Khoảng
20 năm nay, tôi đã viết hàng trăm bài đăng trên các báo chí công khai trong
nước (kẹt lắm không đăng đâu được mới phải gởi lên mạng internet vài ba
bài), phần nhiều thuộc loại chính luận, liên quan đủ mọi vấn đề quốc kế dân
sinh hệ trọng, theo hướng phê bình góp ý thẳng thắn cho các nhà đương cuộc
với ước mong đất nước Việt Nam chúng ta ngày một khá hơn và người dân lao động
bớt phải lao đao lận đận trong một trong một xã hội tiếng là xã hội chủ
nghĩa nhưng đầy rẫy bất công mà hố ngăn cách giàu nghèo ngày một thêm giãn
rộng, các hiện tượng tham nhũng tiêu cực ngày một thêm gia tăng, tội ác và
đạo đức xã hội xuống cấp như lao dốc đến mức vô phương cứu chữa!
|
Trong
khi vận dụng ngòi bút một cách đầy thiện ý như vậy, tôi đã cố ý không dùng
tới chữ Đảng (hay Đại hội Đảng, Nghị quyết Đảng. Điều lệ Đảng…) vì không muốn
trực tiếp đụng chạm vào cái gọi “vùng cấm”, một thứ cấm kỵ vô hình không có
văn bản pháp luật quy định mà ai muốn góp ý gì cũng phải liệu hồn! Và để
tránh dùng chữ “Đảng” vốn mang một hàm ý đỏ hoét và dữ dội, tôi đã phải
thay thế bằng một số từ ngữ nghe nhẹ nhàng hơn, như Nhà nước, Chính phủ, hoặc
“nhà cầm quyền”, “nhà đương cuộc”, “nhà chức trách”, hoặc lịch sự hơn nữa
là “những người có trách nhiệm”…
|
Tôi chỉ
là một phần tử quá bé nhỏ, một công dân không chức vụ, cùng lúc và song
song với tôi còn có hàng trăm, hàng ngàn vị nhân sĩ trí thức, cán bộ công
nhân viên chức nhà nước và thường dân, họ cũng tận tình góp ý vì được nhà cầm
quyền “của dân, do dân, vì dân” khích lệ, mục đích là để góp phần đổi mới
diện mạo đất nước về các mặt chính trị-kinh tế-văn hóa-xã hội…. Nhưng sau
nhiều chục năm tỏ bày trung thực chính kiến đủ kiểu đủ nơi, mọi người đều cảm
thấy rõ ý kiến của mình dường như lạc lõng vô vọng trước sự lúng túng bất lực
của cái tổ chức thành trì xơ cứng có trách nhiệm lãnh đạo toàn diện đất nước,
vì những điều gì cần được khắc phục thì trái lại chỉ có tăng thêm hoặc biến
tướng một cách thiên hình vạn trạng (như nạn đặc quyền đặc lợi, chạy chức
chạy quyền, tham nhũng hối lộ, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, nhiễm
độc thực phẩm, bằng dỏm bằng giả, gian lận thi cử…), số cán bộ cấp cao vào
tù ngày một đông thêm, tệ nạn xã hội không giảm… Giả định đem tất cả
những điều mọi người góp ý phân loại ra gom lại thành sách, thì cũng phải
trên chục ngàn quyển dày cộp, phải xây một thư viện “dân ý” rộng bằng thư
viện quốc gia chứa cũng không đủ!
|
Thoạt
nghĩ, ai cũng có thể cho rằng sở dĩ có tình trạng ù lì kéo dài như trên là
vì nhà đương cuộc cộng sản Việt Nam (CSVN) đã phạm phải nhiều sai lầm
đáng trách và một cách có hệ thống, nhưng nghĩ kỹ lại thì không phải thế. Bởi
một lẽ đơn giản, sai lầm là do bệnh ấu trĩ hoặc thiếu hiểu biết, thiếu kinh
nghiệm và một khi được người khác chỉ ra nhắc nhở thì phải có phương cách sửa
chữa, sớm hoặc muộn. Ở đây, trái lại, người ta không thiếu kinh nghiệm, mà
lại có rất nhiều kinh nghiệm, chủ yếu là kinh nghiệm “làm lơ” hoặc trấn áp
khi cần.
|
Theo
cách nhìn này thì các nhà đương cuộc CSVN không phạm một sai lầm nào cả, mà
chủ trương chính sách của họ là nhất quán xuyên suốt như thế như thế, “nhất
mạch tương thừa”, dù người đứng đầu có thể khác nhau, được công khai ghi
trong các bản nghị quyết hoặc ngấm ngầm chỉ thị từ bên trong, về điều mà họ
cần phải làm, mà nếu không làm vậy thì họ không còn là họ nữa, đã biến sang
một bản chất khác. Ví như chủ nghĩa lý lịch, việc chọn người theo phương thức
quy hoạch và cơ cấu (vô các cơ quan chính quyền, đoàn thể, Quốc hội…) có
tác dụng xấu tiêu diệt người tài đức, để chen vào những kẻ cơ hội bất tài
phá hại quốc gia, thì CSVN về cơ bản chưa bao giờ chịu khắc phục sửa chữa bằng
những giải pháp cụ thể.
|
Hoặc
như Cải cách ruộng đất (CCRĐ), hợp tác hóa nông nghiệp, chế độ quan liêu
bao cấp… đã đưa nhân dân miền Bắc trong thời gian dài (1954-1975) vào cái
tình thế hiểm nghèo khốn khổ không thể tưởng tượng, các nhà lãnh đạo cấp
cao bên trên đều trông thấy rõ đó, nhưng chẳng hề biết xót xa động lòng, và
sau khi hi sinh hàng triệu nhân mạng để “giải phóng” miền Nam năm 1975 rồi
thì bao nhiêu phương thức/mô hình cũ của miền Bắc XHCN cũng đều được đem ra
áp dụng đầy đủ, trong việc cũng hợp tác hóa nông nghiệp, cũng cải tạo tư sản,
và nhất là còn thêm các trại tù cải tạo vô cùng khắc nghiệt, khiến cho sinh
linh đồ khổ, lòng người ly tán, tạo nên một phong trào thuyền nhân người Việt
bỏ xứ ra đi một cách đau đớn trên lộ trình biển hiểm nguy với quy mô chưa từng
thấy trong lịch sử.
|
Làm cho
dân khổ bằng chính sách bần cùng hóa đã là sai lầm có tội rồi, nhưng họ đâu
cho đó là sai lầm, nên vẫn cứ tiếp tục áp dụng vào miền Nam Việt Nam sau
ngày đất nước thống nhất. Đường lối văn nghệ cũng vậy thôi, tiêu diệt
mọi sáng kiến và trí sáng tạo văn nghệ cá nhân, làm tê liệt tự do tư tưởng,
để chỉ cho ra những sản phẩm giáo điều cổ vũ đấu tranh giai cấp cùng lòng
thù hận, ai làm trái sẽ không còn đất sống, mà tiêu biểu là vụ án Nhân Văn
Giai Phẩm (1955-1958).
|
Họ phải
làm và cần làm như vậy để triệt tiêu những mầm mống và tàn dư của chủ nghĩa
tư bản, để cho tầng lớp hữu sản không thể ngóc đầu dậy được, bao nhiêu lợi
quyền về tay nhân dân nhưng thực tế và chủ yếu là vào tay những người được
phân công quản lý mọi mặt chính trị-kinh tế-văn hóa-xã hội ở các cấp từ
trung ương xuống đến các thôn xã, với kết quả thực tế là hình thành nên một
giai cấp mới mà người ta còn gọi tư sản đỏ, cũng là nguyên nhân gốc rễ của
tình trạng tham nhũng hối lộ và thu nhập tài chính bất lương có sự câu kết
lẫn nhau giữa các nhóm lợi ích, vô phương cứ chữa!
|
Trong
năm 1956, khi cuộc CCRĐ long trời lở đất đã bể đổ hết rồi, với cả trăm ngàn
người bị đấu tố kết tội oan và bị giết, người ta bắt buộc phải đứng ra tổ
chức nhận khuyết điểm. Họ mời một giáo sư tên tuổi ra thuyết trình về
nguyên nhân của những sai lầm trong CCRĐ, vị này được lời như cởi tấm lòng,
thẳng thắn phân tích nói ra hết các sự thật và đề nghị một loạt giải pháp
cơ bản theo hướng cải cách chính trị. Vị giáo sư tài giỏi trung thực mà hồn
nhiên này sau đó bị “rút phép thông công” phải kéo lê cuộc đời của người
trí thức khốn khổ cho đến ngày tàn lụi. Trong khi đó, những nhà lãnh đạo trực
tiếp cuộc CCRĐ thì tuy có bị tập thể kiểm điểm để nhận kỷ luật nhưng cũng
chỉ thể hiện dưới hình thức chuyển công tác khác, về sau có người còn ngoi
lên lại để nắm vị trí đứng đầu nhất nước. Hầu như không ai tự từ chức hoặc
bị cách chức về đuổi gà cho vợ!
|
Năm
1960, khi nhà lãnh đạo Khruschev của nước đàn anh Liên Xô đứng ra hô hào
“xét lại” thì cả nhóm những người cầm quyền trong nước hoang mang, “ủa sao
lạ vậy?”, họ yêu cầu một ông có tư cách hàn lâm về chủ nghĩa Mác-Lê ra giải
thích. Ông này cũng thật tình, nói ra hơi hướm ủng hộ xét lại, thế là đời
ông bắt đầu khốn khổ với hai lần ngồi nhà tù CS…
|
Cho nên
mới nói, các nhà đương cuộc CSVN không nghe lời nói phải quấy của ai bao giờ
và cũng không hề phạm sai lầm. Chỉ là do họ cố ý cần làm những việc phải
làm, kiên trì nguyên tắc lập trường cơ bản, sau khi đã bàn bạc kỹ trong bộ
máy tổ chức chính trị ở cấp quyết định cao nhất. Ai chỉ ra việc họ làm mà
nói đó là sai lầm thì đồng nghĩa với sự khốn khổ, như thể có tội, bị nghi kỵ,
bị cho là có kẻ địch bên ngoài lợi dụng câu kết chống phá, mất quan điểm lập
trường, rồi bị hạ tầng công tác, cho đi lao động khổ sai cải tạo tư tưởng,
hoặc thậm chí ngồi tù…
|
Do
không bao giờ vô tình phạm sai lầm vì bệnh ấu trĩ hay vì thiếu kinh nghiệm
thực tiễn nên CSVN cũng không bao giờ chủ động chịu đổi mới. Chính phủ liên
hiệp năm 1946 quy tụ các thành phần trí thức sáng giá trong nước chẳng qua
chỉ là sách lược chính trị tạm thời, mà mắt thiên hạ. Quốc hội thời đó cũng
vậy, và cái bản hiến pháp đẻ ra trong giai đoạn này được nhiều người khen
là dân chủ nhất trên thực tế tính cho đến mãi hôm nay cũng không có một điều
nào được thực hiện, nhất là về các quyền công dân liên quan đến tự do ngôn
luận, biểu tình, lập hội… Cho đến Hiến pháp năm 2013, sau nhiều lần chỉnh sửa
hình thức câu chữ, bản chất cũng chỉ là một.
|
Tương tự
như vậy, các bản nghị quyết Đại hội (5 năm một kỳ) đi cùng với phương hướng
nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, cũng chỉ là chỉnh sửa câu chữ, còn các
nguyên tắc cơ bản như nào là chủ nghĩa Mác-Lê, nào là quốc doanh chủ
đạo, nào là đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý… thì vẫn y
nguyên. Khi tình hình đất nước đi tới chỗ hiểm nguy vào những năm đầu thập
niên 1980 của thế kỷ trước, do hậu quả của bản hiến pháp và các bản nghị
quyết giáo điều đưa lại, người ta bắt buộc phải sửa thêm một vài chủ trương
như khoán sản phẩm, xóa bỏ chế độ quan liêu bao cấp, chấp nhận kinh tế nhiều
thành phần nhưng quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo; về sau, tiến thêm bước
nữa là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cổ phần hóa
doanh nghiệp, phát triển kinh tế tư nhân…
|
Những
thay đổi loại này chính là do áp lực của cuộc sống và những đòi hỏi từ phía
người dân, hoặc từ dưới lên, chứ bản thân các nhà lãnh đạo CSVN không bao
giờ chủ động tự sửa đổi để đi trước một bước. Lý luận của họ, nói là để hướng
dẫn cho hành động cách mạng hoặc phương pháp quản lý kinh tế-xã hội, thật
ra chỉ là một mớ giáo điều cũ kỹ lạc hậu đi ngược với trào lưu tiến hóa của
văn minh nhân loại. Trong số những cán bộ cấp dưới thiện chí, nhờ va chạm
thực tiễn sinh động của đời sống mà giác ngộ chân lý, ai can đảm “cầm
đèn chạy trước ôtô” có khi còn tự rước lấy tai họa vào thân, mà ở đây chúng
ta không tiện nêu ra dài dòng với quá nhiều thí dụ!
|
Ngay
như Nghị quyết VI (1986) được coi là bước ngoặt đổi mới cũng thực chất không
phải đổi mới, vì nó giống như một người ngồi trong phòng tự đóng bít các cửa,
đến khi ngộp quá chịu không nổi phải mở hé tí cửa cho không khí sạch luồng
vào rồi mừng rỡ cho là đã khám phá được chân lý tuyệt diệu! Nếu cố rộng
lòng cho Nghị quyết VI (1986) một điểm son, thì điểm được này có thể gọi
chính danh là “sửa sai” hơn là “đổi mới”, mà cũng chỉ sửa lại từ những điều
tầm bậy do chính mình tạo ra từ đầu mà thôi!
|
Tại sao
dám nói vậy? Đó là vì đổi mới thì phải mang lại hiệu quả tích cực, đằng này
từ khi có “đổi mới”, đời sống nhân dân về phương diện vật chất tuy có
chỗ đáng khen là dễ thở hơn so với thời ngăn sông cấm chợ (giai đoạn
1975-1985), nhưng mọi thứ tệ hại tiêu cực như quốc nạn tham nhũng, hố ngăn
cách giàu nghèo, nạn tha hóa tranh giành quyền lực, tình trạng xuống cấp đạo
đức và tội ác gia tăng đã đạt đến mức lâm nguy, âm mưu quỷ kế và tâm lý thờ
tiền đã trở thành đặc điểm của thời đại Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều này
có nghĩa là chỉ đổi mới trên hình thức hoặc một cách nửa vời mà không có sự
tiến bộ lành mạnh thật sự, trái lại coi như đã bị hiệu ứng ngược thoái
trào, và như vậy thà không “đổi mới” còn hơn, hoặc phải đổi theo một hướng
khác hẳn.
|
Người
dân thường chỉ nhìn vào các hiện tượng bề ngoài để đánh giá, như thấy hết nạn
đói, sản xuất lương thực gia tăng (còn dư ra để xuất khẩu), đường xá cầu cống
xe cộ ngày một thêm nhiều, nhà cao tầng mọc lên tua tủa, hàng quán tràn đầy,
tiện nghi tiêu dùng phong phú dễ kiếm… thì cảm thấy lạc quan vui vẻ, cho
nhà cầm quyền là thông minh tài giỏi, mà ít khi chịu xét đến khía cạnh phát
triển cân bằng về mặt bảo vệ môi sinh, công bằng xã hội, điều kiện
chăm sóc y tế và giáo dục cho người nghèo, sự băng hoại trong đời sống đạo
đức và mối quan hệ con người...
|
Đặc biệt,
đối với đại đa số nông dân vùng sâu vùng xa, đồng bào miền núi, dân nghèo
thành thị, người tàn tật, các cụ già thuộc diện thương binh liệt sĩ, bà mẹ
Việt Nam anh hùng…, hễ thấy mỗi tháng được nhà nước cấp cho vài trăm ngàn,
hoặc được cất cho cái nhà tình thương/ nhà tình nghĩa thì đã đủ vui mừng chấp
nhận, cho là mình đã được may mắn sống trong thời đại hoàng kim được điều
khiển bởi những nhà chính trị nhân đức đại tài. Họ không thắc mắc đòi
hỏi những gì cao hơn có tính cách xa xỉ, như là tự do dân chủ, và như người
ta thường nói, dân nào thì chính phủ ấy, người dân đã không đấu tranh thì
phải “tự làm tự chịu”.
|
Cũng giống
như nước láng giềng Trung Quốc có cùng chế độ chính trị, các nhà lãnh đạo
chính trị Việt Nam thường không ưa bọn trí thức phản biện. Chỉ trí thức nô
dịch chuyên phụ họa cho đường lối chính sách mới được trọng dụng, chẳng hạn
như các ông hiệu trưởng đại học, các tổng biên tập báo, một số nghị viên Quốc
hội, Hội đồng nhân dân và thành viên Mặt trận Tổ quốc các cấp. Một số ít
trong hạng người này cũng có chí khí và thực tâm cải cách, nhưng nếu hăng
hái quá thì sớm muộn cũng mất chức.
|
Các nhà
lãnh đạo chính trị luôn khéo biết dùng những cụm từ có nghĩa lấp lửng như
“xét lại”, “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để chụp mũ
bắt tội lên những người có “ý kiến khác”, khiến chẳng ai còn dám hở môi vì
sợ bị phê bình, mất điểm. Trong khi đó, nếu xét cho thật sự công bằng tỉnh
táo và hợp với quy luật khoa học, một cá nhân con người hay một thực thể
chính trị, nếu không biết luôn xét lại để tỉnh thức, phản tư, từ đó “tự diễn
biến” “tự chuyển hóa” và diễn biến một cách hòa bình (thay vì bạo động)
theo hướng tích cực, thì không bao giờ có thể khá lên được.
|
Nói về
sự cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam, đa số người ta thường nhắc đến sự
vô lý trong Điều 4 Hiến pháp nói về quyền lãnh đạo đất nước và Điều 53 về
chế độ sở hữu đất đai (thuộc toàn dân do nhà nước quản lý), từ đó đòi hỏi
phải đa nguyên đa đảng, xã hội công dân, bầu cử - ứng cử tự do (không có cơ
cấu, hiệp thương), tam quyền phân lập, mọi công dân đều được tự do phát biểu
chính kiến, được biểu tình, lập hội, điều gì pháp luật không cấm thì được
làm…
|
Trong bối
cảnh chính trị thực tế hiện nay, những đòi hỏi như thế này là tế nhị vô
cùng, bởi vì như trên đã nói, các nhà chính trị CSVN khi khéo léo hạn chế tự
do dân chủ trên thực tế bằng cách sử dụng một kỹ thuật ngôn từ mị dân độc
đáo và gieo niềm hi vọng để nhân dân chờ đợi, họ không vô ý phạm sai lầm và
cũng không đổi mới, hoặc chỉ muốn đổi mới một cách nửa vời hình thức, chệch
choạc không hiệu quả.
|
Tuy nhiên,
trước tình hình xã hội có nhiều biến đổi và trước đòi hỏi, áp lực của thực
tế đời sống, một tổ chức chính trị dù cứng cổ tới đâu, không chịu đổi mới
cũng bắt buộc phải thay đổi. Nếu bình tâm và công bằng mà xét, vẫn có một số
nhà lãnh đạo chính trị Việt Nam sáng suốt đầy thiện chí có thực tâm cải
cách để ít nhất tránh khỏi nguy cơ sụp đổ cho tổ chức cầm quyền, hoặc để tiếp
tục được nắm quyền lãnh đạo một cách ung dung hơn mà không sợ bị nhân dân bất
bình chửi bới, nhưng họ đành chịu sự bất lực, không thi hành được.
|
Vì sao
vậy? Chính là vì ban lãnh đạo tối cao của đất nước không do dân bầu lên bằng
thể thức đầu phiếu dân chủ, mà tự mình bầu mình lên, theo kiểu quy hoạch cơ
cấu, rồi vận hành bộ máy bằng phương thức tập thể quyết định, được biện hộ
bằng lý luận giáo điều của ban tuyên giáo trung ương, với xung quanh một hệ
thống chính trị phụ họa gồm quốc hội, hội đồng nhân dân, mặt trận tổ quốc,
công đoàn, các đoàn thể (thanh niên, phụ nữ…) và các hội nghề nghiệp (như Hội
Nhà văn, Hội Sử học…), trở thành một hệ thống chính trị liên hoàn khép kín
trong vũng lầy tù túng, ở đó người ta rình rập nhau về quan điểm lập trường,
khiến mọi cá nhân đều bị tan biến vào cái tập thể mênh mông trừu tượng, con
người trở nên hèn đớn tự giấu lương tri không dám phát biểu thật chính kiến,
mà phải ép lòng đồng nhất chính kiến với tập thể đa số, đôi khi có người muốn
lặng im cũng chưa chắc được yên ổn trong cái tập thể vốn đã bị tha hóa toàn
diện; ai làm trái sẽ bị khốn khổ, hoặc ít nhất không được thăng tiến cho bản
thân mình và cả cho con cháu, người thân của mình.
|
Mấy nhận
xét vừa nêu ra trên đây thật ra đã cũ rích, không ít người nhận ra nhưng cứ
chấp nhận, lờ đi như không biết, chỉ lo tập trung thăng tiến chức vụ hoặc
nhảy ra ngoài kinh doanh kiếm sống, làm giàu. Kẻ nào thông minh vượt lên được
cả về địa vị lẫn tiền bạc thì bắt buộc phải câu kết với các nhà đương cuộc,
tạo thành chủ nghĩa xã hội thân hữu, chủ nghĩa tư bản cuồng nhiệt. Chỉ tội
đại đa số đám dân nghèo lép vế trong bữa tiệc chung cuộc đời, vì thế chúng
ta còn có lý do rất chính đáng để đấu tranh cho sự công bằng xã hội bằng
cách đòi hỏi cải cách thể chế.
|
Nhưng
như trên đã nói, các nhà lãnh đạo CSVN không phạm sai lầm mà cũng không đổi
mới, hoặc chỉ chấp nhận đổi mới lưng chừng; khi cần đổi mới thật sự thì vướng
phải bi kịch bị kẹt không nhúc nhích được, không dám nói ra được. Người ta
bảo người CS vừa là tội đồ, vừa là nạn nhân của chính họ, chính là vì thế:
họ mất hết mọi quyền tự do! Rốt cuộc, tất cả mọi người Việt Nam trong chế độ
XHCN, kể cả dân và cán bộ, đều như phải sống trong một cơn lên đồng tập
thể, mất hết ý chí và quyền làm chủ bản thân, và cũng không “làm chủ tập thể”
XHCN được!
|
Từ đó
đâm ra có nhiều tật xấu giả dối, người làm cơ quan nhà nước thì phải sống
hai mặt, trở thành kịch sĩ, mắt nhìn nhau nghi kỵ; chứng bệnh vô cảm và tự
kỷ gặp môi trường thuận lợi được phát triển trên diện rộng. Cái gọi là “sự
đồng cảm” (empathy), lương tâm, dũng khí, bụng giúp người… lần lần biến mất,
và có một cụm từ để chỉ khá đích xác cho trạng thái tâm thần này được gọi
là chứng rối loạn thần kinh tập thể (collective neurosis), do chính cái thể
chế chính trị lạc hậu gây ra.
|
Các nhà
chính trị CSVN bây giờ đã trở thành nạn nhân thì chính họ không thể tự cứu
lấy mình được, điều này có nghĩa công cuộc đổi mới chính trị một cách thực
chất cần phải có những lực tác động từ bên ngoài, tức từ phía nhân dân, và
chính nhân dân đến lượt mình sẽ trở thành vị cứu tinh cho những người CS
thoát khỏi hoàn cảnh bế tắc rất bi kịch của họ. Trước đây các nhà hoạt động
chính trị CS tự hào được tiếng tốt cứu dân ra khỏi ách thống trị của thực
dân, thì giờ đây dân tế độ lại họ, cũng là chuyện bình thường, rất hợp với
truyền thống nhân đạo tình nghĩa của người dân Việt. Để làm được điều tốt đẹp
này, trước mắt chúng ta tạm không nên đá động đến mấy điều đang bị cấm
kỵ như đa nguyên đa đảng, xã hội công dân, tam quyền phân lập… Người dân Việt
Nam vì thế chỉ cần đấu tranh quyết liệt để đòi thực thi dân chủ theo đúng
những gì đã được ghi trong Hiến pháp hiện hành năm 2013. Nếu làm theo cách
này, người dân Việt Nam đại khái sẽ được:
|
1) Việc
bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo
nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín (Hiến pháp, Điều
7).
|
2) Công
dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở
lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền
này do luật định (Điều 27).
|
3) Ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo
vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật (Điều 14).
|
4) Mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời
sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội (Điều 16).
|
5) Mọi
người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật (Điều 24).
|
6) Công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập
hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định (Điều
25).
|
Quyền
công dân gì đã ghi rõ trong Hiến pháp mà chưa được thể hiện trên thực tế
thì người dân phải đòi (như quyền biểu tình…). Muốn có được nền dân chủ thực
chất thì dân chúng cần phải tranh đấu chứ không đợi các cấp chính quyền từ
tâm ban phát. Nhân dân phải “đối lập”, giám sát chính quyền thì mới có một
chính phủ tốt, vì dân chủ không phải từ trên trời rơi xuống, nhất định phải
trải qua những đấu tranh lý tính; không hiểu được đấu tranh giành quyền lợi,
thì tất yếu phải chịu sự thống trị của nền độc tài.
|
Cứ đòi
thực thi đúng, đủ bản Hiến pháp do chính các nhà đương cuộc hiện tại lập ra
là được, theo cách “lấy gậy ông đập lưng ông”. Một khi đã có được quyền tự
do bầu cử ứng cử, quyền tự do ngôn luận, báo chí, lập hội, biểu tình…
như Hiến pháp quy định, thì tuy không nói đến đa nguyên đa đảng, xã hội
công dân, tam quyền phân lập…, những thứ này lần lần cũng sẽ đạt được theo
nhu cầu bức xúc của toàn xã hội.
|
Tuy
nhiên Hiến pháp năm 2013 cũng cần phải được tu chính ở vài điều khoản quan
trọng, đặc biệt ở Điều 51 “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”, và Điều
53 “Đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý”.
|
Chính
cái nguyên tắc “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” này là cái bẫy lừa tinh vi,
một trong những cội nguồn trực tiếp gây ra tệ nạn thu nhập đất đai bất
chính của không ít cán bộ CS chức quyền, cũng là nguyên nhân của tình trạng
động loạn xã hội kéo dài thể hiện qua hàng trăm hàng ngàn cuộc khiếu kiện
đông người trong dân từ trước tới nay, trên toàn quốc, mà thời sự mới nhất
là vụ Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức, Hà Nội), dẫn đến tội ác nhà cầm quyền phải động
binh đến mấy ngàn người trấn áp, tiêu diệt người đồng chí cộng sản tuổi cao
của mình là cụ Lê Đình Kình! Hành động quá thể này đã gieo thêm mầm thù hận
và tạo nên hình thế đối lập giữa nhân dân với các nhà chức trách CS.
|
Ngoài
ra, về mặt ngôn từ, bản Hiến pháp tu chính cũng cần sửa lại một số câu chữ
“lưỡng nghĩa” rất dễ bị suy diễn và áp dụng tùy tiện.
|
Nếu không
có những thay đổi căn bản đại khái như trên thì nhà cầm quyền CSVN coi như
vẫn tiếp tục “cố ý làm trái”, không có gì đáng gọi “đổi mới”.
|
Cuối
cùng, những người CSVN có muốn được nhân dân mình cứu thoát ra khỏi trạng
thái bối rối lúng túng trong tấn đại bi kịch như trên đã mô tả hay không,
thì đây là một thách thức rất lớn mang tầm vóc lịch sử mà ban lãnh đạo tối
cao của họ cần phải bình tâm cân nhắc suy nghĩ, trong quá trình chuẩn bị
cho kỳ Đại hội XIII sắp diễn ra vào năm sau.
|
|