Theo Bauxite Việt Nam
Ngô Nhân Dụng
Công ty
Dầu Khí Hải Dương Trung Quốc (viết tắt CNOOC) đã xâm nhập hải phận Việt
Nam khi đưa giàn khoan dầu tới khu vực mã số 981. Địa điểm này cách đảo
Lý Sơn 119 hải lý và cách phía Nam đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa
của Việt Nam khoảng 18 hải lý. Khi đưa giàn khoan tới, Cục Hải sự Trung
Quốc đã ra lệnh “cấm tất cả các loại phương tiện xâm nhập vào khu vực
HD 981 hoạt động trong bán kính một hải lý” từ ngày 2 tháng 5 đến 15
tháng 8-2014. Ngày Chủ Nhật 15 tháng Năm, 2014, Công ty Dầu Khí Việt Nam
(PetroVietnam) đã gửi thư phản đối CNOOC vì giàn khoan này đặt trong
“lô 143” thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 120 hải lý từ bờ
biển Việt Nam, theo luật lệ quốc tế.
Nhưng luật
lệ quốc tế là thứ ngôn ngữ mà các nhà lãnh đạo Bắc Kinh không hiểu. Vì
họ từ chối không muốn hiểu. Trong bức thư PetroVietnam còn nhắc nhở
“phương châm hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc”. Hợp tác
“chiến lược và lâu dài” đã được hai đảng Cộng sản đề cao với “bốn thứ
tốt” (láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt) và “16 chữ
vàng” (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng
tới tương lai). Nhưng khi muốn chiếm tài nguyên của nước láng giềng,
chính quyền Trung Quốc đã lờ đi, bất chấp những thứ “vàng” và “tốt” kia
không cần tính tới nữa, vì họ biết đó thực chất đều là “vàng” mã và
“tốt” dỏm, chẳng dùng được việc gì.
Cục
Hải sự Trung Quốc ra lệnh cấm ngay sau tin tức tuần trước Việt Nam đề
nghị giao thêm hai lô cho Công ty ONGC Videsh (OVL) của Ấn Độ thăm dò
dầu khí; chứng tỏ họ phản ứng rất nhanh. Cũng trong ngày Chủ Nhật 4
tháng Năm 2014, ông Lê Hải Bình, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam
đã chính thức phản đối mạnh mẽ, vì tất cả các hoạt động của người ngoại
quốc trong vòng 120 hải lý cách bờ biển Việt Nam mà không được cho phép
đều là “bất hợp pháp và vô giá trị”. Ngày Thứ Hai, phát ngôn của bộ
Ngoại giao Trung Quốc, bà Hoa Xuân Oánh (华春莹, Hua Chunying) đã trả lời
rằng, “Các hoạt động trên nằm hoàn toàn trong khu vực biển thuộc Quần
đảo Tây Sa của Trung Quốc” . Tây Sa là tên chính quyền Trung Quốc đặt
cho Quần đảo Hoàng Sa của nước ta, mà quân họ đã chiếm từ năm 1974 trước
khi cuộc nội chiến Việt Nam chấm dứt. Nghe giống như một cuộc đối thoại
giữa những người điếc, chị này không nghe anh kia nói cái gì.
Thái
độ “không nghe” này cũng diễn ra trong năm 2012, khi chính quyền Việt
Nam phản đối các vụ CNOOC gọi thầu khai thác tại những lô thuộc vùng
biển 120 hải lý của Việt Nam. Ông Vương Nghi Lâm (王宜林, Wang Yilin) Chủ tịch Công ty CNOOC (China National Offshore Oil Corp., 中国海洋石油公司)
làm như không nghe thấy gì hết; nhưng ông cũng trả lời, lớn tiếng nói
rằng các dự án khoan dầu lớn trong vùng biển sâu là “tài sản lưu động và
vũ khí chiến lược của nước tôi”. Đầu năm nay, chính quyền tỉnh Hải Nam
Trung Quốc lại ban lệnh cấm các thuyền đánh cá nước ngoài không được vào
vùng biển của họ nếu không được cho phép, đặc biệt là vùng biển quanh
Quần đảo Hoàng Sa. Cả vùng bị cấm này là nơi các ngư dân nước ta kiếm
sống, từ mấy ngàn năm nay. Việt Nam đã phản đối, nhưng không ai nghe
thấy, hoặc không ai hiểu. Trong cuộc đối thoại giữa hai nước, Trung Quốc
luôn luôn làm bộ điếc từ mấy chục năm qua, không nghe thấy lời than
khóc, phản đối, của những ngư dân Việt Nam bị đánh, cướp, và bắt cóc đòi
tiền chuộc.
Chính quyền Bắc Kinh không những
dùng chiến thuật “tai nghễnh ngãng” khi đối thoại với Việt Nam, mà còn
áp dụng với các nước khác. Năm 2012, họ đã chiếm vùng đá nổi trên biển
Scarborough Shoal của Philippines. Chính phủ Manila biết không thể chữa
cái tai của Bắc Kinh cho nên đã dùng luật pháp quốc tế. Và họ đã mở rộng
vấn đề ra ngoài cuộc tranh chấp giữa hai quốc gia, để các nước khác
trong vùng Đông Nam Á có thể tham dự. Ngày 30 tháng Ba năm 2014 họ đã
chính thức kiện Chính phủ Trung Quốc trước Tòa Tài phán Liên Hiệp Quốc ở
Den Haag (The Hague), Hà Lan. Đơn kiện này, cùng với hồ sơ dày 4000
trang, yêu cầu Tòa án xác định bản đồ “Đường Chín Đoạn” của Trung Quốc
vẽ trên vùng Biển Đông nước ta là không có giá trị pháp lý trong khuôn
khổ công ước của Liên Hiệp Quốc về vùng độc quyền kinh tế. Cho đến nay,
chính quyền Bắc Kinh vẫn làm như không nghe thấy đơn kiện này, nhưng
đánh tiếng rằng họ sẽ không tham dự các cuộc điều trần, mặc dù phải đóng
vai bị cáo.
“Cửu Đoạn Tuyến” đã được vẽ trong
bản đồ năm 1946, thời chính quyền Tưởng Giới Thạch còn cai trị lục địa;
lúc đầu vẽ mười một đoạn. Cộng sản Trung Quốc đã công bố lại bản đồ cũ,
coi tất cả vùng Biển Đông nước ta thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Vì vậy, họ
bị nhiều quốc gia Đông Nam Á phản đối, trong đó có Philippines, Việt
Nam, Brunei và Malaysia, vì vùng Sarawak phía Bắc đảo Borneo
thuộc Liên bang Malaysia. Gần đây, Indonesia cũng lên tiếng phản đối
Trung Quốc vì tàu chiến của họ xâm phạm hải phận Indonesia, cũng nằm
trong vòng Đường Chín Đoạn.
Đây là vùng biển
quan trọng bậc nhất, vì một nửa số hàng hóa chuyên chở trên biển khắp
thế giới đi qua Biển Đông nước ta. Con đường hàng hải này nối liền các
nước Á Đông với các thị trường ở châu Âu, Trung Đông, và châu Phi. Ngoài
ra, dưới đáy biển còn chứa nhiều dự trữ dầu và hơi đốt. Kinh tế Nhật
Bản, Trung Quốc, Nam Hàn, Đài Loan tùy thuộc việc chuyên chở nguyên
liệu, năng lượng, và bán hàng hóa qua con đường giao thông này.
Cho
nên, việc Philippines kiện Trung Quốc trước tòa án quốc tế là một biến
cố quan trọng. Theo các chuyên viên luật pháp thế giới thì khi ra trước
tòa án, “Cửu Đoạn Tuyến” của Trung Quốc sẽ bị bác bỏ, nếu tòa thụ lý hồ
sơ và xét xử – tòa có thể tuyên bố vấn đề không thuộc phạm vi trách
nhiệm của họ. Các nước Đông Nam Á nằm ven biển có thể ủng hộ quan điểm
của Philippines, trừ Chính phủ Việt Nam vẫn muốn đứng ngoài. Nhưng gần
đây, Chính phủ Mỹ đã góp một tiếng nói vào cuộc tranh chấp Đường Chín
Đoạn.
Từ trước đến nay, Chính phủ Mỹ vẫn chủ
trương họ không có ý kiến gì về vấn đề chủ quyền; nước nào làm chủ vùng
đảo và biển nào, kể cả mấy đảo Điếu Ngư Đài (Senkaku) mà Nhật Bản và
Trung Quốc đang tranh giành, Mỹ không theo ai cả, chỉ yêu cầu giải quyết
ôn hòa với nhau. Nhưng tháng trước, Daniel Russell, Thứ trưởng Ngoại
giao Mỹ mới lên tiếng yêu cầu Trung Quốc xác định rõ Đường Chín Đoạn
trên bản đồ của họ có ý nghĩa rõ ràng là thế nào, trong khuôn khổ luật
biển quốc tế.
Vì Trung Quốc chưa bao giờ xác
định ý nghĩa đích thực của Đường Chín Đoạn, đối với pháp luật, thì cần
phải nói rõ hơn về quan niệm chủ quyền của Bắc Kinh trên vùng biển này.
Đó là do Trung Quốc đã làm chủ các quần đảo trong vùng, vì thế nên làm
chủ cả vùng biển chung quanh, vẽ bởi Đường Chín Đoạn? Hay là Trung Quốc
muốn nói họ đã làm chủ vùng biển trong khuôn khổ Đường Chín Đoạn, cho
nên cũng làm chủ các hòn đảo trong đó?
Những lý
lẽ này quan trọng đối với pháp luật, nhưng chính quyền Bắc Kinh vẫn làm
như họ không nghe thấy! Điều họ hay dùng nhất là danh xưng Nam Hải,
nghĩa là Biển phía Nam Trung Quốc, được ghi trong các bản đồ thế giới,
viết tiếng Anh là South China Sea. Danh xưng này đã xuất hiện năm 1953,
trong một tập bản đồ do International Hydrographic Organization ở Monaco
ấn hành. Nhưng danh từ địa dư này không có nghĩa là Trung Quốc làm chủ
cả vùng biển. Gần đây chính quyền Obama nước Mỹ đã yêu cầu Trung Quốc
không nên thiết lập một Vùng Nhận diện Quốc phòng Hàng không (ADIZ, Air
Defense Identification Zone) trong vùng Biển Đông Nam Á. Khuyến cáo này
cho ngầm hiểu rằng họ không công nhận chủ quyền của Bắc Kinh trong vùng
Đường Chín Đoạn.
Tất cả những lời yêu cầu đó,
giới lãnh đạo Bắc Kinh làm như không nghe thấy. Trong khi đó, họ vẫn
tiếp tục gây khó khăn cho các nước khác, từ Nhật Bản đến Philippines,
Việt Nam. Họ ngăn cản tàu tiếp tế của Philippines không cho đến các hòn
đảo họ đòi chiếm; và mang giàn khoan dầu tới hải phận Việt Nam. Trong
cuộc tranh chấp mấy tảng đá nổi gọi là Điếu Ngư Đài mà người Nhật Bản
gọi là Senkaku, Bắc Kinh chỉ dám lớn tiếng mà không dám có hành động
nào. Vì mặc dù Nhật Bản chính thức không có quân đội mà chỉ có 58.000
quân “tự vệ” so với 2.300.000 quân Trung Quốc, nhưng nếu có chiến tranh,
chưa biết ai đã hơn ai. Vì cuộc chiến sẽ không diễn ra trên mặt đất.
Hải quân và không quân Nhật hơn hẳn Trung Quốc. Trong số 1.321 máy bay
của không quân Trung Quốc, chỉ có 502 chiếc có khả năng chiến đấu; số
còn lại là những máy bay Liên Xô chế tạo từ thời 1970. Trong số các tàu
ngầm, chỉ một nửa được chế tạo trong 20 năm gần đây. Chiếc hàng không
mẫu hạm Liêu Ninh mua lại là tàu Liên Xô chế tạo từ thập niên 1980,
không có khả năng chứa các máy bay đường xa, có thể bảo vệ bờ biển chứ
không thể đi xa tấn công. Còn Nhật Bản thì đã mua những tàu chiến và máy
bay tối tân của Mỹ, đang mua thêm những khu trục hạm với hỏa tiễn phòng
không, tàu ngầm, máy bay không người lái, và máy bay F-35 mới nhất của
Mỹ.
Trong khi đang gây sự với Nhật, Bắc Kinh lại
gây thêm rắc rối trong vùng biển Đông Nam Á, hoàn toàn đi ngược lại chủ
trương “thao quang dưỡng hối” của Đặng Tiểu Bình. Hậu quả là các nước
trong vùng Á Đông đã tìm cách liên kết với Mỹ nhiều hơn để tự bảo vệ.
Nhờ thế, Nhật Bản có thêm nhiều bạn, không bị cô lập trong cuộc tranh
chấp với Trung Quốc.
Trong thời gian tới, các
nước Đông Nam Á, đặc biệt là Philippines và Việt Nam sẽ phải trả đòn mỗi
khi Trung Quốc gây sự. Giải pháp quang minh chính đại nhất là đưa tất
cả các vấn đề tranh cãi ra tòa án quốc tế, được trọng tài xét xử. Một
giải pháp tốt cho cả vùng là giữ nguyên trạng, ai ở đâu cứ ở đó, vấn đề
chủ quyền giải quyết sau. Trong khi đó, các nước cùng khai thác các tài
nguyên trong vùng biển này, chia nhau theo tình trạng các hòn đảo họ
đang cai quản. Nhưng chính quyền Trung Cộng không chấp nhận giải pháp
này, vì họ không thể bỏ được tham vọng đế quốc, muốn một mình ăn cả! Họ
cũng không chịu chấp nhận cách giải quyết quốc tế, mà chỉ muốn xé lẻ các
nước Đông Nam Á để bàn song phương, dễ bắt nạt hơn. Khi Bắc Kinh không
chấp nhận cuộc chơi quang minh chính đại, thì tất cả các nước khác phải
sẵn sàng dùng các thủ đoạn và ngôn ngữ mà người Trung Hoa có thể hiểu
được.
Làm cách nào cho chính phủ Bắc Kinh chịu
nghe và hiểu rằng phải đối thoại với các nước Đông Nam Á? Chúng ta có
thể rút kinh nghiệm của một viên sĩ quan Pháp thời họ mới chiếm Việt
Nam. Đó là Joseph Galliéni.
Galliéni chỉ huy cả
vùng biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng ở nước ta, từ năm 1892 đến 1896, khi
còn đeo “lon” Đại tá. Trong thời gian đó, có những đoàn “thổ phỉ” bên
Tàu sang cướp bóc dân Việt. Những toán thổ phỉ này phần lớn là lính,
thêm nghề ăn cướp. Có lúc một toán quân Pháp ở Cao Bằng đánh nhau với
thổ phỉ, chạy lạc sang Tàu. Ngày 23 tháng Tám năm 1982, viên chỉ huy đồn
Phúc Hòa, gần Cao Bằng, cùng một toán quân 91 người bị thổ phỉ phục
kích, trong đó có 29 lính Lê dương, chỉ còn một đường thoát là vượt qua
biên giới. Họ đến một đồn binh nhà Thanh tên là “Bo Cup” xin tá túc qua
đêm. Viên chỉ huy đồn này tỏ vẻ ngần ngại, sau cũng chấp nhận cho vào.
Mấy phút sau, cửa đồn lại mở. Một toán lính Trung Hoa đồn trú đã quay
trở về. Mặt mũi và tay họ đều dính đầy thuốc súng; hai ba người tiến đến
gặp Trung úy Lê dương trong toán quân Pháp, tỏ vẻ ngạc nhiên tại sao
ông ta vẫn còn sống mà tới đây! Không những thế, họ còn ngỏ lời khen
ngợi viên Trung úy này là đánh nhau rất can đảm!
Galliéni
cũng luôn phải đi tiễu trừ thổ phỉ. Một hôm, ông ta sang bên kia biên
giới, gặp viên tướng nhà Thanh, yêu cầu ngăn cấm không cho lính sang “An
Nam” ăn cướp. Viên tướng Tàu này, trong sách gọi là Thống chế Sou, đáp:
“Tôi rất ân hận, tôi xin ông tha lỗi. Nhưng lính của tôi chúng nó vô kỷ
luật, không thể nào ngăn cấm được! Nếu ông bắt được đứa nào, tôi xin
ông, cứ việc bắn. Bắn, không cần đem ra xử làm gì!”.
Tất
nhiên, khó bắt được thổ phỉ, mà lúc đó nếu có bắt được kẻ nào thì cũng
bắn thôi. Galliéni đành chịu, nhưng sau một thời gian ngắn, ông ta đã
đổi cách đối thoại với người Trung Hoa. Galliéni đưa một toán quân Lê
dương lên đồn trú ở sát biên giới. Lê dương là đội lính tình nguyện
ngoại quốc trong quân đội Pháp, đủ các thứ quốc tịch, đông nhất là người
Đức. Họ được phép lâu lâu lại sang cướp phá mấy làng bên kia biên giới.
Cho đến một ngày viên tướng nhà Thanh phải sang than phiền với
Galliéni. Ông Đại tá Pháp bèn trả lời: “Tôi rất ân hận, tôi xin ông tha
lỗi. Nhưng lính của tôi toàn người ngoại quốc, chúng nó vô kỷ luật,
không thể nào ngăn cấm được! Nếu ông bắt được đứa nào, tôi xin ông, cứ
việc bắn. Bắn, không cần đem ra xử làm gì!”. Viên tướng Tàu khen ngợi
Galliéni: Ông đáng lẽ phải là người Tàu mới phải!
Joseph Galliéni đã dùng một thứ ngôn ngữ mà người Trung Hoa có thể hiểu được, vì không thể giả bộ lãng tai được nữa.
Không
biết Nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay liệu có học được cách đối thoại
của ông Đại tá người Pháp cuối thế kỷ XIX để nói chuyện với người “bạn
vàng” bài bây điếc đặc của mình, nhằm giải quyết một cách hiệu quả hơn
những vụ việc “lấn tới” trắng trợn của họ trên vùng biển Việt Nam ngày
một leo thang từ mấy năm nay hay không?
(Câu chuyện thứ nhất kể theo cuốn Operations militaires au Tonkin,
của Emmanuel Chabrol, Thiếu tá quân đội Pháp, nhà xuất bản Charles
Lavauzelle in năm 1896 tại Paris, Pháp. Chuyện Galliéni kể theo sách Extrême Orient của Claude Farrère, Flammarion in năm 1934 tại Paris. Cả hai chuyện được ghi lại trong cuốn Lịch sử Binh đoàn Lê dương (The French Foreign Legion), của Douglas Porch, Harper Perennial xuất bản năm 1991 tại New York, Mỹ, trang 243).
N.N.D.