TS. Phạm Quý Thọ
Trước nguy cơ tan
rã Liên Bang Xô Viết, Gorbachov đưa ra cách cứu vãn: ‘CÔNG KHAI’ (гласность)
và ‘TÁI CẤU TRÚC’ (перестройка).
Khốn nỗi, nguyên
tắc của chế độ Xô Viết là bưng bít; do vậy, chủ trương "công khai"
của Gorbachov là nguyên nhân quan trọng làm sụp đổ chế độ này. Người dân bỗng
hiểu: Té ra, mình bị bưng bít cả kiếp người...
Lenin hiểu rất rõ:
"Chế độ mới thắng chế độ cũ là nhờ có năng suất cao hơn".
Nhưng một chế độ xóa bỏ tư hữu thì năng suất không thể cao, vì mất động lực.
Do vậy, càng "tái cấu trúc" lại càng hỗn loạn, dẫn tới sụp
đổ.
(NNL)
|
Kỳ 1: ‘Công khai’ và 'cải cách' làm sụp đổ chế độ
XôViết
Theo tôi, nguyên tắc ‘công khai’ (гласность) và ‘tái
cấu trúc’ (перестройка) trong cải cách nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và
kém hiệu quả, là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sụp đổ chế độ cộng sản ở Liên
Xô và các nước XHCN Đông Âu.
Cuối tháng 4/2020 hầu hết các báo nhà nước đều trang
trọng đăng bài viết: “Một số vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong công
tác chuẩn bị nhân sự Đại hội 13 của Đảng” của Ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí
thư, Chủ tịch nước, Trưởng Tiểu ban Nhân sự cho Đại hội 13.
Trong bài trên, Ông Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Thực
tế cho thấy, trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhất là vào những thời điểm quyết định
hoặc có tính bước ngoặt lịch sử, vận nước đặt tất cả vào đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược. (Lênin đã từng nói: "Hãy cho tôi một tổ chức những người cách
mạng, tôi sẽ làm đảo lộn cả nước Nga"). Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và một số nước Đông Âu sụp đổ là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân
rất quan trọng là lựa chọn, bố trí sai một số cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược,
nhất là cấp cao nhất.”
Sự tan rã của chế độ XHCN ở Liên Xô cũ và Đông Âu, mà
biểu tượng là sự sụp đổ của bức tường Berlin năm 1989, là biến cố lịch sử mà
loài người còn tiếp tục quan tâm vì sự tiến bộ và văn minh. Có nhiều nguyên
nhân khách quan, chủ quan, do nội bộ hay từ bên ngoài, trực tiếp hay gián tiếp…
tuỳ theo quan điểm chính trị hay góc nhìn của người nghiên cứu phân tích.
Tuy nhiên, các chính khách luôn biết cách vận dụng để tuyên truyền phù hợp với
mục đích của họ. Đã hơn 30 năm kể từ đó, biến cố này vẫn thúc đẩy sự phát triển
tự do và dân chủ thay vì coi đó là bài học cần rút kinh nghiệm.
Theo lãnh tụ cộng sản V. I. Lênin, suy cho cùng,
nguyên nhân sụp đổ của chế độ là kinh tế, rằng ‘chế độ mới chỉ có thể chiến thắng chế độ cũ nếu năng suất lao động cao
hơn’… Tuy nhiên, theo tôi, từ góc nhìn thể chế và chính sách công có
nguyên nhân quan trọng khác đó chính là việc cựu Tổng bí thư Mikhail Gorbachyov
và tập thể lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô cũ trong giai đoạn (1985 - 1991) đã
thực hiện cải cách nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, kém hiệu quả dựa trên
nguyên tắc ‘công khai’ và ‘tái cấu trúc’, nguyên văn trong tiếng Nga là
‘гласность’ và ‘перестройка’
Hình minh hoạ. Người lính Liên Xô đốt cờ Liên Xô cũ ở Moscow hôm 21/8/1991 AFP |
Chế độ cộng sản ở Liên Xô cũ và hệ thống xã hội chủ
nghĩa (XHCN) ở Đông Âu tồn tại hơn 70 năm nếu tính từ Cuộc cách mạng Tháng 10
(theo lịch cũ của Nga) năm 1917 đến năm 1991. Như đã biết, sau Iosif Stalin,
lãnh đạo tối cao của Liên Xô giữa thập niên 1920 cho đến khi qua đời năm 1953,
các thế hệ lãnh đạo kế tiếp là từ Nikita Khrushchyov (1953-1964), Leonid
Brezhnev (1964 đến năm 1982)… đến Mikhail Gorbachyov (1985 tới 1991), lãnh tụ
Liên Xô cuối cùng. Đây là thời kỳ, thế giới gọi là ‘chiến tranh lạnh’
giữa hai hệ thống chính trị khác biệt: Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình tồn tại của chế độ các cựu lãnh đạo Xô
Viết nêu trên luôn được ca ngợi tôn vinh, nếu có sai lầm thì là ‘không cơ bản’
và được khắc phục bởi những người kế tiếp. Tuy nhiên, khi chế độ sụp đổ họ bị
‘phán xét’ theo các cách khác nhau. Chẳng hạn, theo quan điểm của Đảng CS Việt
Nam, N. Khrushchyov từng bị cho là ‘xét lại’ và M. Gorbachyov là ‘thành phần cơ
hội’, ‘kẻ phản bội’ lại lý tưởng CS… Phương Tây gọi M. Gorbachyov là ‘người anh
hùng bất đắc dĩ’…
Hình minh hoạ. Cựu Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô ở Moscow hôm 27/8/1991 AFP |
Cựu Tổng bí thư LX M. Gorbachov từng phát động cải tổ
nền kinh tế với việc ‘tái cấu trúc’ (perestroika) ‘công khai’ (publicity). Tái
cấu trúc nền kinh tế thì cần thời gian và cũng không thể đưa cứu vãn nền kinh
tế đang cạn kiệt bởi cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chỉ huy. Hơn nữa, việc sa
lầy tại cuộc chiến tại Afganistan (1978-1991) cũng gây ra những chi phí khổng
lồ. Tuy nhiên, Việc tiến hành cải tổ dựa trên nguyên tắc ‘công khai’ là ‘trái’
với bản chất của chế độ, vốn luôn che giấu khuyết tật và bệnh thành tích…
Nguyên tắc ‘công khai, minh bạch và chịu trách nhiệm’ trước nhân dân là ‘Gót
chân Asin’ (Achilles heel) của chế độ.
Tiềm lực kinh tế, hơn thế, bối cảnh lịch sử đã không
cho phép các nhà lãnh đạo Xô Viết sử dụng bạo lực với nhân dân hay với các nước
trong hệ thống XHCN lúc đó, kiểu như can thiệp vào ‘biến cố Mùa xuân
Praha’, Tiệp Khắc năm 1968. Trước đó, năm 1989 Béc Linh đã sụp đổ, cả hệ
thống đang tan rã, các quốc gia tìm cơ hội độc lập và người dân hướng tới thể
chế dân chủ…
Mùa xuân Praha là nỗ lực của Alexander Dubček, Nó bắt
đầu, nhà cải cách người Slovak A. Dubček lên nắm quyền lực ngày 5/1/1968, trao
thêm quyền cho các công dân trong một hành động nhằm phi tập trung đảng phái
nền kinh tế và dân chủ hoá. Các quyền tự do được trao gồm nới lỏng các hạn chế
với truyền thông, ngôn luận và đi lại… Dubček cũng liên bang hoá đất nước thành
hai nhà nước cộng hoà riêng biệt’. Cuộc cải cách đã không được chấp nhận, sau
đó Tiệp Khắc bị can thiệp quân sự bởi Liên Xô đã và Khối Hiệp ước Warszawa và
bị chiếm đóng cho tới năm 1990.
Nhà kinh tế trường phái Áo Friedrich von Hayek
(1899–1992), người đoạt giải thưởng Nobel năm 1974, đã tin rằng mọi hình thức
của chủ nghĩa tập thể chỉ có thể duy trì bằng tình trạng tập quyền cao độ.
Trong cuốn sách của ông, Đường về nô lệ (1944) và các tác phẩm sau đó, F. Hayek
tuyên bố CNXH đòi hỏi một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và phương thức kế
hoạch hóa đó có thể trở thành chủ nghĩa toàn trị.
F. Hayek và nhiều đồng nghiệp trường phái kinh tế Áo
cho rằng quyền lực độc quyền của nhà nước là đe dọa lớn nhất với tự do và sự
thịnh vượng trong dài hạn của xã hội loài người. Trong đó, Murray Rothbard
(1926–1995) gọi nhà nước là "tổ chức của những kẻ ăn cướp trắng trợn có hệ
thống" và là nơi hội tụ của những cá nhân vô đạo đức nhất, tham lam nhất
và vô liêm sỉ nhất trong bất cứ xã hội nào. Họ tiên đoán rằng sớm muộn gì chế
độ đó sẽ bị sụp đổ.
Tư tưởng chủ nghĩa cộng sản khởi nguồn từ châu Âu, mà
Các Mác (1818 – 1883) đã tiên phong đặt nền móng lý thuyết. V. Lê Nin đã vận
dụng vào hoàn cảnh nước Nga vào đầu thế kỷ 20, sau đó Liên bang Xô Viết ra đời
vào những năm 20. Chủ nghĩa phát xít bị đánh bại trong thế chiến II
(1939-1945), như hậu quả của nó, hệ thống XHCN được hình thành, bao gồm Liên
Xô, một số quốc gia Đông Âu… cho đến khi nó bị sụp đổ.
Lịch sử vẫn là lịch sử, mặc dù mọi sự đã thay đổi.
Biến cố lịch sử của thế kỷ có thể là ‘cái rủi’ cho chế độ cộng sản, cho những
người cầm quyền, nhưng thực tế cho thấy lại là ‘cái may’ cho đại bộ phận dân
chúng trong chế độ mới. Hãy tự đặt mình vào địa vị của người dân để trả lời câu
hỏi liệu họ có muốn quay trở về sống dưới chế đố cũ một lần nữa.
Các quốc gia từng là XHCN trước kia, phần lớn ở Đông
Âu, đã thiết lập chế độ dân chủ trong quá trình chuyển đổi hoà bình. Đối với đa
số người dân và chính phủ của họ chế độ XHCN và biến cố sụp đổ của nó đã là
lịch sử, và việc duy trì và phát triển các giá trị tiến bộ của loài người là
hiện tại và tương lai.
Tóm lại, nguyên nhân của mọi nguyên nhân sụp đổ chế độ
là kinh tế, khi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung không hiệu quả, khiến chế độ
dần suy yếu và ‘thua’ trong cạnh tranh với chế độ tư bản trong thời kỳ ‘chiến
tranh lạnh’. Ngoài ra, trong chế độ đó, theo phân tích của F. Hayek, ‘những kẻ
leo cao cũng là nô lệ’.
Nguyên tắc ‘công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình’ luôn là một đòi hỏi từ thực tế, từ nhân dân đối với chế độ, nhưng nó lại
‘đụng chạm’ đến quyền lực tuyệt đối của lãnh tụ yêu cầu cấp dưới tuân thủ và
phục tùng. ‘Công khai’ cũng có nghĩa là phủ nhận ‘độc quyền chân lý’…, đối
nghịch với ‘sự thật được che giấu bởi tính nhạy cảm của vấn đề.’ ‘Công khai
minh bạch’ trong cải cách là một bước tiến đến chế độ dân chủ.
Liên Xô đã sụp đổ. Các giá trị lý tưởng CSCN là tốt
đẹp và thu hút đông đảo quần chúng, nhưng cách vận hành để đi tới đích đó là
vấn đề của hiện tại. Các quốc gia có chế độ xã hội khác nhau có sự lựa chọn
không giống nhau để thay đổi. Việt Nam có chế độ chính trị tương đồng với Trung
Quốc, bởi vậy kinh nghiệm cải cách của quốc gia này liệu có thể trở thành mô
hình cho Việt Nam hay không vẫn là câu hỏi lớn và cần có sự tìm hiểu thấu đáo.
Hà Nội, ngày 03/5/2020. Phạm Quý Thọ
Kỳ 2 (cuối): Mô
hình Trung Quốc – chế độ chuyên quyền ngày càng nguy hiểm để noi theo
Liên bang Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô viết, Liên Xô
cũ – thành trì của CNXH đã sụp đổ. Trung Quốc có chế độ chính trị tương đồng
với Việt Nam, cùng hệ tư tưởng cộng sản, nhưng nổi lên như chỗ dựa thực tế với
cải cách kinh tế dẫn đến tăng trưởng được cho là ‘ngoạn mục’ trong thời kỳ dài.
Tuy nhiên, chế độ chuyên quyền Bắc Kinh ngày càng hung hăng khi thực hiện ‘giấc
mơ Trung Hoa’ đe doạ sự chung sống hoà bình theo luật pháp quốc tế, buộc Việt
Nam phải độc lập hơn về chính sách và cải cách thể chế kinh tế và chính trị.
Nguyên nhân ‘tụt hậu’ có thể có nhiều, nhưng liệu Việt
Nam có tạo ra khác biệt trong cải cách để độc lập trong chiến lược phát triển
đất nước, thậm chí ngay từ Đại hội 13 của Đảng CS Việt Nam dự kiến tổ chức vào
đầu năm 2021.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Trưởng Tiểu ban Nhân
sự cho đại hội, ông Nguyễn Phú Trọng, trong bài viết mới đây của ông: “Một số
vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội 13
của Đảng” nhấn mạnh Đại hội 13 là ‘sự kiện mang tầm quan trọng lịch sử’ là ‘một
dấu mốc rất quan trọng, có ý nghĩa định hướng tương lai’ ‘trong bối cảnh tình
hình thế giới và khu vực có những diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó
lường’.
Tránh sự sụp đổ như Liên Xô cũ và các nước XHCN ở Đông
Âu trước kia. Trung Quốc và Việt Nam lựa chọn cải cách kinh tế mà vẫn giữ quyền
lãnh đạo của đảng cộng sản. Trung Quốc tiến hành cải cách trước Việt Nam khoảng
một thập kỷ. Trung Quốc là nước lớn với tư tưởng và tầm nhìn chiến lược phát
triển từ ‘Giấu mình chờ thời’ đến ‘Giấc mộng Trung Hoa’ và những khác biệt về
địa chính trị, lịch sử văn minh, văn hoá… khiến Việt Nam luôn là người theo
sau.
‘Giấu mình chờ thời’ là mưu lược trong tư tưởng Đặng
Tiểu Bình. Sau khi Mao Trạch Đông chết năm 1976, để tránh sự sụp đổ chế độ do
nền kinh tế kiệt quệ sau ‘cách mạng văn hoá’, Trung Quốc đã tiến hành chính
sách ‘cải tổ’ từ cuối những năm 1970. Tuy nhiên, khác với cải tổ do Mikhail
Gorbachev khởi xướng dựa trên nguyên tắc ‘công khai’ và ‘tái cấu trúc’, Đặng Tiểu
Bình, người từng bị ‘cải tạo’ hai lần trong các nông trang dưới thời Mao, đã
nêu khẩu hiệu ‘cải cách’ và ‘mở cửa’ với một chiến lược khôn khéo theo phương
châm ‘giấu mình chờ thời’.
Đảng CS Trung Quốc và cựu chủ tịch Đặng tỏ ra hiểu ‘tư
bản’ hơn chính các nhà lãnh đạo của các nước tư bản chủ nghĩa, chế độ dân chủ
với nền kinh tế thị trường phát triển. Trong thời kỳ sau ‘chiến tranh lạnh’ khi
hệ thống XHCN ở Đông Âu đã sụp đổ và trong bối cảnh toàn cầu hoá các tập đoàn
tư bản xuyên quốc gia đã ‘ồ ạt’ đầu tư, vào Trung Quốc để tìm kiếm lợi nhuận
cao nhờ chi phí nhân công rẻ, thị trường tiêu thụ lớn, và dễ dàng bỏ qua các
ràng buộc về các vấn đề môi trường, quyền biểu tình, biểu đạt và các vấn đề tự
do, dân chủ khác.
Hình minh hoạ. Cờ của Đảng Cộng sản Trung Quốc bên ngoài triển lãm kỷ niệm 40 năm mở cửa và đổi mới ở Trung Quốc tại Bắc Kinh hôm 14/11/2018 Reuters |
Lịch sử còn ghi lại rằng chuẩn bị cho chính sách ‘mở
cửa’ Đặng Tiểu Bình đã khảo sát một số nước tư bản và mới nổi châu Á như
Singapore để học hỏi kinh nghiệm ‘hoá rồng’ trong thời gian ngắn. Kết quả là
sau đó một loạt các khu công nghiệp, khu chế xuất, vùng tự do kinh tế đến các
đặc khu hành chính kinh tế kiểu như ‘phố Đông Thượng Hải’ hay Thâm Quyến Quảng
Châu được ra đời và phát triển. Họ ‘hấp dẫn thu hút’ đầu tư nước ngoài và ‘trải
thảm’ chào đón các tập đoàn tư bản lớn nhỏ Từ Á châu các nước Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan, Singapore… đến châu Âu, Mỹ, Canada, tuỳ thuộc vào ‘ưu thế kinh
doanh của mình’ mà ‘miệt mài’ mang vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý vào thị
trường Trung Quốc kiếm lời.
Trong hơn 30 năm ‘cải cách và mở cửa’ tăng trưởng tỷ
lệ tăng GDP của Trung Quốc luôn ở mức hai con số, trên 10%. Năm 2011 đã vượt
Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ, và nay đã
đạt quy mô GDP khoảng 14 nghìn tỷ đô la. Trung Quốc còn là công xưởng sản xuất
của thế giới, chiếm vị trị quan trọng trong chuỗi cung kinh tế và thị trường
của thế giới, đang ‘tiên phong’ trong một số lĩnh vực, như công nghệ 5G, trí
tuệ nhân tạo…
Các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia vốn do bản
chất lợi nhuận; nhưng nhiều thế hệ các nhà lãnh đạo các nước tư bản phát triển
được cho là ‘vô tư’ với quan niệm rằng khi kinh tế tăng trưởng sẽ thúc đẩy cải
cách dân chủ mà không cần có điều kiện nào. Họ đã không hiểu Đặng Tiểu Bình,
mưu đồ sâu xa và bản chất của chế độ Trung Quốc cho đến khi Tổng thống Donald
Trump đề cao chính sách ‘Làm nước Mỹ vĩ đại trở lại’.
Giai đoạn hơn 30 năm ‘giấu mình chờ thời’ chấm dứt,
‘Giấc mộng Trung Hoa’ bắt đầu. Đây là tầm nhìn chiến lược phát triển đất nước
do Tập Cận Bình, Tổng Bí thư ĐCS, chủ tịch nước khởi xướng từ nhiệm kỳ đầu tiên
nắm quyền vào năm 2013.
‘Giấc mộng Trung Hoa’ được thiết kế dựa trên ‘lý
thuyết chủ quyền quốc gia’ do Vương Hộ Ninh, một trong bảy lãnh đạo cao cấp
nhất, Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị ĐCS TQ, đề xuất, tạo nền tảng cho các lợi
ích cốt lõi của Trung Quốc về chủ quyền quốc gia gắn với ổn định chế độ. Một
tinh thần dân tộc được kích lên nhờ tuyên truyền về biến cố ‘Bách niên quốc
sỉ’, ‘nỗi nhục trăm năm’ từ triều đại Mãn Thanh trong thế kỷ 19, khi bị các
nước đế quốc đô hộ sau thất bại trong hai cuộc ‘chiến tranh nha phiến’ (1840 –
1843 và 1856 – 1860). Kiểu ‘tinh thần dân tộc’ dựa trên lòng hận thù dân tộc
còn nguy hiểm ‘chủ nghĩa dân tộc’, một hiện tượng nổi lên trong giai đoạn thoái
trào ‘toàn cầu hoá’.
Ngoài ra, ‘Giấc mộng Trung Hoa’ còn được thiết kế tổng
thể và chi tiết trong chiến lược theo thời kỳ trăm năm, rất riêng ’Trung Quốc’,
theo những mốc thời gian kỷ niệm các ngày lễ lớn của chế độ với những mục tiêu
cụ thể. Đến năm 2020 nhân kỷ niệm 100 năm ngày thành lập đảng hoàn thành xây
dựng xã hội khá giả, ‘tiểu khang’. Đến 2025 phải hoàn thành chiến lược ‘Made in
China’, ‘chế tạo tại Trung Quốc’ các thiết bị, sản phẩm công nghệ cao cấp… Đến
năm 2049 nhân kỷ niệm 100 năm ngày ra đời nước CHND Trung Hoa mục tiêu xây dựng
CNXH mang đặc sắc Trung Quốc dự kiến hoàn thành với tham vọng địa vị thống trị
thế giới. Đồng thời với các chiến lược các sáng kiến, kiểu như ‘một vành đai,
một con đường’ của Tập cũng đang được khởi động…
Hình minh hoạ. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Bắc Kinh hôm 24/10/2017 Reuters |
Hơn thế, ‘Giấc mộng Trung Hoa’ gắn liền với quyền lực
của Tập Cận Bình. Việc sửa đổi điều lệ đảng và hiến pháp Trung Quốc năm 2018
cho phép Tập trở thành ‘hạt nhân lãnh đạo’ và kéo dài sự cai trị không bị giới
hạn bởi hai nhiệm kỳ như trước đây.
Thế giới đang ngày càng phải đối phó với ‘giấc mộng
Trung Hoa’ với sự hung hăng và bành trướng của chính quyền Trung Quốc, trong đó
Việt Nam còn chịu áp lực lớn nhất trước sự xâm chiếm lãnh hải, quân sự hoá và
hành chính hoá các đảo chìm nổi thuộc chủ quyền Việt Nam.
Vị Tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ đã phát động ‘chiến
tranh thương mại’ khi cáo buộc chính quyền Trung Quốc đã ‘không sòng phẳng’
cạnh tranh kinh tế khi ‘phớt lờ’ cam kết về cải cách thể chế khi vào Tổ chức
Thương mại Thế giới – WTO, trợ cấp cho các công ty nhà nước, ép buộc các tập
đoàn xuyên quốc gia chuyển giao công nghệ, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ…
Các vấn đề vi phạm dân chủ nhân quyền cũng được chính
quyền Mỹ nêu ra nhiều hơn khi nhắc đến các vấn đề nóng, trước đây được cho là
‘nhạy cảm’, về tôn giáo, dân tộc ở Tây Tạng và Tân Cương... Hơn thế, vấn đề dân
chủ ở Hồng Kông, chủ quyền của Đài Loan, vốn được coi là ‘nội bộ’ cũng trở nên
phức tạp khi quan điểm và chính sách của chính phủ Mỹ đang thay đổi.
Hiện nay, đại dịch coronavirus – COVID-19 khiến cả thế
giới đang chịu khủng hoảng kép: y tế và kinh tế chưa từng có trong lịch sử từ
hơn thế kỷ nay. Tuy nhiên, Trung Quốc đã lợi dụng tình trạng này để trục lợi từ
việc cung cấp khẩu trang và các thiết bị y tế, thúc đẩy truyền thông hung hăng
phủ nhận nguồn gốc của virus corona chủng mới xuất phát từ Vũ Hán và việc đã
giấu diếm sự nguy hiểm lây lan trong cộng đồng… Ngoài ra, chính quyền Bắc
Kinh đang đẩy mạnh xâm chiếm Biển Đông, sử dụng vũ lực đe doạ chủ quyền biển
đảo của các quốc gia liên quan…
Mặt khác, ngoài hậu quả nặng nề về kinh tế, sự gián
đoạn các mối liên kết trong khủng hoảng đã bộc lộ sự phụ thuộc của nhiều quốc
gia vào Trung Quốc về nguồn cung từ vật tư y tế thiết yếu, thuốc chữa bệnh đến
các bán thành phẩm cho chế tạo và tiêu dùng khác, trong đó có Việt Nam…
Thế giới đang ở tình thế đối phó bị động trước cuộc
khủng khoảng kép này. Ngoài ra, chế độ chuyên quyền Trung Quốc đang khiến nhiều
quốc gia, đặc biệt là Mỹ và Liên hiệp châu Âu hoạch định chính sách giảm lệ
thuộc nguồn cung từ Trung Quốc hậu COVID-19.
Một tương lai thế giới bất định. Theo các nhà nghiên
cứu, trật tự cũ, toàn cầu hoá, vai trò cường quốc của Mỹ, các mối liên kết địa
chính trị, kinh tế… đang lung lay, nhưng trật tự mới như thế nào chưa thể hình
dung được một cách rõ ràng.
Mô hình Trung Quốc đã chuyển sang giai đoạn mới, chế
độ chuyên quyền là một thực tế nguy hiểm để noi theo. Việt Nam cần chiến lược
quyết đoán hơn để thoát Trung. Để cho Đại hội 13 mang ‘ý nghĩa lịch sử’, một sự
lựa chọn cải cách thể chế sao cho nguyện vọng toàn dân về chủ quyền biển đảo,
sự toàn vẹn lãnh thổ được phản ánh đậm nét, rõ ràng trong chính sách của đảng.
Phạm Quý Thọ gửi từ Hà Nội
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự
Do