Nguồn: Edward Webb, “Totalitarianism and
Authoritarianism”, in John T. Ishiyama and Marijke Breuning (eds), 21st
Century Political Science, A Reference Handbook,
(Thousand Oaks, CA: SAGE Publications, 2011), pp. 249 – 257.
Biên
dịch: Phạm Hồng Anh | Hiệu đính: Lê
Hồng Hiệp
Bước
sang thế kỷ 20, một vài di chứng đen tối của thời kỳ cách mạng công nghiệp và
chính trị cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 bắt đầu xuất hiện: các nước hùng mạnh
tiến hành những cuộc tàn sát bằng phương pháp “được công nghiệp hóa” và khủng
bố trên diện rộng nhắm đến chính xã hội của mình. Những sự kiện như cuộc thảm
sát người Do Thái (Holocaust), cuộc Đại Thanh Trừng của Stalin (Stalin’s
Terror), và cuộc Cách mạng Văn hóa tại Trung Quốc đã thôi thúc các nhà khoa học
chính trị lý giải cách thức và nguyên nhân tại sao các nhà nước đó lại vận hành
theo cách như vậy.
Mặc dù về cuối thế kỷ, một làn sóng dân chủ hóa lan rộng ở
nhiều nơi trên thế giới, nhưng các chế độ phi dân chủ dưới nhiều dạng khác
nhau, vốn từng phổ biến khắp nơi bên ngoài Tây Âu và Bắc Mỹ, nay tuy đã thu hẹp
nhưng vẫn còn duy trì với số lượng lớn. Trong thế kỷ 21, khoa học chính trị
phải tiếp tục phân tích những chế độ này, đồng thời đặt ra các câu hỏi đã trở
thành thách thức với nghiên cứu hàng thập kỷ qua (ít nhất là kể từ sự trỗi dậy
của chủ nghĩ phát xít, chủ nghĩa quốc xã (Nazi), và chủ nghĩa Stalin trong giai
đoạn giữa hai cuộc chiến tranh thế giới):
§
Làm thế
nào để phân loại và phân biệt một cách hữu hiệu nhất các loại chế độ phi dân chủ?
§
Các chế
độ đó trỗi dậy như thế nào?
§
Các chế
độ này nắm và giữ vững quyền lực bằng cách nào?
§
Trong
hoàn cảnh nào thì các chế độ đó sụp đổ?
Chương
này sẽ lý giải một số thách thức trong quá trình tìm kiếm định nghĩa và mô tả
một cách thỏa đáng các nhóm chế độ phi dân chủ, và giới thiệu những quan điểm
và cách tiếp cận mang tính lý thuyết xung quanh vấn đề này. Phần tiếp theo sẽ
giải quyết một số vấn đề thực nghiệm về sự trỗi dậy, cách thức hoạt động và sự
tàn lụi của các chế độ này ở thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Cuối cùng, chương này
sẽ đưa ra một vài gợi ý về hướng đi triển vọng cho những nghiên cứu về sau.
Các
vấn đề lý thuyết và định nghĩa
Định
nghĩa và phân loại
Mặc dù
những nguồn gốc lý thuyết về chủ nghĩa chuyên chế hiện đại có thể được tìm thấy
trong các tác phẩm cổ điển về tư tưởng chính trị, bao gồm “Nền cộng hòa”
(Republic) của Plato, “Thủy quái” (Leviathan) của Hobbes, và “Bàn về
Khế ước xã hội” (On the Social Contract) của Rousseau, phần lớn những phân
tích khoa học chính trị hiện đại thường (ngầm) dựa vào khái niệm “thẩm quyền
chính đáng” (legitimate authority) của Max Weber (1947/1964). Theo Weber,
Thẩm
quyền chính đáng được chia làm 3 loại thuần túy. Giá trị của những tuyên bố về
tính chính đáng có thể dựa trên: 1. Nền tảng lý trí được xây dựng trên niềm tin
vào tính hợp pháp của mô hình gồm những luật lệ quy phạm và quyền của những
người lên nắm chính quyền đưa ra mệnh lệnh trong phạm vi những luật lệ đó
(legal authority – thẩm quyền pháp lý); 2. Nền tảng truyền thống được xây dựng
trên một niềm tin vững chắc vào tính bất khả xâm phạm của những truyền thống xa
xưa, và vào tính chính đáng của thẩm quyền thực thi quyền hạn theo những truyền
thống đó (traditional authority – thẩm quyền truyền thống); hay cuối cùng, 3.
Nền tảng hấp dẫn dựa trên sự hy sinh cho những điều thiêng liêng cụ thể và đặc
biệt, nhân cách anh hùng hay tấm gương của một cá nhân, và của những mẫu hình
quy phạm về trật tự được khai mở hoặc quy định bởi người đó (charismatic
authority – thẩm quyền lôi cuốn) (tr. 328).
Nền
dân chủ tự do hiện đại dựa trên nền tảng thẩm quyền pháp lý, hay tính chính
đáng được thừa nhận từ kết quả của những cuộc bầu cử tự do và công bằng được
tiến hành theo những thủ tục mà tất cả công dân đều tán thành, ít nhất là về
mặt khái niệm. Các chế độ hiện đại khác thì dựa vào một danh sách dài hơn gồm
những lý lẽ biện hộ cho sự cai trị của mình. Điều này không có nghĩa rằng thẩm
quyền các chế độ phi dân chủ được xây dựng chỉ từ hai nguồn: thẩm quyền truyền
thống hoặc thẩm quyền lôi cuốn, mặc dù cả hai loại thẩm quyền này đều đã và
đang tồn tại trong các chế độ phi dân chủ, ví dụ như một số nước quân chủ ở
Trung Đông (những nước này đều là các chủ thể hiện đại vận dụng sự trung thành
với truyền thống), hay sức lôi cuốn của Hitler, Franco, hay Peron. Một số nhà
khoa học chính trị đã áp dụng khái niệm của Weber về cai trị dựa trên truyền
thống nhằm phát triển các phạm trù hiện đại như chế độ tân gia trưởng (neopatrimonialism)
hay chế độ quân chủ Hồi giáo (sultanism) trong việc mô tả nhiều chế độ ở
khu vực Trung Đông và Châu Phi hạ Sahara, nhưng không phải mọi học giả về chế
độ chuyên chế đều dùng các thuật ngữ này.
Phần
lớn các chế độ chuyên chế thường dựa trên nền tảng kết hợp tính chính đáng và
sự cưỡng chế. Những công cụ có thể được sử dụng bởi một chế độ đang quản lý một
quốc gia hiện đại nhằm truyền bá tính chính đáng và đồng thời thực hiện áp bức
phong phú hơn so với thời các bạo chúa trong lịch sử, kể cả những quân vương
chuyên chế như Vua Louis XIV của Pháp. Các nhà nước hiện đại có khả năng tổ
chức toàn thể xã hội thông qua công nghệ truyền thông, bộ máy chính quyền rộng
khắp, và hỏa lực tuyệt đối, nếu đó là con đường các quốc gia này chọn lựa.
Những
chế độ chuyên chế là những chế độ phi dân chủ. Nói cách khác, chế độ chuyên chế
là sự thiếu vắng hoặc hạn chế của hệ thống đa trung tâm quyền lực
(polyarchy) (Dahl, 1979) hoặc có sự giới hạn về chính trị ngay trong bản
thân chế độ:
Ở
các chế độ chuyên chế, chỉ có duy nhất một dạng hạn chế của chính trị, bởi sự
tranh giành quyền lực giữa các phe phái trong chế độ độc đảng và những bất đồng
trong quân đội hay bộ máy chính quyền không hề giống như chính trị thực sự –
chính trị được tiến hành trong bối cảnh một nền văn hóa công dân (a civic
culture). (Pye, 1990, tr. 15)
Mặc dù
thiếu dân chủ là yếu tố cốt lõi trong định nghĩa về chế độ chuyên chế, chúng ta
không thể đơn giản đánh đồng chế độ này với sự thiếu vắng của các cuộc bầu
cử. Bầu cử là một công cụ chính đáng hóa chính quyền được sử dụng bởi hầu
hết các chế độ, nhằm đáp lại một nhu cầu phổ biến rằng chính quyền sẽ thay mặt
dân chúng điều hành đất nước. Có rất nhiều cách để một cuộc bầu cử hoặc trưng
cầu dân ý có thể được thao túng để đạt được kết quả như ý cho các nhà chức
trách, hoặc nhằm hạn chế kết quả trong một phạm vi khả năng đă được khoanh
vùng. Ở nước Cộng hòa Hồi giáo Iran, ứng viên cho các cơ quan nhà nước ganh đua
trong các cuộc bầu cử thực sự mang tính cạnh tranh, nhưng những nhà cầm quyền
tôn giáo đã loại bỏ rất nhiều ứng viên tiềm năng ra khỏi cuộc đua. Tại Ai Cập,
tổ chức Anh em Hồi Giáo bị cấm hoạt động như một đảng chính trị, điều đó có
nghĩa rằng những ứng cử viên từ tổ chức này phải cạnh tranh như những ứng viên
độc lập. Hơn nữa, quá trình bỏ phiếu thường bị cản trở bởi nạn gian lận phiếu
bầu, đe dọa người bầu cử, hối lộ, và các tệ nạn khác. Đương nhiên ở các chế độ
độc đảng, chỉ có ứng cử viên của đảng cầm quyền mới có thể ứng cử. Nhưng không
phải mọi cuộc bầu cử trong những trường hợp trên đều vô nghĩa. Điều quan trọng
là những nhà chức trách cấp cao đã tìm cách tránh được sự cạnh tranh hiệu quả
thông qua hòm phiếu.
Vậy có
bao nhiêu loại chế độ? Một sự phân chia rạch ròi giữa dân chủ và phi dân chủ dường
như còn khiến chính những lý giải phức tạp hơn. Tuy nhiên, cách thức một sự
phân loại chế độ được phát triển và áp dụng nhằm đạt được những tiến triển
trong lý luận và phân tích thực nghiệm là một vấn đề chưa đạt được sự đồng
thuận giữa các nhà khoa học chính trị và tiếp tục đưa ra những thách thức cho
việc phát triển lý luận. Trong một tranh cãi gần đây về vấn đề phân loại
chế độ, Stephen Hanson và Jeffrey Kopstein (2005) đã cảnh báo về việc phát sinh
ra “số lượng cách thức phân loại nhiều ngang số lượng các nhà nghiên cứu xã
hội” (tr.77).
Một
hướng tiếp cận là đưa ra cách phân loại tỉ mỉ, bao gồm nhiều phạm trù riêng
biệt. Ví dụ, chế độ độc tài có thể được phân loại thành chế độ độc tài tuyệt
đối – autodictatorship (không có bầu cử), chế độ độc tài độc nhất
– monodictatorship (bầu cử không có tính cạnh tranh), và chế độ bán
độc tài – semidictatorship (bầu cử chỉ có một phần cạnh tranh); và
tiếp đó mỗi loại lại có thể được chia nhỏ hơn thành độc tài quân sự, độc tài
đảng phái, hoặc độc tài cá nhân. Hoặc chúng ta có thể lựa chọn phân chia theo
nấc thang từ phi dân chủ đến dân chủ (Diamond, Linz và Lipset, 1998). Cách tiếp
cận này được sử dụng bởi các tổ chức như Freedom House, nơi thường đánh giá mức
“điểm dân chủ” của các chế độ trên thế giới. Một hướng tiếp cận khác đưa ra một
vài hạng mục lớn, sau đó xác định các mục nhỏ trong các hạng mục lớn đó bằng
các tính từ. Đây là một cách tiếp cận được thiết kế để định rõ đặc điểm các chế
độ khác nhau đang nổi lên những năm gần đây [đồng thời] duy trì được giá trị về
mặt khái niệm bằng cách tránh lạm dụng chính các khái niệm” (Collier và
Levitsky, 1997, tr. 448). Cách tiếp cận này “sản sinh” ra những khái niệm như chế
độ chuyên chế “mềm” (soft authoritarianism) và nền dân chủ “phi tự do” (illiberal
democracy) (xem Chương 31, “Chế độ bán chuyên chế” (Semi-Authoritarianism), và
Chương 32, “Các hình mẫu dân chủ” (Models of Democracy) trong quyển sách này).
Cách
một người phân chia các chế độ khác nhau sẽ phụ thuộc vào những tính chất mà
người đó tin rằng thực sự quan trọng về mặt lý luận. Trong một bài báo năm
2007, Axel Hadenius và Jan Teorell cho rằng các biến số thể chế (institutional
variables) là những dấu hiệu quan trọng nhất chỉ ra chế độ chuyên chế nào sẽ có
xu hướng tồn tại bền vững, chế độ nào sẽ hướng đến dân chủ hóa. Cách phân loại
này trước hết đặt ra một đường phân chia rõ ràng giữa các chế độ dân chủ và các
chế độ chuyên quyền, tiếp đó chia chế độ chuyên quyền thành các chế độ: quân
chủ, quân đội và bầu cử, cho dù đó là bầu cử vô đảng, độc đảng, hay đa đảng hạn
chế. Đối lập với hai nhà nghiên cứu nói trên, Bradley Glasser (1995) đã phát
triển một cách phân loại các chế độ ở Trung Đông dựa trên sự tiếp cận các nguồn
lực tài nguyên, nhằm giải thích tính lâu bền của một số chế độ chuyên chế ở khu
vực này và sự tự do hóa tương đối của một số chế độ khác.
Xác
định cách phân loại nào hiệu quả nhất là một phần thách thức cho nghiên cứu
tương lai. Sách của Paul Brooker (2000) cung cấp một cái nhìn tổng quát và thảo
luận xuất sắc về nghiên cứu phân loại cho đến nay. Có thể sẽ hữu ích khi chúng
ta xác định những phân loại tổng quát về chế độ, dựa trên cấu trúc thể chế,
trước khi xem xét những vấn đề cụ thể mà khái niệm chủ nghĩa toàn trị (totalitarianism)
mang lại.
Chế
độ đảng trị (party regimes)
là những chế độ mà ở đó chính phủ do một đảng duy nhất hoặc một đảng thống trị
nắm quyền. Chế độ độc đảng (single party regimes) có một đảng gắn liền
với quốc gia và không cho phép bất kì đảng nào khác hoạt động. Ngay cả trong
nhóm chế độ này, có thể tồn tại sự khác biệt đáng kể về hệ tư tưởng mà qua đó
đảng biện minh cho sự cầm quyền của mình, bất kể đảng đó có các cấu trúc an
ninh hay dân quân riêng hay không, cũng như các yếu tố khác nữa. Chế độ một
đảng thống trị (dominant party regime) cho phép các đảng khác cạnh tranh một
cách hạn chế. Các chế độ đảng trị có thể theo bất cứ hình thức hệ tư tưởng nào,
tuy nhiên hai hệ phổ biến nhất là cánh tả (cộng sản hoặc xã hội chủ nghĩa), và
cánh hữu (phát xít hoặc dân tộc chủ nghĩa). Các đảng dân túy (populist)
có thể kết hợp các yếu tố liên quan đến cả hai cánh tả và hữu. Có thể nói hệ tư
tưởng không phải là nhân tố hữu ích để phân tích những chế độ này bằng việc xem
yếu tố đảng phái chủ yếu như là một công cụ để nắm giữ quyền lực.
Một
dạng khác của hệ thống phi dân chủ là chế độ quân đội trị (military
regime). Ở đây một lần nữa tên gọi này bao gồm một phạm vi rộng các hệ thống
khác nhau, cả về mặt lý luận và thực tiễn. Quân đội có thể cai trị trực tiếp,
thông qua một độc tài hoặc một hội đồng cai trị. Quân đội cũng có thể cai trị
gián tiếp, thông qua liên minh với các chính trị gia được lựa chọn và người cai
trị được chỉ định. Sự cai trị cũng có thể được thực hiện thông qua một đảng
tiên phong (front party), đảng này đương nhiên sẽ thể hiện bản chất của
đảng đó và chế độ quân đội. Một chế độ quân đội có thể đại diện cho cả
quân đội hoặc chỉ một bộ phận trong quân đội đó. Nó có thể mong muốn cai trị
vĩnh viễn hoặc sử dụng sự can thiệp vào chính trị như một biện pháp tạm thời để
giải quyết một vài vấn đề nguy cấp, như sự đe dọa đến an ninh quốc gia hay đe
dọa đến lợi ích của quân đội với tư cách một thể chế.
Dạng
thứ ba của chế độ phi dân chủ là chế độ cá nhân trị (personalist
regime). Đây là chế độ độc tài của riêng một cá nhân và so với hai loại trên,
chế độ này có xu hướng dựa vào thẩm quyền truyền thống hay thẩm quyền lôi cuốn
hơn là thẩm quyền pháp lý. Một điểm khác biệt then chốt giữa chế độ cá nhân trị
với hai loại chế độ đã bàn luận đó là: nền tảng tuyên bố cai trị nằm ở yếu tố
cá nhân (những) kẻ thống trị, cho dù quyền lực của họ là kết quả tự nhiên hay
thành tích đạt được, hay thông qua việc nối dõi, hoặc những mối liên hệ khác
với thẩm quyền được người dân sùng bái.
Một
trong những tác phẩm kinh điển về các chế độ chuyên chế là cuốn “Nguồn gốc
của chủ nghĩa toàn trị” (The Origins of Totalitarianism) của Hannah Arendt
(1951/1973). Đã có nhiều cuộc tranh luận về việc liệu thuật ngữ chủ nghĩa
toàn trị có hữu ích cho việc phân tích trong vai trò một khái niệm tách
biệt so với khái niệm rộng hơn – chế độ chuyên chế – hay không. Được
viết sau thảm kịch Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, tác phẩm của Arendt trước
hết là một nỗ lực giải thích biến động lớn đã khiến châu Âu đầu hàng chế độ
Quốc xã. Con đường phát triển của nhân loại đã đi trật bánh thảm hại như thế
nào? Ít nhất một phần câu trả lời nằm ở khả năng vô tiền khoáng hậu của các
quốc gia và phong trào hiện đại nhằm thống trị hoàn toàn xã hội và con người:
“Chủ nghĩa toàn trị đã khám phá ra một phương thức thống trị và khủng bố nhân
loại từ bên trong” (Arendt, 1951/1973, tr.325). Một vế khác của câu trả lời
chính là sự nổi dậy của chính trị quần chúng; của luật lệ theo số đông và sự
thất bại trong việc bảo vệ các quyền thiểu số và cá nhân; và của nỗ lực nhằm
đồng hóa con người trở thành một tập thể hoàn toàn thống nhất.
Một
tác phẩm kinh điển khác ủng hộ đặc điểm khác biệt của chế độ toàn trị là cuốn “Chủ
nghĩa độc tài toàn trị và chế độ chuyên quyền” (Totalitarian Dictatorship
and Autocracy) của Carl Friedrich và Zbigniew Brzezinski (1965). Các tác giả
lập luận rằng tất cả các chế độ độc tài toàn trị mang những tính chất sau:
1.
Một hệ tư tưởng phức tạp, được cấu thành bởi một học thuyết chính thức bao quát
mọi mặt thiết yếu của sự tồn tại mà mọi người trong xã hội phải gắn liền với…
2. Một đảng đại chúng điển hình được lãnh đạo bởi một người, kẻ độc tài, và bao
gồm một phần trăm rất nhỏ dân chúng… 3. Một hệ thống khủng bố, tấn công cả thể
xác lẫn tinh thần, chịu ảnh hưởng của đảng lãnh đạo và cảnh sát mật… 4. Một sự
độc quyền kiểm soát về kỹ thuật và gần như tuyệt đối với tất cả các phương tiện
truyền thông đại chúng, nằm trong tay đảng và chính phủ… 5. Một sự độc quyền
kiểm soát về kỹ thuật và gần như tuyệt đối với việc sử dụng hiệu quả tất cả các
vũ khí dùng cho chiến đấu vũ trang. 6. Một sự kiểm soát và định hướng cho toàn
bộ nền kinh tế xuất phát từ trung ương. (tr. 22)
Họ
không trình bày hết mọi khía cạnh của 6 đặc tính này nhưng tranh luận rằng
chúng đã “được xem rộng rãi như những nét đặc trưng của chế độ độc tài toàn
trị” (tr.23).
Chế độ
toàn trị là một chế độ kiểm soát thành công mọi mặt của xã hội, xóa bỏ sự khác
biệt giữa nhà nước và tư nhân, thậm chí tham vọng kiểm soát được cả những mặt
riêng tư nhất của đời sống và suy nghĩ từng cá nhân. Những bức chân dung lột tả
chân thực và mạnh mẽ về những chế độ như vậy có thể tìm thấy trong các cuốn
sách “1984” của Orwell, “Thế giới mới can đảm” (Brave New World)
của Aldous Huxley, bộ phim “Brazil” của Terry Gilliam, và các tác phẩm
khác. Những người phản đối việc sử dụng phạm trù này trong khoa học chính trị
tranh luận rằng những xã hội như vậy chưa từng tồn tại trong lịch sử, kể cả khi
chế độ đó có tham vọng đạt được sự kiểm soát ở mức cao như thế. Nếu chế độ toàn
trị đã từng tồn tại, thuật ngữ này có thể áp dụng gần nhất với Đệ tam đế chế
(Đức Quốc Xã), Liên Xô dưới thời Stalin, Iraq dưới thời Saddam Hussein (còn
tranh cãi), và có thể là Triều Tiên. Phát xít Ý không nên được liệt vào danh
sách này:
Chủ
nghĩa phát xít có tham vọng “toàn trị”; trên thực tế Mussolini đã đặt ra thuật
ngữ này. Nhưng… sự kiểm soát của Mussolini với xã hội nước Ý không cứng rắn,
triệt để như Hitler hay Stalin, ảnh hưởng của ông ta cũng không rộng khắp đến
vậy. Phát xít Ý vẫn còn để trống nhiều lĩnh vực xã hội rộng lớn. (Lyttelton,
1987, tr.1)
Một
vài người đặt câu hỏi rằng dù có bộ máy tuyên truyền rộng rãi và chiến dịch
khủng bố nhà nước, ngay cả các chế độ của Hitler hay Stalin có thực sự không bỏ
sót bất cứ lĩnh vực quan trọng nào của đời sống xã hội không? Chế độ Saddam với
tệ sùng bá lãnh đạo cũng có ham muốn xâm phạm tất cả các lĩnh vực đời sống, làm
cho con cái chống lại cha mẹ, biến tất cả mọi người thành mật thám, và thực sự
đã thành công đến một mức đáng kể (al-Khalil, 1990). Và thật khó để đưa ra một
đánh giá chắc chắn về Triều Tiên bởi nước này vẫn là một “vương quốc cô lập” –
một xã hội khép kín được cai trị bởi một “triều đại tự huyễn hoặc” (paranoid
dynasty) thông qua nhiều công cụ được sử dụng bởi các chế độ khác, nhưng rất
khó để cho người ngoài nghiên cứu và đánh giá (bộ phim tài liệu “A State of
Mind” của đạo diễn Daniel Gordon là một cơ hội hiếm hoi hé lộ về những công
cụ quản lý xã hội của chính quyền đầy bí ẩn này).
Một số
người phản đối đã coi thuật ngữ chủ nghĩa toàn trị là trống rỗng về mặt
lý luận bởi, ví dụ như, nó đơn giản chỉ là một nhánh cụ thể của chế độ chuyên chế
(Barber, 1969). Tuy vậy nhiều người khác vẫn muốn áp dụng thuật ngữ này rộng
rãi trong việc xác nhận tham vọng của nhiều chế độ chuyên chế hiện đại, ngay cả
khi các chế độ này thất bại trong việc quản lý toàn diện xã hội (Friedrich,
1969). Nhưng một trong những đóng góp quan trọng cho lĩnh vực này của Juan Linz
(1975) là đưa ra sự phân biệt giữa ba chế độ: toàn trị, chuyên chế và dân chủ
(loại bỏ những biến thể như chế độ chuyên quyền Hồi giáo), và lý luận rằng chế
độ toàn trị và chế độ chuyên chế là những thể loại khác biệt thuộc chế độ phi
dân chủ, thay vì chỉ là những ví dụ của cùng một hệ trục. Theo Linz, chế độ
chuyên chế có những đặc trưng riêng phân biệt với chế độ toàn trị, đó là sự hạn
chế về đa nguyên chính trị, sự rã đám, không vận động quần chúng
(demobilization), hoặc sự vận động quần chúng bị hạn chế hoặc bị kiểm soát.
Các
cách tiếp cận trên lý thuyết
Brooker
đã tranh luận rằng không thể có một lý thuyết về bản thân chế độ chuyên chế.
Thay vào đó, chúng ta có thể nghiên cứu các dạng khác nhau của chế độ này và cố
gắng lý giải các mặt khác nhau của chúng – làm thế nào chế độ tồn tại, giữ vững
quyền lực và điều gì có thể khiến nó sụp đổ. Tuy nhiên, cho tới nay, trong
những nỗ lực giải thích những khía cạnh khác nhau này, chúng ta có thể nhận thấy
một vài hướng tiếp cận lớn, bắt nguồn từ tâm lý học, từ việc phân tích các quan
niệm và tư tưởng, và từ cấu trúc và thể chế.
Một
cách tiếp cận cũ hơn dựa trên tâm lý học, đặc biệt liên quan với Trường phái
Frankfurt, pha trộn các nhân tố tư tưởng Freud và Marx. Một tác phẩm kinh điển
theo hướng này là cuốn “Tính cách chuyên chế” (The Authoritarian
Personality) của Theodor Adorno và các cộng sự (1950). Cách tiếp cận này coi
bản thân các nét tính cách cá nhân, vốn là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội trong cuộc
sống hiện đại, chính là điều kiện tác động đến sự nổi lên của các phong trào
quần chúng. Wilhelm Reich (1970) ủng hộ quan điểm này:
“Chủ
nghĩa Phát xít” chỉ là biểu hiện chính trị có tổ chức của kết cấu tính cách của
một người bình thường… thái độ cảm xúc cơ bản của một người bị đàn áp bởi nền
văn minh máy móc chuyên chế, cùng với những quan niệm thần bí mang tính máy móc
về cuộc sống. Chính tính cách thần bí mang tính máy móc của con người hiện đại
đã cho ra đời các đảng phát xít, chứ không phải điều ngược lại. (tr. xiii)
Có một
hướng tiếp cận khác theo cách diễn giải, sử dụng chính các ý niệm và tư tưởng
làm công cụ giải thích. Mặc dù là một tác phẩm xã hội học và lịch sử, cuốn sách
của Arendt (1951/1973) vẫn dành sự quan tâm nhất định đến khía cạnh này. Gần
đây hơn, Lisa Wedeen (1999) đã áp dụng cái nhìn diễn giải đối với sự sùng bái
lãnh đạo ở Syria và rút ra những kết luận đáng chú ý về việc tôn sùng tưởng
chừng rất vô lý và khó tin kia đã trở thành một công cụ quyền lực ngăn cản sự
tiến bộ của một xã hội dân sự như thế nào.
Được
đúc kết từ Marx và Weber, cách tiếp cận theo hướng lịch sử-thể chế, hay xã hội
học lịch sử, đã đóng góp khá nhiều công trình khả quan trong lĩnh vực này. Tác
phẩm của Skocpol về cách mạng xã hội là một minh chứng rất thuyết phục cho
hướng tiếp cận này. Tác phẩm của Skocpol về các cuộc cách mạng xã hội là một ví
dụ nhiều ảnh hưởng của cách tiếp cận này, nhưng bên cạnh đó còn rất nhiều nhà
khoa học khác, như Linz và Guillermo O’Donnell. Một vài ví dụ gần đây bao gồm
những đóng góp của họ cho số đặc biệt của tạp chí Comparative Politics
tháng 1/2004 bàn về “Chế độ chuyên chế dai dẳng: Bài học từ Trung Đông cho Lý
thuyết So Sánh” (Enduring Authoritarianism: Lessons From the Middle East for
Comparative Theory) và công trình của Jason Brownlee (2007), người nghiên cứu
về các đảng cầm quyền.
Brooker
(2000) đã đề xuất hướng tiếp cận mang tính mổ xẻ nguyên nhân (forensic) đối với
nghiên cứu sự nổi lên, duy trì và sụp đổ của các chế độ phi dân chủ; nói cách
khác, khi phân tích phải xem xét các động cơ, phương tiện và cơ hội. Đây là một
cách tiếp cận so sánh lịch sử khá rộng, người nghiên cứu không bắt buộc phải
đặt ưu tiên trước cho một yếu tố nào, ví dụ như đơn vị so với cấu trúc hay
ngược lại. Cách tiếp cận này cũng cho phép so sánh trên diện rộng giữa các chế
độ phi dân chủ với nhau và giữa chúng với các chế độ dân chủ. Đây là một khuôn
khổ mở hữu ích, tạo điều kiện để có thể xem xét nhiều vấn đề cụ thể hơn.
Những
vấn đề thực nghiệm
Nguồn
gốc của các chế độ toàn trị và chế độ chuyên chế
Nhiều
chế độ chuyên chế hiện đại là kết quả của các cuộc cách mạng, khởi đầu với thời
kỳ Khủng bố (the Terror) xảy ra sau cuộc Cách mạng Pháp, và bao gồm Cách mạng
Bolshevik năm 1917 tại Nga và cuộc cách mạng tại Trung Quốc do Mao Trạch Đông
lãnh đạo. Cuộc cách mạng của Mao đã thiết lập một chế độ chuyên chế tồn tại
vững chắc đến thế kỷ 21 ở quốc gia đông dân nhất thế giới. Cách mạng Iran từ
1977 đến 1979 đánh dấu sự bắt đầu của một dạng chính quyền bán dân chủ đặc biệt
– đó là Cộng hòa Hồi giáo.
Theda
Skocpol (1979) đã lập một khung nghiên cứu về lịch sử cấu trúc và so sánh để
phân tích những cuộc cách mạng trong cuốn “Nhà nước và Cách mạng xã hội”
(States and Social Revolutions), một trong những tác phẩm cần đọc trong lĩnh
vực này. Bà đã kết luận rằng lời phỏng đoán kinh điển của chủ nghĩa Marx về mâu
thuẫn giai cấp dẫn đến biến chuyển cách mạng đã không cân nhắc đầy đủ vai trò
quyền lực nhà nước, và đã không “giải thích thỏa đáng quyền lực tự trị, dù hay
dù dở, của nhà nước trong vai trò bộ máy hành chính và cưỡng chế được gắn vào
một hệ thống nhà nước quốc tế được quân sự hóa” (tr. 292). Cách mạng được tiến
hành rộng rãi do khả năng suy giảm của nhà nước trong việc độc quyền sử dụng vũ
lực hợp pháp, nguyên nhân thường xuyên là do sự kết hợp đồng thời giữa áp lực
quốc tế – trên tất cả là chiến tranh – và sức ép về kinh tế xã hội trong nước.
Bà cũng tranh luận rằng, đối lập với tiên đoán của chủ nghĩa Marx về sự tàn lụi
của nhà nước sau một cuộc cách mạng thành công, thì “những nhà nước với chế độ
mới ra đời ở Pháp, Nga và tương tự là Trung Hoa thậm chí còn hùng mạnh hơn và
tự trị hơn trong lòng xã hội” (tr. 285). Mặc dù hình thái tư tưởng và kinh
tế-xã hội của ba chế độ hậu cách mạng này tương đối khác nhau, nhưng sự lớn
mạnh của nhà nước là một kết quả đồng nhất cho cả ba trường hợp. Ở hai trường
hợp sau, như trong nhiều ví dụ về chế độ chuyên chế ở thế kỷ 20, thẩm quyền của
nhà nước được xem như một công cụ cần thiết để giải quyết vấn đề “đuổi kịp” các
nước có nền kinh tế phát triển hơn.
Cách
mạng ở Iran đặt ra một thách thức với việc nghiên cứu cách mạng xã hội, như
Skocpol (1982) thừa nhận trong một bài luận xuất bản không lâu sau tác phẩm năm
1979 của bà. Trái ngược với những đánh giá của mình về các cuộc cách mạng
trước, bà buộc phải công nhận các ý niệm và tư tưởng đóng một vai trò nguyên
nhân độc lập lớn hơn, và nhấn mạnh vai trò của cơ quan tổ chức lên trên yếu tố
cơ hội. Cách mạng Iran nổ ra không phải trong hoàn cảnh nhà nước suy yếu
vì chiến tranh, mà vào thời điểm chế độ Shah (hay quốc vương Iran) được Mỹ
chống lưng, tập trung trong tay nguồn binh lính, cảnh sát và tình báo dồi dào.
Cuộc cách mạng này không chỉ đơn giản “nổ ra” mà chắc chắn đã được “tạo nên”
bởi một liên minh các lực lượng xã hội bất mãn với chế độ.
Giành
chính quyền, sau đó sử dụng các thể chế như là công cụ để thay đổi và hướng đến
một xã hội tốt đẹp hơn là những mục tiêu chung của các cuộc cách mạng, bất kể
những chi tiết cụ thể của tư tưởng vận động quần chúng như thế nào. Thay vì tập
trung vào hệ tư tưởng – hay sau đó là “động cơ” theo cách tiếp cận của Brooker
– có lẽ sẽ hữu ích hơn nếu chúng ta nghiên cứu những vấn đề về phương tiện và
cơ hội.
Cơ hội
thường đến từ sự tan rã của trật tự chính trị và xã hội hiện hành, bởi chiến
tranh, nền kinh tế đứt mạch, và thất bại của các thể chế, như đã xảy ra ở Ý và
Cộng hòa Weimar của Đức giữa hai cuộc Chiến tranh Thế giới. Trong những trường
hợp này, cuộc cách mạng có thể hoàn toàn mang tính xã hội theo nghĩa rằng nó
được thúc đẩy bởi một phong trào rộng lớn của quần chúng nhằm giành lấy quyền
lực, mặc dù thông thường chỉ là một nhóm nhỏ tận dụng được thời cơ lật đổ chính
quyền cũ. Nhưng trong nửa cuối thế kỷ 20, động lực này đã thay đổi bởi các thể
chế nhà nước, và trên tất cả, các công cụ cưỡng chế nhà nước đã trở nên mạnh mẽ
hơn trước. Chuyển đổi chế độ có xu hướng bị áp đặt qua lực lượng quân đội, từ
bên trong hoặc bên ngoài: “Một khi quá trình phi thực dân hóa kết thúc, với
những lực lượng quân đội hiện đại được thiết lập, các cuộc cách mạng xã hội có
xu hướng giảm dần – trong khi những cuộc đảo chính quân sự ở nhiều dạng khác
nhau vẫn xảy ra khá thường xuyên” (Skocpol, 1979, tr. 290). Các nhà nước đã
tăng cường khả năng giữ vững trật tự, ngăn chặn những cuộc vận động quần chúng
chống lại mình, nhờ vào những tiến bộ khoa học kĩ thuật. Viễn cảnh cho các cuộc
cách mạng xã hội theo đó cũng nhạt nhòa dần, bởi vậy một số phân tích gần đây
ít nhiều loại bỏ vai trò nổi trội của dân chúng trong sự hình thành các chế độ
chuyên chế, thay vào đó nhìn nhận chế độ này là sản phẩm từ những quyết định của
giới tinh hoa lãnh đạo, mà quần chúng là những người ngoài cuộc vô tội chỉ mong
mỏi một nền dân chủ (ví dụ, Bermeo, 2003).
Nguồn: Theo Nghiên Cứu Quốc Tế