TS Vũ Dương Huân: "Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tống Bí thư Lê Duẩn
tháng 9.1975 và năm 1977, hai bên bất đồng quan điểm trong nhiều vấn đề, đặc
biệt là vấn đề biên giới lãnh thổ. Ông Lê Duẩn chính thức phê phán Trung Quốc
chiếm Hoàng Sa của Việt Nam 1974 và chính thức đặt vấn đề là hai bên cần bàn
lại vấn đề Hoàng Sa, nhưng Trung Quốc hoàn toàn bác bỏ. "
LTS: Nhìn lại cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 1979,
Tuần Việt Nam có cuộc trò chuyện với TS. Vũ Dương Huân. Ông Huân nguyên là Giám
đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam, nguyên Trưởng ban Nghiên cứu lịch sử Ngoại
giao.
Nhiều nguyên nhân đằng sau
- Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước năm 1975, Trung
Quốc liên tục có những động thái làm xấu đi quan hệ giữa hai nước, như cắt giảm
viện trợ, thúc đẩy Hoa Kiều Việt Nam hồi hương, hay giúp Khơ-me đỏ Campuchia
tiến hành chiến tranh biên giới phía Tây Nam. Như vậy, nguyên nhân sâu xa của
việc tấn công Việt Nam ở biên giới phía Bắc đầu năm 1979 có phải là nhằm làm
suy yếu một nước Việt Nam thống nhất?
TS Vũ Dương Huân: Tôi nghĩ việc Trung Quốc tấn công Việt Nam vào ngày
17.2.1979 là một sự kiện lớn, phải giải thích từ nhiều nguyên nhân, chứ chỉ đặt
vấn đề là để Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia cũng là đúng, nhưng chưa đủ.
Tôi cho rằng, nguyên nhân đầu tiên là quan hệ hai nước
lúc này căng thẳng và Việt Nam có nhiều chính sách không phù hợp với mong muốn
của Trung Quốc. Trung Quốc muốn khuất phục Việt Nam, muốn Việt Nam phải theo
quan điểm, đường lối, chính sách của Trung Quốc, và phụ thuộc vào Trung Quốc.
Cho nên có nhiều vấn đề, nhiều việc mà Việt Nam làm, khiến Trung Quốc không hài
lòng.
Thí dụ, thứ nhất, chiến lược của Trung Quốc là tập
trung vào tiến hành hiện đại hóa, thực hiện nhiệm vụ 4 điểm hiện đại hóa. Thứ
hai là chiến lược đối ngoại của Trung Quốc vẫn coi như Liên Xô và Mỹ là kẻ thù
truyền kiếp và nguy hiểm. Thứ ba, Trung Quốc muốn Việt Nam không ảnh hưởng lớn
đến Lào và Campuchia ở Đông Dương, không tập hợp lực lượng ở đây. Và trên hết,
Trung Quốc không muốn Việt Nam mạnh để hoàn toàn độc lập về đường lối, chủ
trương, dẫn đến Việt – Trung kênh về đường lối, chủ trương, và sau đó là lợi
ích.
Chiến lược của Việt Nam, sau khi giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước, đã coi Liên Xô là đối tác hợp tác toàn diện, sau này còn
nâng lên là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại. Trong khi đó, Trung Quốc
coi Liên Xô là kẻ thù, Trung Quốc hòa hoãn với Mỹ lúc ấy để chống Liên Xô. Liên
Xô vẫn duy trì lực lượng rất lớn ở Mông Cổ và biên giới Trung Quốc, và Trung
Quốc cho rằng đấy là mối đe dọa với họ.
Ngoài chiến lược hợp tác toàn diện với Liên Xô, Việt
Nam đồng thời gia tăng quan hệ với khối SEV (Hội đồng Tương trợ Kinh tế), nghĩa
là Việt Nam vào khối mà Trung Quốc chống.
Khía cạnh thứ hai về đối ngoại là Trung Quốc đã không
muốn Việt Nam thắng lợi ở miền Nam và giải phóng đất nước, vì Việt Nam sẽ mạnh
hơn, đồng thời mở rộng ảnh hưởng sang Lào và Campuchia. Chính sách của Trung
Quốc sau Hiệp định Geneva năm 1954 là chia cắt bán đảo Đông Dương thành những
quốc gia nhỏ - Bắc Việt Nam, Nam Việt Nam, Lào và Campuchia, như thế Trung Quốc
mới dễ dàng có vai trò chỉ đạo. Trung Quốc cho rằng Việt Nam muốn xây dựng Đông
Dương thành khu vực của mình, thành “tiểu bá”, và tuân theo “đại bá” Liên Xô.
Không thể chấp nhận được đường lối, chính sách đối
ngoại của Việt Nam, nên Trung Quốc muốn dạy cho Việt Nam một “bài học”.
- Trung Quốc đã không muốn Việt Nam thống nhất đất
nước, và năm 1974, lợi dụng tình hình chiến sự của ta, Trung Quốc công khai
chiếm Hoàng Sa của Việt Nam. Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam có nêu lại
vấn đề Hoàng Sa?
Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tống Bí thư Lê Duẩn
tháng 9.1975 và năm 1977, hai bên bất đồng quan điểm trong nhiều vấn đề, đặc
biệt là vấn đề biên giới lãnh thổ. Ông Lê Duẩn chính thức phê phán Trung Quốc
chiếm Hoàng Sa của Việt Nam 1974 và chính thức đặt vấn đề là hai bên cần bàn
lại vấn đề Hoàng Sa, nhưng Trung Quốc hoàn toàn bác bỏ. Hai chuyến thăm đều
không có đáp lễ và không có tuyên bố chung, vì hai bên không thống nhất được
bất cứ vấn đề gì.
Hơn nữa, trong chuyến thăm đầu, Việt Nam yêu cầu Trung
Quốc, nước có quan hệ thân thiết với Khơ-me Đỏ, giải quyết quan hệ khúc mắc
giữa Việt Nam với Campuchia, bởi sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước, ngày 2.5.1975, Khơ-me Đỏ đã tấn công Việt Nam, đến 10.5.1975 bắt đi 512
người, khiến quan hệ biên giới cực kỳ căng thẳng. Trung Quốc đã lờ đi.
- Vậy còn vấn đề nạn kiều, được họ khơi ra từ khi nào?
Chuyện này bùng nổ từ tháng 8.1978, khi Việt Nam tiến
hành cải tạo công thương nghiệp tư bản, chủ yếu đã động tới người Hoa ở Miền
Nam. Hồi đó, Việt Nam có khoảng 1,5 triệu người Hoa, trong đó khoảng 70-80% ở
Sài Gòn, chủ yếu là doanh nghiệp lớn, án ngữ kinh tế miền Nam.
Trung Quốc coi việc cải tạo công thương ở miền Nam là
chiến dịch chống lại người Hoa, mà chính sách của Trung Quốc là coi người Hoa ở
nước ngoài cũng là người Trung Quốc, phải bảo vệ, ủng hộ, giúp đỡ. Hồi đó, Việt
Nam cũng có chính sách yêu cầu người Hoa ở miền Bắc, trở về nước.
- Nguyên nhân trực tiếp của việc Trung Quốc tấn công
Việt Nam vào đầu năm 1979 có phải là nhằm yêu cầu Việt Nam rút quân khỏi
Campuchia?
Xe tăng Trung Quốc bị ta bắn hạ tại Cao Bằng, sáng
17.2 - Ảnh: Mạnh
Thường
|
Tôi cho đó là nguyên nhân thứ hai tác động đến quyết
định của Trung Quốc.
Ngày 7.1.1979 Việt Nam giải phóng Campuchia, sau hàng
loạt hoạt động quân sự trước đó, như cuối 1977 - đầu 1978 Việt Nam chống trả 23
sư đoàn Campuchia tấn công Việt Nam.
Đến 23.12.1978, Việt Nam tấn công giải phóng toàn bộ
phía Đông, và đến 7.1.1979 giải phóng Phnom Pênh, lật đổ toàn bộ chính phủ
Khmer Đỏ. Đó là cái tát vào mặt Trung Quốc, và Trung Quốc phải “rửa mặt” bằng
cách tấn công Việt Nam.
Trung Quốc dùng lực lượng quân sự 30 vạn quân đánh
Việt Nam như thế, họ cũng tính toán chiến lược là Việt Nam phải rút lực lượng
quân sự ở Campuchia về, bởi ở phía Bắc Việt Nam chỉ có một sư đoàn chủ lực. Như
vậy sẽ tạo điều kiện cho Khmer đỏ chống lại sức ép của Cộng hòa Nhân dân
Campuchia.
- Còn việc Việt Nam ký Hiệp định Hữu nghị và Hợp tác
với Liên Xô tháng 11.1978 có tác động gì tới quyết định của Trung Quốc tấn công
Việt Nam?
Tôi nghĩ quyết định đánh Việt Nam có liên quan tới
Hiệp định này nhằm phá sự liên kết, đoàn kết giữa Việt Nam - Liên Xô. Tôi cho
đó là nguyên nhân chiến lược, vì Trung Quốc rất ngại khi Liên Xô duy trì khoảng
1 triệu quân ở biên giới Trung Quốc ở Mông Cổ.
Trung Quốc nhiều lần khẳng định đấy là sự đe dọa nguy
hiểm với an ninh của nước này, cũng như nhiều lần đề nghị Liên Xô phải rút
quân, nhưng Liên Xô cũng không bao giờ chấp nhận. Trung Quốc cho rằng nếu Việt
Nam - Liên Xô ngày càng thiết lập quan hệ chặt chẽ hơn sẽ đe dọa an ninh của
họ, bởi phía Bắc là Liên Xô, phía Nam là Việt Nam, và họ bị kẹp hai đầu.
Qua việc tấn công Việt Nam năm 1979, họ sẽ thử phản
ứng của Liên Xô. Nếu Liên Xô phản ứng tích cực, Trung Quốc sẽ tính toán được sự
đe dọa của Liên Xô.
- Chuyên gia nước ngoài nói rằng một trong những
nguyên nhân Trung Quốc đánh Việt Nam là thử sức mạnh của quân đội, hòng thúc
đẩy chương trình hiện đại hóa quân sự, bởi quân đội Trung Quốc đã không trực
tiếp chiến đấu kể từ chiến tranh Triều Tiên năm 1953?
Tôi cho rằng cũng có lý. Quân đội Trung Quốc mấy chục
năm không qua chiến đấu, thử thách, đã tỏ ra lạc hậu. Tấn công Việt Nam là để
thử sức cái gọi là lực lượng vũ trang Trung Quốc, đồng thời thử vũ khí, chiến
thuật, và năng lực quân đội.
Về cơ bản Trung Quốc đã thất bại
- Theo ông, khi tấn công Việt Nam, Trung Quốc có dự
tính đánh tới đâu không?
Đấy là câu hỏi chính Đặng Tiểu Bình cũng đã khôn ngoan
trả lời, ngay sau khi Trung Quốc bắt đầu tấn công Việt Nam, rằng việc đánh Việt
Nam bằng hoạt động quân sự là hạn chế về không gian và thời gian. Điều đó có
hai cái lợi, là khẳng định rằng Trung Quốc chỉ “dạy bảo” thôi, chứ không thôn
tính Việt Nam. Như vậy, phản ứng quốc tế bất lợi cũng đỡ hơn.
- Theo ông, qua kênh ngoại giao Việt Nam có biết Trung
Quốc có thể tấn công Việt Nam không? Nhất là khi trước đó Đặng Tiểu Bình tuyên
bố là sẽ dạy cho Việt Nam một bài học?
Tôi nghĩ là lúc ấy hầu như không có ai suy luận được,
không ai nghĩ là Trung Quốc sẽ tấn công Việt Nam bằng quân sự, vì ta có cái
nhận thức từ xưa tới nay là XHCN không có mâu thuẫn đối kháng, không tấn công
lẫn nhau. Trên thực tế, sáng 17.2.1979, khi Trung Quốc tấn công Việt Nam, Bộ
Ngoại giao mới tập trung làm tuyên bố.
Tại sao khi tấn công Việt Nam, Trung Quốc lại sử dụng
quân từ phía Bắc mà không phải ở phía Nam mà có thể là hiểu Việt Nam hơn? Liệu
có phải như cựu Tổng Lãnh sự ở Quảng Đông Dương Danh Dy từng kể, một lãnh đạo
tỉnh Quảng Đông đã nói với ông rằng "chúng tôi và các ông (Việt Nam) còn
gần gũi nhau hơn là phía Bắc (Bắc Kinh)"? Và trên thực tế quân Trung Quốc
đã hành động hết sức dã man đối với bộ đội và nhân dân phía Bắc.
Trung Quốc rất giỏi toan tính về vấn đề này. Trung
Quốc là một đất nước rộng mênh mông, người phương Bắc là những bộ tộc người
khác, còn ở phía Nam họ cũng cùng với Việt Nam nằm trong Bách Việt, từ Nam sông
Dương Tử trở lại đây là Bách Việt. Chính vì vậy dân Trung Quốc phía Bắc và phía
Nam có sự khác nhau về dân tộc và văn hóa.
Đặng Tiểu Bình rất khôn ngoan khi không dùng người
phía Nam, chủ yếu là dân tộc Choang, vốn cùng là dân Bách Việt với người Việt
Nam, rất hiểu văn hóa, phong tục tập quán của người Việt Nam, để đánh Việt Nam.
Họ có thể sẽ không mạnh tay, không dã man như quân phương Bắc.
- Trong cuộc chiến này, phải chăng vì Việt Nam bất ngờ
nên đã không có chủ trương tuyên truyền đối ngoại hợp lý?
Không phải. Cuộc chiến này chủ yếu liên quan tới Việt
Nam, còn các nước như Campuchia hay Lào im lặng, Liên Xô và các nước XHCN khác
tuy xác định Trung Quốc là nước có tư tưởng Đại Hán nhưng họ vẫn công nhận
Trung Quốc là nước XHCN. Trong khi đó, Trung quốc đã tranh thủ được sự ủng hộ
của các nước ASEAN và phương Tây, đặc biệt là Mỹ, chống lại việc Việt Nam đưa
quân vào Campuchia.
- Sau chưa đầy một tháng tấn công Việt Nam, Trung Quốc
đã rút lui. Lý do có phải do thất bại nặng nề hay là do e ngại Liên Xô có phản
ứng ở biên giới phía Bắc Trung Quốc?
Tôi nghĩ có nhiều nguyên nhân, nhưng đầu tiên cũng
phải khẳng định rằng Trung Quốc tấn công Việt Nam bằng quân sự theo lịch trình
của họ, bởi họ tuyên bố không thôn tính Việt Nam, và cuộc chiến này hạn chế về
mặt không gian và thời gian.
Lý do thứ hai cũng không thể loại trừ, là thiệt hại
của quân đội Trung Quốc vô cùng lớn. Một thống kê sau này cho thấy phía Trung
Quốc có 62.000 người chết, thương vong rất nhiều, vũ khí đạn dược nhiều cái lâu
không dùng bị thối, lực lượng dân công, hậu cần cũng gặp khó khăn, bởi các
phương tiện rất lạc hậu.
Dư luận quốc tế cũng gây sức ép nặng, đòi họ phải rút
quân.
Liên Xô đã tuyên bố rằng nếu Trung Quốc dừng kịp thời
thì Liên Xô sẽ không can thiệp sâu, mặc dù Liên Xô và Việt Nam có ký Hiệp ước
Hữu nghị và Hợp tác, trong đó có điều 6 là hợp tác quân sự. Đó là nhân tố Trung
Quốc phải tính đến, họ cũng ngại nếu can thiệp sâu quá, vượt quá “vạch đỏ” thì
Liên Xô có thể tấn công ở phía Bắc, nơi Liên Xô có hơn một triệu quân.
Trước đó, Liên Xô huy động lực lượng quân sự ở mức vừa
phải thôi, chủ yếu giúp Việt Nam vận chuyển quân đội từ Campuchia lên biên giới
phía Bắc, cung cấp cho Việt Nam vũ khí, quân trang, quân dụng, và đưa cố vấn
vào.
Còn một lý do quan trọng nữa, có lẽ là tình báo họ nắm
được là chiều 5.3.1979 Việt Nam dự định tổ chức mít tinh tại Nhà hát lớn và
công bố Lệnh Tổng động viên. Nhưng sáng 5.3 họ đã rút rồi, nên không có buổi
mít tinh ấy nữa. Một khi có lệnh tổng động viên sẽ là vấn đề lớn, thành vấn đề
Tổ quốc bị xâm lăng, chứ không còn là vấn đề chiến tranh biên giới nữa.
- Trung Quốc có đạt được mục tiêu khi tấn công Việt
Nam?
Trung Quốc đã đạt được mục tiêu thử phản ứng của Liên
Xô, và biết rằng Liên Xô sẽ không đổ tiền đổ của vào để cứu Việt Nam bằng mọi
giá. Mặt khác, qua đây họ kiểm tra lại khả năng quốc phòng, binh lính, hợp đồng
tác chiến, và vũ khí của mình, nhận thức được quốc phòng, vũ khí của Trung Quốc
quá lạc hậu, chiến thuật, chiến lược quá kém.
Tôi thấy Trung Quốc cũng đạt được một vài mục tiêu,
nhưng cơ bản là thất bại.
Thứ nhất, mục tiêu bắt Việt Nam thay đổi chính sách
thì ta không thay đổi, vẫn quan hệ chặt chẽ với Liên Xô và vẫn bất đồng quan hệ
với Trung Quốc, và bất đồng lợi ích với Trung Quốc trong nhiều vấn đề.
Thứ hai, mục tiêu thứ hai bắt Việt Nam phải rút quân
khỏi Campuchia, thì tuy Việt Nam có rút bớt quân khỏi Campuchia, nhưng điều đó
không tạo ra so sánh lực lượng ở chiến trường Campuchia có lợi cho Khơ me đỏ.
Như vậy cũng không đạt yêu cầu.
Thứ ba là vấn đề đánh để giãn đồng minh chiến lược
Việt Nam - Liên Xô cũng không đạt yêu cầu.
- Xin cảm ơn ông đã chia sẻ.
Huỳnh Phan/VietNamNet
http://motthegioi.vn/thoi-su-c-66/ho-cung-dat-duoc-mot-vai-muc-tieu-nhung-co-ban-la-that-bai-82293.html