáu
tỉnh mà làm cho thiên hạ coi; nên xin các thầy cứ mỗi tuần hay là nửa tháng hãy
viết những chuyện mình biết tại chỗ, tại xứ mình ở như: ăn trộm, ăn cướp, bệnh
hoạn, tai nạn, rủi ro, hùm tha, sấu bắt, cháy chợ, cháy nhà, mùa màng thể nào,
tại sở nghề nào thạnh hơn...".
Cũng như đoạn văn
trên, đa số các bài viết tiếng Việt trên Gia Định báo đều bằng văn xuôi, ngắn
gọn, đơn giản, dễ đọc, dễ hiểu, viết theo cách nói của người miền Nam, viết một
cách đàng hoàng theo lễ giáo Việt Nam.
Ông giữ vai trò
chánh tổng tài đến năm 1872 thì giao lại cho ông Ernest Potteaux không rõ vì lý
do gì.
Như vậy, Trương
Vĩnh Ký chính là chủ nhiệm báo Việt ngữ đầu tiên và theo cách ông hướng dẫn làm
báo thì ai cũng có thể làm báo, không khác gì cách làm báo mạng ngày nay.
Năm 1888, Trương
Vĩnh Ký cho xuất bản tạp chí Thông Loại Khóa Trình, như vậy ông cũng là chủ báo
tư nhân đầu tiên tại Việt Nam.
Thông Loại Khóa
Trình là một tạp chí văn học sưu tập nhiều văn thơ, câu đối, câu hò, câu hát
dân gian, nhằm cổ vũ phong tục cổ truyền, phổ biến văn hóa dân tộc có cả thơ
văn chống Pháp và lịch sử Việt Nam.
Thông Loại Khóa
Trình cho thấy tinh thần yêu nước của Petrus Ký với nhiều bài viết về các nhân
vật lịch sử có tài chống ngoại xâm của Việt Nam, như Nguyễn Trãi, Lý Thường
Kiệt, Mạc Đĩnh Chi, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản...
Thông Loại Khóa
Trình còn phổ biến những bài thơ chống Pháp của Bùi Hữu Nghĩa, những bài vè như
vè Khâm sai và cả hịch chống Pháp của Nguyễn Tri Phương.
Cộng tác với Thông
Loại Khóa Trình có các ông Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký, Trần Chánh Chiếu,
Lương Khắc Ninh, và nhiều người yêu nước khác.
Những người đọc báo
biết chữ quốc ngữ khi ấy đều là công chức Pháp hay học sinh trường Pháp nên nhà
cầm quyền Pháp tìm cách tẩy chay, báo không bán được.
Thiếu vốn, Thông
Loại Khóa Trình chỉ ra được 18 số đến tháng 10/1889 thì đóng cửa. Trong
số báo này Trương Vĩnh Ký cho biết: “Nay vì bởi không có vốn cho đủ in luôn
Thông Loại Khóa Trình nữa nên ta cực chẳng đã, phải đình in”.
Petrus Trương Vĩnh
Ký ông Tổ báo chí Việt Nam qua đời 1/9/1889 trong nghèo khó và nợ nần.
Tạo
nền tảng Quốc văn và giáo dục…
Ngay từ năm 1866
Trương Vĩnh Ký đã cho in ấn phẩm văn xuôi đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ là cuốn
Chuyện Đời Xưa.
Từ đó ông không ngừng
viết và để lại một di sản văn học với ít nhất 119 tác phẩm cả tiếng Việt lẫn
tiếng Pháp.
Các tác phẩm đều là
những công trình soạn thảo một cách cẩn thận và khoa học nhưng dễ hiểu, dễ
quảng bá, bao trùm mọi thể loại từ ngôn ngữ, tự điển, sách giáo khoa lịch sử,
địa lý, pháp luật, dân tộc học, kinh tế, chính trị, sinh học và văn học.
Kho tàng văn học này
là căn bản định hình cho một nền Quốc văn với chủ trương gìn giữ đạo lý văn hóa
dân tộc nhưng học hỏi văn minh Tây Phương để cải cách đất nước, mở mang dân trí
giúp nước nhà độc lập và giàu mạnh.
Để truyền bá chữ Quốc
ngữ và tư tưởng canh tân, Trương Vĩnh Ký còn chọn việc dạy tiếng Việt và đào
tạo hằng ngàn thanh niên theo tân học tạo nền tảng cho Phong trào Duy Tân và
Đông Du sau này.
Ảnh hưởng triết lý và
tư tưởng của Trương Vĩnh Ký đến nền văn hóa và giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là
lấy nhân bản, dân tộc và khai phóng làm căn bản.
Nỗ
lực 'thoát Hán' của các vua nhà Nguyễn…
Trong chuyến đi sứ
sang Pháp cùng Phan Thanh Giản năm 1863, Petrus Ký gặp và làm quen với nhà bác
học Paul Bert.
Ông Paul Bert là giáo
sư khoa học đại học Bordeaux và Paris, ông tham gia cách Mạng Pháp năm 1870 và
trở thành Tổng trưởng Giáo dục và Nghị sĩ Quốc hội Pháp.
Tháng 2/1886, ông
được bổ nhiệm Thống sứ triều đình Huế. Ông chủ trương tiến bộ và muốn thực hiện
cải cách nên đã đích thân thăm và mời Trương Vĩnh Ký ra Huế giúp vua Đồng
Khánh.
Nhà vua phong Petrus
Ký chức Hàn lâm viện thị giảng học sĩ và dạy cho vua Đồng Khánh tiếng Pháp.
Năm 1887, Petrus Ký
có dâng vua Đồng Khánh 24 điều để đối phó với Pháp. Trong đó ông có đề cập việc
cải cách giáo dục, bỏ dạy chữ Hán, dạy chữ Quốc ngữ và học hỏi văn minh Tây
phương.
Đến cuối thời vua
Thành Thái các đề nghị của Petrus Ký mới được nhà vua ban sắc lệnh cho thi
hành.
Chính sắc lệnh này đã
dẫn tới phong trào Duy Tân, dùng chữ quốc ngữ để thoát Hán được trình bày khá
rõ trong bài viết trước “Quốc ngữ và nỗ lực 'thoát Hán' của các vua nhà
Nguyễn”.
Nhà giáo dục Trương
Vĩnh Ký với triết lý sống chẳng vì mình nên không cần chúng ta phải “minh oan”.
Ngược lại chúng ta
cần tìm ra sự thật, cần hiểu biết sự thật và cần phổ biến sự thật để qua đó
chúng ta có thể ghi nhận ân đức cũng như học hỏi từ Trương Vĩnh Ký và những bậc
tiền bối những người đã có công đóng góp cho nền văn học nước nhà.
Đồng thời chúng ta
cần tiếp tục giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, văn hóa và phong tục để
truyền lại cho con cháu chúng ta.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
6/12/2018
Winston Phan Đào
Nguyên, 2017, Minh oan cho Pétrus Trương Vĩnh Ký về câu ‘ở với họ mà
không theo họ’ , Nghiên Cứu Lịch Sử.
Winston Phan Đào
Nguyên, 2018, “Petrus Key và Petrus Ký - Chuyện một lá thư mạo danh Trương
Vĩnh Ký vào thế kỷ 19”, gồm 3 bài viết trên Nghiên Cứu Lịch Sử.
Nguyễn Quang Duy,
2018, Quốc ngữ và nỗ lực 'thoát Hán' của các vua nhà Nguyễn, BBC
tiếng Việt.