* Ts. ĐOÀN XUÂN LỘC
Với cuộc hội đàm với
Tổng thống Barack Obama tại Nhà Trắng ngày 7/7, ông Nguyễn Phú Trọng sẽ được
nhắc đến như là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản đầu tiên thăm Mỹ và được lãnh đạo
nước này tiếp đón tại phòng Bầu Dục.
Nhưng điều dư luận chờ
đợi là cuộc gặp lịch sử này có tạo nên một bước đột phá trong quan hệ Việt-Mỹ
và đường lối đối ngoại của Việt Nam nói chung.
Cụ thể một trong những điều người dân quan tâm, chờ đợi là với chuyến đi Mỹ và cuộc tiếp xúc đặc biệt này, ông Trọng và giới lãnh đạo Việt Nam cuối cùng có biết gạt bỏ ý thức hệ (cộng sản, xã hội chủ nghĩa) và lấy lợi ích quốc gia làm tâm điểm cho chính sách ngoại giao của mình.
Đặt quyền lợi quốc gia
lên trên
Trong một lá thư gửi
Bộ Chính trị đề ngày 09/08/1995, ông Võ Văn Kiệt viết: ‘khác với trước, ngày
nay lợi ích quốc gia, lợi ích khu vực […] đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn
trong việc phát triển những mâu thuẫn cũng như trong việc tạo ra những tập hợp
lực lượng mới trên thế giới’...
------------/
------------/
*=*
Hôm nay 07/07/ 2015, Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt
Nam Nguyễn Phú Trọng hội kiến tổng thống Mỹ Barack Obama tại Phòng Bầu dục, Nhà
Trắng. Nghi lễ tiếp đón mang ý nghĩa biểu tượng và trọng thị, cho dù khách mời
không phải là nguyên thủ quốc gia.
Theo
thông cáo của phủ Tổng thống Mỹ, sáng nay, vào lúc 11 giờ 10 , tổng thống
Barack Obama và Phó tổng thống Joe Biden tiếp Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam Nguyễn Phú Trọng tại Nhà Trắng.
Trước
đó, thông cáo của bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết trong cuộc gặp gỡ này, Tổng
thống Obama thảo luận với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng những phương thức thắt chặt
quan hệ toàn diện với Việt Nam, 20 năm sau khi bình thường hóa bang giao với Hà
Nội. Phía Hoa Kỳ xem đây là dịp để thảo luận các hồ sơ khác từ Hiệp định Tự do
Thương mại xuyên Thái Bình dương TPP, nhân quyền tại Việt Nam và hợp tác an
ninh quốc phòng.
Theo
Washington Post, chính quyền Obama cho biết Hà Nội bày tỏ nguyện vọng tăng
cường quan hệ kinh tế và quân sự với Hoa Kỳ và tổng thống Obama đã đáp ứng lại
mong đợi này.
Sự
kiện bất thường gây chú ý là ông Nguyễn Phú Trọng được đón tiếp trong Phòng Bầu
dục, một vinh dự hiếm khi dành cho khách mời không phải là nguyên thủ quốc gia.
Giới
bảo vệ nhân quyền và nhiều dân biểu Mỹ chỉ trích tổng thống Mỹ tiếp ông Nguyễn
Phú Trọng một cách trọng thị, trong khi tại Việt Nam còn hơn 100 tù nhân chính
trị.
Theo
dân biểu Zoe Lofgren, bang California, nhân chuyến viếng thăm Việt Nam hồi
tháng 3, bà đã trao cho ông Nguyễn Phú Trọng danh sách các tù nhân chính trị và
đòi Hà Nội phải trả tự do cho những tù nhân này.
Tú
Anh/(RFI)
-------------/
... Về quan hệ
Việt-Trung, trong thư mật nhưng sau đó được tiết lộ ấy, cố Thủ tướng Việt Nam –
người có công lớn trong việc giúp Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ và
gia nhập ASEAN – nhận định ‘tính chất quốc gia lấn át (nếu chưa muốn nói là
loại bỏ) tính chất xã hội chủ nghĩa’ trong quan hệ giữa hai nước.
Có thể ông Kiệt đưa ra
những nhận định, cảnh báo như vậy vì trong những năm cuối 1980 và đầu 1990, một
số nhân vật chóp bu trong Đảng Cộng sản Việt Nam – như tập hồi ký của cựu Thứ
trưởng Trần Quang Cơ, người mới qua đời hôm 25/06/2015 tiết lộ, đánh giá – vì
muốn bằng mọi giá ‘bảo vệ CNXH chống đế quốc Mỹ’ đã ‘nôn nóng cải thiện quan hệ
với Trung’, gây nên những ‘sai lầm hết sức đáng tiếc về đối ngoại’ như Hội nghị
Thành Đô.
Nhưng tiếng nói của
ông Kiệt không được lắng nghe vì nhiều năm sau đó, dù chủ trương đa dạng hóa
quan hệ ngoại giao, giới lãnh đạo Việt Nam vẫn ưu tiên mối bang giao với Trung
Quốc trong khi đó nghi kỵ, dè dặt với Mỹ.
Xem ra giờ mọi chuyện
đã khác. Nhiều diễn biến gần đây cho thấy Việt Nam và Mỹ trở nên thân thiện,
gần gũi trong khi đó quan giữa Hà Nội và Bắc Kinh không mấy nồng ấm, thậm chí
càng ngày càng trở nên căng thẳng.
Dù vẫn còn có bất đồng
về một số vấn đề, như nhân quyền, có rất nhiều dấu hiệu, sự kiện – như chuyện
ông Nguyễn Phú Trọng thăm Mỹ và được Tổng thống Barack Obama tiếp đón tại phòng
Bầu Dục, dù ông không phải là nguyên thủ quốc gia hay nắm giữ một chức vụ nào
trong chính phủ – cho thấy quan hệ Việt-Mỹ đã được cải thiện rất nhiều và hai
bên cũng đang mong muốn nâng cấp quan hệ trong thời gian tới.
Và có thể nói nguyên
nhân chính khiến Hà Nội và Washington làm vậy là cả hai đều lo ngại về những
động thái mạnh bạo, hung hăng ở Biển Đông của Trung Quốc gần đây.
Chính quyền Mỹ mời ông
Trọng sang Mỹ lúc này và Tổng thống Obama phá lệ dành một sự tiếp đó như vậy
cho lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam dù Washington hoàn toàn đối lập với Hà Nội
về ý thức hệ vì giới lãnh đạo nước này muốn có thêm sự ủng hộ của các nước
trong khu vực khi Trung Quốc đang có những hành động đe dọa đến quyền lợi, vị
thế của Mỹ trong vùng.
Hà Nội tìm cách xích
lại gần Washington cùng chỉ vì lo ngại về sự lớn mạnh của Trung Quốc và tham
vọng của nước này tại Biển Đông.
Có thể nói ngoại trừ
những thành phần quá bảo thủ, vẫn ôm mộng tưởng về một chủ nghĩa xã hội xa xôi,
không thực nào đó giờ nhiều người trong giới lãnh đạo ở Hà Nội đã nhận ra rằng
trong quan hệ với Việt Nam, ‘mặt bành trướng, bá quyền’ của Trung Quốc luôn lấn
át ‘mặt xã hội chủ nghĩa’.
Cụ thể, với những động
thái hung hăng của của Bắc Kinh ở Biển Đông gần đây, chắc họ hiểu chung ‘ý thức
hệ cộng sản’, cùng ‘xã hội chủ nghĩa’ không thể ngăn Trung Quốc lấn chiếm biển
đảo, đe dọa chủ quyền lãnh hải của Việt Nam.
Và chắc họ cũng thấy
quốc gia đứng về phía Việt Nam, ủng hộ lập trường và ít nhiều lên tiếng bảo vệ
Việt Nam trong vấn đề Biển Đông trong thời gian qua không ai khác là Mỹ - một
quốc gia không cùng ý thức hệ nhưng chung lập trường với Việt Nam về nhiều vấn
đề khu vực trong đó có vấn đề Biển Đông.
Nói cách khác, phải
chăng cuối cùng họ hiểu được – đúng như những gì mà cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt
nhận định cách đây 20 năm – trong thế giới ngày hôm nay lợi ích quốc gia, lợi
ích khu vực, chứ không phải một thứ chủ nghĩa, ý thức hệ nào đó, là lý do chính
khiến các quốc gia xung đột hay hợp tác với nhau?
‘Tạo dấu ấn cho mình’
Bằng việc đến Mỹ lần
này, có thể ông Trọng cũng đang có những thay đổi về tư duy, cách hành xử. Thay
vì cứ mãi coi trọng chuyện bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, giờ ông biết đặt quyền
lợi của đất nước, dân tộc, nhân dân lên trên hết và có một đường hướng đối
ngoại thích hợp, rất thực tiễn để đạt được điều đó.
Đây cũng là lý do dư
luận Việt Nam nói chung có không ít kỳ vọng vào chuyến thăm Mỹ được coi là lịch
sử này của ông, dù một số người trong giới quan sát cho rằng chuyến đi của ông
khó tạo ra được một bước đột phá nào trong quan hệ Việt-Mỹ cũng như đường hướng
đối ngoại của Việt Nam nói chung.
Đâu đó có người không
hy vọng gì về chuyến đi Mỹ của ông Trọng vì cho rằng trong các lãnh đạo cao cấp
ở Việt Nam thành phần bảo thủ, kiên định xã hội chủ nghĩa, trung thành với chủ
nghĩa Mác-Lênin vẫn mạnh, nhiều và vì vậy họ luôn hướng Việt Nam gần gũi với
Bắc Kinh, trong khi có thái độ nghi kỵ, cảnh giác với Mỹ. Ông Trọng được coi là
một người trong nhóm bảo thủ, giáo điều và thân Bắc Kinh này.
Dựa trên những phát
ngôn, cách hành xử của ông kể từ khi ông lên làm Tổng Bí thư và đặc biệt trong
thời gian Trung Quốc đưa và đặt giàn khoan HD 981 trong vùng biển thuộc chủ
quyền của Việt Nam năm ngoái, có thể nói một nhận định như vậy không phải là
không có cơ sở.
Nhưng không phải ai
trong giới lãnh đạo chóp bu hiện tại của Việt Nam cũng giữ lập trường như thế.
Những phát ngôn như
‘không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghĩ viễn vông’ hay ‘vừa hợp tác, vừa đấu
tranh’ khi nói về quan hệ với Trung Quốc chứng tỏ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
biết đặt quyền lợi dân tộc, đất nước lên trên hết.
Có thể nói đây cũng là
lý do tại sao ông Dũng – như kết quả cuộc bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành
viên trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư Đảng Cộng sản năm ngoái cho thấy – nhận
được nhiều sự ủng hộ, tín nhiệm hơn từ Ban Chấp hành Trung ương và người dân
nói chung cũng có cảm tình với ông hơn dù ông Dũng được coi là có nhiều yếu
kém, sai phạm trong điều hành kinh tế cũng như khía cạnh khác.
Vì vậy, nếu qua chuyến
đi Mỹ của mình, ông Trọng tạo được bước đột phá trong quan hệ Việt-Mỹ cũng như
những thay đổi tích cực khác trong chính sách đối ngoại của Việt Nam ông không
chỉ củng cố được vị thế, ảnh hưởng của mình và phe nhóm của mình trong Đảng
Cộng sản, trước và trong đại hội XII sắp tới mà còn chiếm được cảm tình của
người dân.
Lý do quan trọng khác
mà nhiều người không kỳ vọng lắm về chuyến đi này là ông Trọng được coi là một
lãnh đạo thiếu bản lĩnh, thiếu tầm.
Vì điều đó – hay vì
không có chủ trương ‘tạo dấu ấn cho mình’ như ông nói khi tiếp xúc báo chí sau
khi được bầu giữ chức Tổng Bí thư vào tháng 1 năm 2011 – trong hơn bốn năm nắm
giữ chức vụ lãnh đạo cao nhất tại Việt Nam, ông chưa tạo được một dấu ấn gì đặc
biệt, tốt đẹp.
Sau đại hội XII vào
năm tới, chắc chắn ông sẽ không còn nắm giữ chức vụ quan trọng nào. Vì vậy, có
thể nói chuyến đi Mỹ này – một chuyến thăm được coi rất ý nghĩa đối với Việt
Nam và cũng là chuyến công du quan trọng nhất của ông Trọng – là cơ hội hiếm có
để ông cải thiện hình ảnh của mình trong mắt người dân.
Bỏ ‘tư duy chính trị
xơ cứng’
Ông Trọng chỉ làm được
đó, nếu ông dám mạnh dạn từ bỏ ‘tư duy xơ cứng’, quá giáo điều – một lối tư duy
đã từng kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Một sai lầm gây thiệt
hại lớn về đối ngoại, an ninh-quốc phòng, phát triển kinh tế của giới lãnh đạo
chóp bu ở Hà Nội trong giai đoạn 1975-1993 được ông Trần Quang Cơ nhắc đến
trong tập ký ‘Ký ức và suy nghĩ’ của mình là ‘tư duy chính trị xơ cứng’ của
giới lãnh đạo chóp bu của Việt Nam giai đoạn ấy, đặc biệt là những năm sau khi
đất nước thống nhất.
Thay vì ‘phải mạnh dạn
sớm đổi mới tư duy về đối ngoại để có một đường lối phù hợp thực tiễn’ nhằm đưa
đất nước ‘hòa nhập với đà phát triển chung của khu vực và thế giới’, giới lãnh
đạo Việt Nam vẫn duy trì lối tư duy cứng nhắc và điều đó ‘đã giam giữ nước ta
trong cảnh khó khăn một thời gian dài’.
Một ví dụ cụ thể được
ông đưa ra là vào ngày 12/6/1975, tức chỉ chưa đây hai tháng sau khi Việt Nam
thống nhất, Mỹ đã gửi Hà Nội một thông điệp, trong đó đề nghị ‘tiến hành bất cứ
quan hệ nào’ với Việt Nam. Khoảng gần hai năm sau đó, tại vòng đàm phán giữa
hai bên vào ngày 3/4 tháng 5 năm 1977, Mỹ đề nghị ‘hai bên thiết lập quan hệ
ngoại giao đầy đủ ngay và vô điều kiện’. Nhưng các lãnh đạo chủ chốt của Việt
Nam đã từ chối đề nghị đó.
Là người trực tiếp tham
gia các cuộc đàm phán giữa hai bên trong thời gian ấy, ông Trần Quang Cơ đã cảm
thấy đau xót về việc Việt Nam từ chối đề nghị của Mỹ vì nó ‘đã đưa lại những hệ
quả vô cùng tai hại cho nhân dân và đất nước’ – như cảnh đất nước rơi vào tụt
hậu vì ‘bỏ lỡ mất cơ hội san bằng khoảng cách với các nước cùng khu vực’ hay
cảnh Việt Nam ‘đơn độc trước một Trung Quốc đầy tham vọng’.
Phải mất 20 năm – một
thời gian quá dài – Việt Nam mới có thể chật vật bình thường hóa quan hệ với
Mỹ.
Nhắc lại chi tiết này
để thấy nếu giới lãnh đạo Việt Nam thực tế, thức thời, nhạy bén, năng động hơn,
chuyến thăm Mỹ đầu tiên của một Tổng Bí thư ĐCS Việt Nam đã có diễn ra từ lâu
và vị thế, mực độ phát triển của Việt Nam giờ cũng đã tốt hơn nhiều.
Với tất cả những ai
muốn đất nước hướng tới phồn thịnh, giàu mạnh, dân chủ, chắc ai cũng không muốn
ông Trọng và giới lãnh đạo Việt Nam bỏ lỡ cơ hội một lần nữa.
Đ.X.L/BBC
Nguồn: Theo Bùi Văn Bồng