Ngô Nhân Dụng
Mẫu hạm G.Washington |
Sau khi hai chiến hạm thuộc Hạm Ðội số 7
Hải Quân Hoa Kỳ vừa hoàn tất một đợt tuần tra tại Biển Ðông, ngày 14 Tháng Bảy,
phát ngôn nhân Bộ Ngoại Giao Trung Cộng Hoa Xuân Oánh (Hua Chunying, 华春莹) đã phản đối, cảnh cáo rằng “tự do hàng hải không có nghĩa là
đem chiến hạm và chiến đấu cơ của một nước đi vào lãnh hải và không phận của
một quốc gia khác.”
Hôm qua Ðô Ðốc Scott Swift, tư lệnh Hạm Ðội 7, nhân gặp gỡ các nhà báo Phi Luật Tân đã nói như để đáp lời bà Hoa Xuân Oánh. Ông nói thẳng rằng những hòn đảo nhân tạo Trung Cộng mới xây dựng trong vùng Trường Sa vẫn là nơi còn đang tranh chấp giữa các nước, đối với chính phủ Mỹ chúng không thuộc nước nào. Vì vậy, hoạt động của Hải Quân Mỹ trong vùng đó không bị giới hạn: “Tôi không thấy trong viễn tượng quân sự có một thay đổi nào về các hoạt động của hạm đội Thái Bình Dương.” Phải có chỉ thị từ cấp trên trong chính phủ Mỹ ông Swift mới dám nói cứng rắn như vậy. Ông nói thêm: “Chúng tôi luôn luôn sắp sẵn để đối phó với mọi tình huống, chỉ chờ khi nào tổng thống quyết định.”
Ðô Ðốc Swift trấn an các nhà báo
Phi Luật Tân rằng Mỹ sẽ đưa thêm các chiến hạm khác tới vùng này, ngoài bốn chiếc
đang có mặt, trong đó chiếc USS Fort Worth vẫn đóng ở Singapore và vừa mới đi
qua khu vực Trường Sa. Hải Quân Mỹ đang đặt thêm 52 chiến hạm thuộc loại dùng vũ
khí tối tân nhất, một số sẽ được điều động tới vùng biển Ðông Nam Á.
Nước Mỹ đứng trung lập về vấn đề
chủ quyền trên các hòn đảo, nhưng lúc nào cũng nhấn mạnh đến quyền tự do thông
thương trên biển. Hôm qua, Ðô Ðốc Swift xác định: “Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ đã
trình bày ý kiến rõ ràng là chúng tôi không ủng hộ việc sử dụng vũ lực và áp
chế.”
Dùng vũ lực áp chế, đó chính là chủ
trương của đảng Cộng Sản Trung Quốc trong vùng Biển Ðông nước ta. Năm 1974,
Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa do các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa tử
chiến bảo vệ. Năm 1988 lại đánh chiếm thêm nhiều đảo ở Trường Sa, Hải Quân Việt
Nam được lệnh không kháng cự.
Trong mấy năm qua, Trung Cộng còn
thách thức dân Việt với nhiều hành động áp chế khác. Sau khi đem giàn khoan Hồ
Cẩm Ðào-981 tới thăm dò dầu lửa ngay trong vùng biển nước ta khiến dân Việt Nam
phẫn nộ, Trung Cộng đem tới 113 chiến thuyền, đánh phá thuyền của dân Việt đi
đánh cá. Gần đây nhất, Trung Cộng đã bước qua một lằn ranh giới khi xây dựng
các hòn đảo nhân tạo trên các bãi đá ngầm, xây phi trường và đóng quân, trực
tiếp đe dọa bờ biển Việt Nam. Ðó là một thách thức công khai xem sức chịu đựng
của dân Việt tới đâu.
Vào thế kỷ 11, vua quan nhà Tống
bên Tàu đã khiêu khích dân Việt, nhưng cũng không tàn tệ đến như vậy. Chính
quyền Khai Phong chỉ sai hai tỉnh Quảng Tây và Quế Châu tập luyện binh sĩ,
chuẩn bị lương thảo, vẽ bản đồ và làm bản kê khai về địa thế, dân số, và tài
nguyên nước Ðại Việt. Triều đình nước ta đã phản ứng trước, bằng một cuộc hành
quân tấn công qua biên giới… rồi rút về.
Triều đình Tập Cận Bình nuôi tham
vọng lớn hơn nhà Tống, và ỷ vào sức mạnh quân sự áp đảo đối với nước ta, cho
nên đã hung hăng áp chế hơn nhiều. Trước khi ông Tập Cận Bình sang Việt
Nam như đang dự tính, phải nói trước cho ông biết rằng: Tính nhẫn nhục của dân
tộc Việt Nam có giới hạn. Nếu những người đang nắm quyền ở nước ta không dám
nói điều đó, người dân phải lên tiếng.
Việt Nam phải trình bày trước cả
thế giới một cách công khai, nói rõ ràng các sự kiện Trung Quốc đã đánh chiếm
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, mới xảy ra chưa đầy nửa thế
kỷ. Cho nên dân Việt Nam không bao giờ chấp nhận quân đội Trung Quốc có mặt tại
các hòn đảo đó! Việc tăng cường binh lực, xây thêm căn cứ trên các hòn đảo
chiếm đoạt bất hợp pháp càng không thể chấp nhận. Hãy hỏi chính quyền
Trung Cộng rằng nếu Nhật Bản đưa một tiểu đội hải quân tới đồn trú tại Senkaku,
hay Ðiếu Ngư Ðài, thì thái độ của người dân Trung Quốc sẽ ra sao?
Việt Nam phải cho ông Tập Cận Bình
mình sẽ tiếp tục phản đối các hành động xâm lược trên một cách mạnh mẽ, với các
biện pháp cụ thể. Việc làm ôn hòa trước tiên là chính thức phản kháng trên các
diễn đàn và thưa kiện tại tất cả các tòa án quốc tế về những hành động thôn
tính của Trung Cộng trong các năm 1974 và 1988. Từ trước đến nay, đảng Cộng Sản
Việt Nam vẫn ngậm miệng không dám nói gì về các cuộc xâm lăng này, thậm chí còn
cấm dân Việt Nam không được bày tỏ tình yêu nước trong những ngày kỷ niệm. Tại
sao Phi Luật Tân chỉ bị đe dọa mất mấy bãi đá ngầm mà chính phủ họ đã nộp đơn
kiện Trung Cộng trước tòa án trọng tài thế giới ở Den Haag, Hòa Lan; còn Việt
Nam đã mất bao nhiêu hòn đảo từ 40 năm qua mà không hề chính thức, công khai
đòi lại?
Thái độ chịu nhục của đảng Cộng Sản
Việt Nam khiến cho các nước khác coi đó là những “sự đã rồi” đã được dân Việt
chấp thuận. Ðã đến lúc phải xóa bỏ hình ảnh nhục nhã đó trong dư luận
thế giới, nhất là chính phủ các cường quốc và các nước trong vùng. Dù nước ta
không thể đưa quân tới chiếm lại các hòn đảo đã mất, như chính Trung Quốc cũng
không đem quân đội chiếm lại Ðiếu Ngư Ðài, nhưng cần phát động khắp nước những
cuộc biểu tình “Ðòi Hoàng Sa! Ðòi Trường Sa!” Cứ tiếp tục như vậy cho cả loài
người biết ý chí của dân Việt ra sao; và cho Trung Cộng biết không thể bước tới
nữa. Người Việt bây giờ sẽ không làm như Lý Thường Kiệt, nhưng sẵn sàng dùng vũ
khí bảo vệ ngư dân hành nghề kiếm sống.
Những hành động phản kháng của dân
Việt là cách duy nhất có thể kiềm chế chiến lược thôn tính của Trung Cộng trong
vùng biển Ðông Nam Á. Lâu nay, Bắc Kinh vẫn theo đuổi chiến lược leo thang từng
bước trong cả vùng. Thành lập huyện Tam Sa. Ðưa hải quân tới tập trận tại chỗ.
Ðưa giàn khoan dầu tới giữa hải phận Việt Nam. Xây dựng thêm các hòn đảo nhân
tạo, lập các phi trường và căn cứ quân sự. Từng bước một, mỗi bước đều được
tính toán trước, có trình tự, bài bản. Họ hoàn toàn kiểm soát tình hình, dự
đoán trước phản ứng của các nước khác để đối phó. Họ gây tình trạng căng thẳng,
rồi tạm ngưng cho mọi người quên đi, rồi lại gây căng thẳng tiếp. Họ tự coi có
thể kiểm soát được mọi tình huống. Ðặc biệt là đối với Cộng Sản Việt Nam thì
khả năng kiểm soát của họ coi như hoàn toàn.
Giới lãnh đạo Trung Cộng còn đang
tập sự đóng vai cường quốc; còn đang học tập. Các chiến lược gia của họ không
học được một bài học mà hai siêu cường Nga Xô và Mỹ đã tỉnh ngộ ra trong “cuộc
chơi Chiến Tranh Lạnh,” nếu dùng hình ảnh “lý thuyết trò chơi” (game theory).
Bài học rất quan trọng là: Không thể leo thang mãi được. Leo thang có lúc rất
nguy hiểm. Ðối thủ của mình trong cuộc chơi có thể có những phản ứng bất ngờ.
Khi đó, cuộc chơi sẽ diễn biến không thể tính toán trước, đưa tình trạng căng
thẳng tới chỗ không ai kiểm soát được nữa.
Thái độ của chính phủ Mỹ thay đổi
rõ rệt từ khi Trung Cộng xây dựng các phi trường quân sự trên các hòn đảo nhân
tạo. Họ đã đưa pháo đài bay, xuất phát từ Guam, và chiến hạm đi từ Singapore đi
qua vùng biển này. Ðô Ðốc Swift đã nhắc lại lập trường của chính phủ Obama, và
ông chỉ còn chờ lệnh của ông Obama hay người kế vị, sẵn sàng đối phó “với mọi
tình huống.” Ðây là một thông điệp mà Bắc Kinh phải nhìn ra, phải tiếp nhận bài
học cũ: Leo thang có lúc rất nguy hiểm! Chính phủ Mỹ đã vạch ra một lằn ranh
cho Trung Cộng thấy họ không nên bước qua.
Cộng Sản Việt Nam có dám gửi một
thông điệp tương tự hay không? Ðâu là lằn ranh định giới hạn hạn cho chính sách
leo thang của Trung Cộng?
Trong Tháng Chín năm nay, Tập Cận
Bình sẽ qua Washington gặp Barack Obama. Họ sẽ kiểm điểm lại những thỏa thuận giữa hai người
trong cuộc gặp gỡ ba năm trước. Có thể đoán ông Obama sẽ vạch ra một lằn ranh
về hành động của Trung Cộng tại Biển Ðông; nếu bước qua thì tình hình sẽ khó
kiểm soát. Ông Obama không hề thấy nước Việt Nam có ấn định một lằn ranh như
vậy hay không. Vì vậy, trước khi ông Tập Cận Bình qua Mỹ, nếu chính quyền Việt
Nam không làm gì thì người dân Việt Nam phải hành động. Phải cho chính quyền Trung
Quốc biết dân Việt cũng có một lằn ranh giới của sự chịu đựng nhục nhã. Ðể ông
Obama tham khảo!
Năm 1979, Ðặng Tiểu Bình qua thăm
Mỹ, về rồi đưa quân qua đánh Việt Nam. Người ta hiểu rằng họ Ðặng được Mỹ hứa
trước sẽ làm ngơ. Năm nay, sau khi Tập Cận Bình qua Mỹ về, nếu Bắc Kinh thêm
một hành động tàn ác nữa trong vùng Biển Ðông, thế giới có thể tưởng rằng Mỹ đã
biết trước hay không? Chính phủ Mỹ có phản ứng quân sự nào nếu Trung Cộng bắn,
đốt một trăm thuyền đánh cá và tàn sát các ngư phủ Việt Nam hay không? Mỹ có
đem tàu chiến tới ngăn cản nếu Trung Cộng đưa thêm vài giàn khoan vào hải phận
Việt Nam hay không? Trung Cộng sẽ biện hộ rằng những vụ đó không gây một trở
ngại nào cho đường hàng hải quốc tế, là điều nước Mỹ quan tâm! Nếu chính quyền
Việt Nam không tự bảo vệ cho dân mình, biển đảo nước mình, thì ai quan tâm đến?
Tháng Tư vùa qua, ông Nguyễn Phú
Trọng sang Bắc Kinh thề “duy trì đại cục quan hệ” giữa hai nước. Bộ Trưởng
Ngoại Giao Phạm Bình Minh cũng sang để “nhất trí ‘kiểm soát tốt’ các bất đồng
trên Biển Ðông” với Trung Cộng. Tức là vẫn “bốn tốt” như cũ. Ðược điểm tốt nhất
là Bộ Trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh. Qua nước Tàu, ông than rằng nhiều
người dân Việt Nam ghét Trung Quốc là xấu, là nguy hiểm. Mới nhất, Phó Thủ
Tướng Trương Cao Lệ (Zhang Gao, li张高丽) mới qua Hà Nội,
gặp Nguyễn Tấn Dũng rồi tuyên bố hai đảng Cộng Sản tiếp tục “đưa quan hệ đối
tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung-Việt phát triển lành mạnh, ổn định, lâu
dài!” Tức là vẫn như cũ.
Ngô Nhân Dụng