Nguyễn Đình Cống
Cùng với việc chống diễn biến hòa
bình, chống tự chuyển hóa, thì “chống lật sử” ( chống lật lại lịch sử) đang là một việc
được các tuyên truyền viên và dư luận viên của Đảng quan tâm.
Sử nào ?. Đó là sử cận đại gắn với phong trào
cộng sản. Tại sao có sự lật và chống lật ?. Tại vì sử này ngoài nguồn do các sử
gia lề Đảng công bố trong các tài liệu chính thống còn có nguồn từ các sử
gia và những người nghiên cứu thuộc lề Dân. Hai nguồn này có chỗ giống và khác
nhau. Lật sử liên quan đến những chỗ khác nhau đó.
Ai lật ?. Gọi lề Đảng là bên A,
lề Dân là bên B, Bên A quy kết, chụp mũ cho bên lề Dân là thế lực thù địch, là bọn lật sử . Bên B
lại cho rằng họ mới là người trình bày sự thật, còn bên A làm việc bịa đặt, xuyên
tạc lịch sử để tuyên truyền, để phục vụ mục đích chính tri của ĐCS. Sự thật chỉ
có một. Vậy ai đúng ai sai ở chỗ nào, dựa vào đâu để phân xử ?
Thử xem một số sự kiện. Bên A cho
rằng Lê Văn Tám, Võ Thị Sáu là những anh hùng trong kháng chiến chống Pháp. Bên
B cho là bịa đặt. Mỗi bên đều đưa ra những chứng cứ rất khó đánh giá mức độ tin
cậy.
Sau khi kết thúc chiến tranh ngày
30 tháng 4 năm 1975, có chuyện về xe tăng nào đầu tiên vào Dinh Độc lập .
Trong nhiều năm bên A cho là xe số 843 với Bùi Quang Thận, còn những
chiến sĩ xe số 390 do Đặng Văn Toàn chỉ huy
và con em họ đã bị đối xử bất công vì dám nhận chính họ là xe đầu
tiên húc mở cánh cổng vào Dinh. May nhờ
nhà báo Pháp ( De Mulder ) công bố phim đã quay mới gỡ được nỗi oan cho xe 390.
Còn chuyên ai đã đọc cho Dương
Văn Minh thảo văn kiện đầu hàng. Trong nhiều năm có sự tranh chấp giữa Phạm
Xuân Thệ , lúc đó là đại úy, sau này là trung tướng và Bùi Văn Tùng
, lúc đó là trung tá, về hưu với hàm đại
tá. Hai bên đều đưa ra những “chứng cứ không ai chối cãi được” để giành phần
thắng. Khổ thay mỗi bên đều dựa vào một phần sự thật. Không ai phân xử được.
Người biết rõ nhất là Dương Văn Minh đã chết và không viết hồi ký về chuyện
này. May mà rồi có tường thuật của nhà báo người Đức (Borries Gallasch ) mới rõ
đầu đuôi câu chuyện .
Rồi chuyện Gạc Ma tháng 3 năm
1988. Có hay không lệnh cấm nổ súng vào bọn giặc cướp Trung cộng ( hoặc cấm nổ
súng trước). Ông Lê Đăng Doanh nói rằng đã tự mình nghe ông Lê Đức Anh
công nhận đã ra lệnh, nhưng nhiều tướng tá khẳng định là không có, vì trong
lịch sử Hải quân không ghi. Chuyện về Hồ Chí Minh, ông có được Liên Hiệp quốc
tôn vinh là Nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới hay không. Trong rất nhiều năm
sách báo bên A đều ghi rõ ràng với các bằng chứng cụ thể, nhưng rồi bỗng nhiên
có người bên B phát hiện ra không phải.
Những chuyện như trên nhiều
vô kể, nhưng chỉ liên quan tới vài người. Những chuyện lớn hơn liên quan tới
hàng ngàn, hàng van người như vụ đàn áp ở Quỳnh Lưu năm 1956, vụ đầu độc
ở nhà tù Phú Lợi năm 1958, vụ thảm sát ở
Huế năm 1968, vụ nông dân Thái Bình năm
1997, vụ 74 binh sĩ của Sài gòn hy sinh ở Hoàng Sa năm 1975 là có công
bảo vệ đất của Tổ quốc hay không ( vì là “quân ngụy”), v.v…thì A và
B đều có kết luận trái ngược nhau.
Chuyện tương đối lớn như
phá hoại Hiệp định Geneve và Paris. Cả ta và đối phương đều phá, nhưng
bên nào chủ động phá và phá nhiều hơn. Rồi cuộc chiến tranh 20 năm (
1955- 1975), là nội chiến hay chống xâm lược, ngày 30/4/1975 là ngày giải phóng hay ngày kết thúc chiến
tranh, gọi chính quyền và quân đội của Miền Nam trước 30/4 là ngụy quyền, ngụy
quân hay là chính quyền và quân đội Việt Nam cộng hòa v.v… Quan điểm của
A và B trái ngược nhau.
Chuyện khá lớn liên quan tới cách
mạng tháng 8.( CM T8). Sử chính thống ghi rằng CM T8 đã đánh Pháp, đuổi
Nhật, giành độc lập, đem chính quyền về cho nhân dân. Điều này đã được phần
đông dân Việt Nam và nhiều người trên thế giới công nhận là đúng, là sự thật
hiển nhiên. Đó là kết quả của tuyên truyền lặp lại nhiều lần và bưng bít một số
sự kiện lịch sử. Bên B cho rằng cả 4 điều trên đếu là bịa đặt, đều là dối
trá. Bên lề Đảng khẳng định rằng bọn B là thù địch, chúng lật sử để phủ nhận
thành quả CM T8. Bên B cho rằng A là bọn bút nô, xuyên tạc lịch sử nhằm phục vụ
cho đường lối chính trị của Đảng.
Lập luận của lề Đảng tương đối rõ và
nhiều, mọi người đều biết, tôi không viết ra đây (sẽ làm cho bài quá dài). Chỉ
xin nêu vài lập luận của B.
Bên B cho rằng khi thành lập Mặt
trận Việt Minh vào năm 1941 thì VM có đề ra 4 nhiệm vụ trên, nhưng quá
trình làm CM T8 thì không làm việc nào trong 4 việc ấy cả. Không đánh Pháp vì
toàn bộ quân Pháp đã bị Nhật loại bỏ vào ngày 9/3/1945. Không đuổi Nhật vì Nhật
đã đầu hàng, bị quân Đồng minh tước vũ khí, sau đó thì rút về nước. Không giành
độc lập vì ngày 11 /3/1945 vua Bảo Đại đã tuyên bố Việt Nam độc lập, xóa bỏ mọi
hiệp ước ký với Pháp. CM T8 chỉ làm một việc là cướp chính quyền từ chính phủ
Trần Trọng Kim. Đó là cướp chính quyền cho Đảng chứ không phải cho nhân dân. Từ 1945 đên nay thực
chất chính quyền là của ĐCS, quyền của
nhân dân đã bị Đảng tước đoạt. Về chính phủ Trần Trọng Kim, bên B cho là
chính phủ hợp pháp, bên A quy kết là bù nhìn, tay sai của Nhật.
Bên B thách bên A.chỉ ra CM T8
đánh Pháp thì đánh trân nào, ở đâu, lúc nào, ai đánh. Không thể kể trận đánh
đồn Phai Khắt, Nà Ngần vào CM T8 và đánh Pháp. Nói CM T8 đuổi Nhật thì
hãy chứng minh đuổi như thế nào. Không thể dẫn chứng hoặc chứng minh được vì
thực tế có diễn ra đâu.
Việc dựa vào khẩu hiệu năm
1941 rồi gán cho việc không làm trong CM T8 phải chăng là dối tra, bịa
đặt. Việc vạch ra sự thật này là lật sử hay bảo vệ sự thật lịch sử. Nếu
có lật thì đó là lật tẩy sự tuyên truyền dối trá của bên A chứ không phải lật
sử.
Tôi đã đọc nhiều bài về
chống lật sử với những bút danh như Hoàng Trọng Đức, Chế Trung Hiếu , Anh Phương
Nguyễn, Phạm Quang Núi, Phạm Thông, Lốc Liếc, Đặng Nguyệt, Hoàng Ngân Thương,
Lê Hương Lan, Khuất Biên Hòa, đặc biệt là các ông tướng Hoàng Kiền, Nguyễn
Thanh Tuấn, Nguyễn Quốc Thước.
Trong các bài về chống lật sử,
đáng chú ý là một số bài đả kích bộ sử 15 tập, có dẫn ra vài chi tiết, vài cái
tên để phê phán. Họ to tiếng chửi rủa Phan Huy Lê, Trần Quốc Cường và các tác
giả vì chuyện không gọi ngụy quân, ngụy quyền mà gọi là quân đội và chính quyền
của Việt Nam cộng hòa. Người ta dựa vào câu thơ chúc tết của Hồ Chí Minh “ Đánh
cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” để khăng khăng bắt mọi người gọi ngụy quân,
ngụy quyền. Họ bịa đặt rằng không gọi ngụy quân là đã phản bội sự hy sinh xương
máu của hàng triệu chiến sĩ quân Giải phóng. ÔI ! Nếu cứ cố tình đề cao hận thù
như thế thì làm sao, khi nào mới hòa giải, hòa hợp được dân tộc.
Không những nhóm của Phan Huy Lê bị chửi rủa,
họ còn lên án Võ Văn Kiệt chống lưng cho bọn lật sử, lên án tướng Lê Mã Lương.,
nhà văn Nguyên Ngọc , Nguyễn Văn Phước rất nặng nề , chửi rủa cả nhà sử học
Trần Quốc Vượng, Trần Huy Liệu
Ngoài phê phán việc không gọi
ngụy quân ngụy quyền, các bài viết khác về lật sử đều mang tính cách “ thùng
rỗng kêu to”. Họ thi nhau hô khẩu hiệu : Đả đảo bọn lật sử. Lật sử là
chống lại sự lãnh đạo của Đảng. Lật sử là phản bội sự hy sinh của ông cha. Lật
sử là thực hiện diễn biến hòa bình. Chống lật sử là thể hiện lòng yêu nước và
trung thành với Đảng, là bảo vệ thành quả cách mạng v.v… Ngoài các ý chung
chung như vậy, họ không nêu ra được những trường hợp cụ thể và phân tích rõ bên
B đã lật sử như thế nào. Riêng trường hợp Lê Văn Tám, Võ Thị Sáu bên A
cũng chỉ dựa vào các thông tin từ lề Đảng mà không phản bác được các chứng cứ
của bên B.
Việc tìm ra sự thật xem người ta
đã xuyên tạc hoặc lật sử như thế nào cần có thời gian và tự do ngôn luận,
cần có những nhà nghiên cứu có tài năng và thực sự khách quan, không bị ý thức
hệ chi phối, không sợ việc bị đối lập trả thù. Người ta thường nói : “ Việc này
để lịch sử sau này làm sáng tỏ”.
Ừ thì để dần dần. Nhưng thế hệ
chúng ta có trách nhiệm gì và có thể làm được gì để đóng góp vào việc tìm sự
thật lịch sử đương đại. Có lẽ cách bình thường và hay nhất là đối thoại công
khai giữa A và B trên nền tảng tự do ngôn luận, tự do báo chí. Đối thoại công
khai nhằm 2 mục đích chính :
1-Để mỗi bên trình bày hết các
quan điểm, các lập luận của mình và tiếp nhận từ bên kia các quan điềm , lập
luận của họ. Qua việc này, với thiện tâm, mỗi bên biết được chỗ thiếu sót của
mính, chỗ hợp lý của bên kia, để điều chỉnh nhận thức và dần dần giải
quyết mâu thuẩn, xóa bỏ bất đồng ( nếu không có thiện tâm không làm được việc
này).
2- Để cho bên thứ 3 là đại bộ
phân quầ n chúng nhân dân biết rõ được quan điểm và chứng cứ, lập luận mỗi bên
. Từ đó quần chúng nhân dân tự đánh giá để quyết định ủng hộ bên nào.
Việc tranh thủ bên thứ ba là vô
cùng quan trọng. Chẳng thế mà ĐCS đề cao công tác Dân vận. Nhưng hình như càng
tăng cường dân vận thì dân càng mất lòng tin, càng xa rời. Phải chăng vì thế mà
ngoài các đoàn thể trong mạt trân Tổ quốc, ở Nghệ An còn lập thêm Hội Cờ đỏ,
trong quân đội còn lập “ Lực lượng AK 47”.
Bên thứ ba có thể phân thành 3
nhóm. Nhóm 3A ủng hộ lề Đảng, nhóm 3B ủng hộ lề Dân, nhóm 3C không quan
tâm gì đến chính trị và lịch sử, nhóm này đông nhất.
Hiện nay ở VN chưa có tự do ngôn luận và chưa
có được những đối thoại công khai, mặc dầu ông Võ Văn Thưởng, trưởng ban tuyên
giáo của ĐCS có hứa hẹn. Báo chi chính thống chỉ đăng những bài về chống lật sử
của bên A và thường chỉ được nhóm
3A hưởng ứng, ca ngợi. Các bài của bên B thường chỉ được đăng trên các
trang mạng lề Dân và nhiều lúc bị ngăn chặn bởi tường lửa.
Trên kia tôi điểm qua một số nội
dung các bài chống lật sử của bên A, lập luận của họ chủ yếu dựa vào những điều
đã được phe Đảng tuyên truyền, lưu hành. Về phương pháp luận nghiên cứu
khoa học cách làm đó phạm lỗi suy luận vòng quanh. Thật ra thì ban đầu phe Đảng
cũng dựa vào một số sự thật lịch sử, nhưng đó là sự thật được chọn lựa và một
số đã biến dạng qua lăng kính của Chủ nghĩa Mác Lê. Cũng giống như tuyên truyền
Chủ nghĩa Mác Lê, các bài chông lật sử chứa rất nhiều ngụy biện.
.Lập luận của bên B chủ yếu dựa
vào chứng cứ thực tế. Nhưng thực tế mênh mông, mỗi người nắm được một phần. Bên
B bị quy cho lật sử vì đã nêu lên những phần của thực tế khác với điều bên A
công bố.
Về những bài báo của bên B. Tôi
cũng đọc được khá nhiều. Chủ yếu là những bài trình bày những sự thật của một
số sự kiện lịch sử mà tác giả cho là ngược lại với gì bên A đã viết hoặc
không viết, không phê phán ai cả. Về trao đổi quan điểm tôi chỉ mới tìm thấy
bài “Có nên lật lại lịch sử” của Đặng Chí Hùng, đăng ở trang Dân làm báo (
tháng 5/2012). Đại ý ông Hùng cho rằng nếu có phần nào của lịch sử đã được viết
không chính xác thì cần lật lại lắm chứ.
Trong lúc đấu tranh và chờ
đợi cho tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tổ chức các buổi trao đổi
học thuật về lịch sử, tự do và công khai các cuộc đối thoại để tìm sự thật thì cần có nhận thức đúng về vai trò của môn
lịch sử.
Nghiên cứu lịch sử là một môn của
Khoa học xã hội và nhân văn. Là khoa học, nó phải giữ được sự trung thực, độc
lập, khách quan, không bị chi phối bởi tình cảm , không bị khống chế bởi bất kỳ
đảng phái , lực lượng chính trị hoặc quyền lực nào.
Viết sử chủ yêu là ghi chép lại
trung thực những việc đã xẩy ra, không thêm bớt, không bình luận. Nói
không thêm bớt là so với những quan sát của mình hoặc những tài liệu mình đã
tham khảo chứ khó có thể so với toàn bộ sự việc xẩy ra. Người viết sử không
bình luận, không chèn tình cảm của mình váo sự kiện. Việc bình luận và
thể hiện tình cảm là của độc giả.
Nhiều đồ đệ của Chủ ghĩa Mác Lê
cho rằng lich sử phải phục vụ cho chính trị. Đó là một quan điểm phản
khoa học, phản nhân loại.