Trước khi
gia nhập Hiệp định TPP, Việt Nam đã ký 11 Hiệp định tự do mậu dịch
khác. Trong lãnh vực nông nghiệp, nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
đã được hưởng mức thuế suất rất thấp hoặc miễn thuế khi nhập khẩu vào các thị
trường này. Do đó, dù có hay không có TPP thì cũng không còn nhiều khoảng
trống cho các mặt hàng nông sản Việt Nam tăng trưởng xuất khẩu.
Tuy nhiên,
Hiệp định TPP không đơn thuần là một Hiệp định thương mại thuần túy;
dựa trên nền tảng tự do mậu dịch, Hiệp định này còn là nhưng cam
kết chia sẻ các giá trị dân chủ, nhân quyền và pháp trị.
Dân chủ
hóa Việt Nam là một công cuộc vận động lâu dài. Bên cạnh một chiến
lược là đấu tranh bất bạo động đối với chế độ độc tài toàn trị,
nhằm cho mục tiêu tiến đến thiết lập một thể chế chính trị dân chủ
pháp trị tại Việt Nam – tiến trình vận động dân chủ hóa luôn cần
những điều chỉnh bổ sung thích ứng cho từng giai đoạn thời cuộc.
Thời điểm
Việt Nam sắp chính thức tham gia Hiệp định TPP là một thời điểm phù
hợp để xem xét những điều chỉnh bổ sung này. Quan tâm đến điều kiện
Dân sinh cần được xem là một chủ đề lớn trong giai đoạn hiện nay và
kéo dài trong nhiều năm tới. Đây cũng là thời điểm để công cuộc dân
chủ hóa Việt Nam chuyển sang cấp độ cao hơn: thay vì chỉ dựa vào các
cơ hội đẩy mạnh dân chủ hóa, thì cần tập trung vào hoạt động tự sáng
tạo ra các cơ hội.
Một chiến
lược trước hết phải xuất phát từ tư tưởng. Cũng nên nhắc lại rằng, nếu
chế độ Cộng sản Việt Nam thất bại vì một trong những nguyên nhân là
nhập khẩu một thứ lý luận chưa bao giờ được thực tiễn chứng minh, thì công
cuộc vận động dân chủ hóa cho Việt Nam hiện nay sẽ khó có những
bước phát triển mạnh nếu thiếu những cập nhật cần thiết trong lãnh
vực lý luận.
Người nông
dân Việt Nam cần làm những gì trước bối cảnh hội nhập quốc tế – qua
Hiệp định TPP – đang cần những nghiên cứu cấp thiết bổ sung về mặt
dân sinh cho các lý luận dân chủ. Cụ thể ở đây là những số phận của
21 triệu lao động, với các nhân sự liên quan đang cư trú trên địa bàn
nông thôn, chiếm 66,9% dân số Việt Nam. Hãy giúp người nông dân tự cứu
mình – thay vì trông đợi vào những chính sách của nhà cầm quyền
toàn trị.
1. Cần đổi mới về cách nghĩ
Khi đề cập
đến nông dân Việt Nam, người ta hay viện dẫn thành ngữ “lão nông tri
điền”. Nếu xem xét trong giai đoạn tự sản tự tiêu thì có lẽ thành
ngữ trên là đúng. Song ở thời hội nhập quốc tế đã nảy sinh các nghi
vấn: liệu là “lão nông” thì có “tri điền” hay không; hoặc để “tri
điền” thì nhất thiết phải là “lão nông” ? Bởi xét về trình độ
chuyên môn nông nghiệp, thì trong tổng số 21 triệu lao động nông nghiệp trên
cả nước hiện nay có tới 97,25% không được đào tạo nghề nghiệp, chỉ có 1,5% được
đào tạo trình độ sơ cấp; 1,23% có trình độ trung cấp và 0,21% trình độ cao
đẳng, đại học.
Hiện nay,
mọi thứ liên quan đến nông nghiệp không đơn giản chỉ là “nước, phân,
cần, giống”. Trước khi gieo hạt giống xuống đất, thì phải liệu chừng
sau khi thu hoạch loại nông sản này sẽ bán cho ai, có được giá hay
không ? Quả là rất khó khăn, nếu làm nông chỉ với kiến thức “tri
điền”.
Nên dù
muốn dù không, nông sản thực sự phải xem là hàng hóa trong nhận thức
của người nông dân. Việc tuân thủ những tiêu chuẩn về sản phẩm trở thành
một nguyên tắc sống còn trong quá trình làm nông nghiệp. Không thể
tiếp tục mãi tình trạng người trồng rau chỉ dám ăn cá, trong khi
người nuôi cá chỉ dám ăn thịt gà, người nuôi gà lại chỉ dám ăn rau…
Việc tham
gia Hiệp định TPP khiến người nông dân Việt Nam sẽ phải đối mặt quá trình
hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Ngoài kinh nghiệm về thời tiết,
canh nông người nông dân cần phải có những hiểu biết về hàm lượng thuốc
kháng sinh, thuốc tăng trưởng, những quy chuẩn về an toàn thực phẩm.
Trong hoàn
cảnh trình độ sản xuất và kỹ năng thị trường ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn
còn đi sau so với 11 nước còn lại, người nông dân cần phải xem lại cung
cách làm ăn khá phổ biến hiện nay. Làm nông cần hiểu là một nghề
nghiệp, do đó người nông dân Việt Nam thời hiện đại sẽ là người “Nông
dân chuyên nghiệp”, chứ không phải là người “Nông dân gia truyền”. Thế giới
đang tiến đến giai đoạn cần phải sản xuất nhiều hơn trong điều kiện tài nguyên
ít hơn, điều đó đòi hỏi sự chính xác cao trong nông nghiệp; hay nói cách khác
chính là làm nông nghiệp theo công nghệ mới.
2. Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp
đích thực nên được xem là mô hình các tổ chức xã hội dân sự cần
phát triển ở nông thôn.
Diện tích
đất canh tác của các nông hộ đang trong tình trạng nhỏ vụn; trong gần
12 triệu hộ sản xuất nông nghiệp, thì 80% trong số đó có diện tích canh tác
dưới 1ha/hộ.
Hiện tại,
người nông dân Việt Nam muốn đổi đời thì phải thấy rằng: các dự
tính cho mảnh ruộng sau nhà luôn cần những liên kết láng giềng. Hình
thức canh tác đơn lẻ và tự phát không thể tương thích với nền kinh tế
thị trường và hội nhập hiện nay.
Qua mô hình
HTX nông nghiệp, các nông hộ sẽ xây dựng được những liên kết chặt
chẽ. Trong mô hình HTX này: tài sản, vốn liếng, đất đai vẫn là thuộc về các
thành viên. Các HTX nông nghiệp này sẽ vận hành theo nguyên tắc chung:
cái gì HTX làm có lợi hơn là thành viên tự làm, hoặc không thể làm được thì
HTX mới làm.
Mô hình HTX
nông nghiệp được tổ chức hợp lý rất khác với kiểu HTX theo mô hình
XHCN trước đây. Lúc đó, nông dân làm công cho nhà nước là những công nhân nông
nghiệp, làm đền đâu được nhà nước trả công đến đó. Giờ đây, nông dân tự góp vốn
vào HTX; giờ đây chỉ có quan hệ giữa HTX và xã viên, không còn tồn tại kinh tế
nông hộ, đồng thời các nông dân xã viên làm chủ HTX của mình.
Nền tảng
của HTX nông nghiệp là sự liên kết giữa các nông hộ. Mục tiêu phát triển
của HTX đúng nghĩa sẽ lấy thu nhập của thành viên làm cốt lõi, khác mô
hình HTX XHCN hay một doanh nghiệp bình thường: lấy lợi nhuận cho tổ
chức thành lập làm mục tiêu phát triển.
Có thể
hiểu các HTX nông nghiệp không đơn thuần là tổ chức kinh tế của nông
dân – mà đây còn là mô hình các tổ chức xã hội dân sự ở nông thôn,
có chức năng giữ sự phát triển ổn định cho đời sống của người nông
dân và nông thôn – một khi các định chế toàn trị ngày càng trở nên vô tích
sự.
Trong khi
cuộc vận động xây dựng công đoàn độc lập trong lãnh vực công nghiệp
đang gặp nhiều khó khăn vì những cản trở từ phía nhà cầm quyền –
thì việc thành lập các HTX nông nghiệp đang có nhiều thuận lợi hơn.
Các HTX sản xuất nông sản an toàn đã xuất hiện nhiều nơi trên địa
bàn cả nước. Một hành lang pháp lý tối thiểu cho việc thành lập
các hợp tác xã nông nghiệp đã có. Trong 5 năm qua, hầu hết các HTX thành
lập ở Hà Tĩnh miền Trung chỉ với 7-20 xã viên. Ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long, các HTX nông nghiệp bình quân lên đến vài chục thành viên đã xuất
hiện tại An Giang, Vĩnh Long…
TPP được
đánh giá là hiệp định của thế kỷ 21; về phạm vi, hiệp định TPP không thuần
túy là một Hiệp định thương mại – vì Hiệp định này còn đề cập đến
các vấn đề phi thương mại như hoạt động mua sắm của chính phủ, môi trường,
tiêu chuẩn lao động, công đoàn…
Qua việc
siết chặt quan hệ thương mại với các quốc gia châu Á-Thái Bình Dương, những giá
trị như tự do dân chủ, nhân quyền và pháp trị được chia sẻ nhiều hơn. Khác
với nhiều hiệp định tự do mậu dịch trước đây, Hiệp định TPP yêu cầu cải
cách về thể chế. Khi Việt Nam cải cách sang một hệ thống thị trường đầy đủ
hơn, minh bạch hơn thì lợi ích của một số nhóm lợi ích hiện nay chắc chắn sẽ
bị kiểm soát nhiều hơn.
Đây chính là
điều kiện cho phép các hoạt động nông nghiệp nhận được những thuận lợi cơ
bản và lâu dài trong tương lai. Trước khi được sống trong văn hóa chính trị
dân chủ – người dân sẽ có cơ hội được tiếp cận một nền kinh tế thị
trường thực sự, Hiệp định TPP góp phần cắt đứt cái đuôi “theo định
hướng XHCN”.
Nền nông
nghiệp Việt Nam đón Hiệp định TPP như đối mặt một con sóng lớn. Chắc
chắn con sóng này sẽ làm con tàu nông nghiệp Việt Nam lắc lư; nhưng
nếu mỗi nông hộ có những điều chỉnh về cách nghĩ và cách làm thích
hợp, TPP sẽ trở thành một vận hội giúp con tàu nông nghiệp Việt Nam
có ngày ra biển lớn.
Huỳnh Việt
Lang
(Ngày
29/11/2015)
Nguồn: Theo Chuyển Hóa Việt Nam