Nguyễn Minh Nhị
Thứ Tư, 1/8/2018, 07:11
Nông nghiệp công nghệ cao( NNCNC) tự nó không giải quyết được toàn bộ vấn
đề giá thành, không làm tăng tính cạnh tranh và niềm tin xã hội - khách hàng
đối với chất lượng cao của nó, đặc biệt là không giải quyết được những bất
cập trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh nói chung. NNCNC phải do
doanh nghiệp tư nhân trực tiếp tổ chức sản xuất hoặc hướng dẫn chủ trang
trại, nông dân các HTX làm theo quy trình kỹ thuật cụ thể, có hợp đồng pháp
lý hẳn hoi. Nông dân không thể “tự sản tự tiêu” với sản lượng lớn theo kiểu
mùa vụ, hoặc giao thương với “lái lạ” nhiều may rủi như lâu nay. Nhà nước chỉ
tạo hành lang pháp lý, chế tài luật pháp, tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa
học công nghệ có trọng tâm, trọng điểm; xây dựng hạ tầng giao thông,
logistics thông thoáng; xây dựng nền giáo dục theo hướng thực dụng hơn; dùng
quyền năng của Nhà nước để trừng trị gian thương và cán bộ tham nhũng giúp
thị trường trong sạch vững mạnh là nông nghiệp đủ sức cạnh tranh.
Gặt lúa bằng máy ở ĐBSCL. Ảnh: Hoàng Kim. |
- Từ những năm đầu thế kỷ 21, thế giới hay dùng khái niệm nông nghiệp
công nghệ cao (NNCNC), điển hình là những mô hình canh tác của Israel, các
nước Âu - Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc. Ngày 4-5-2017, Thủ tướng Chính phủ có Chỉ
thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công
nghiệp (CMCN) lần thứ tư (4.0).
Nhiều người, nhiều
đoàn Việt Nam đã đến Israel và một số nước tham quan, học tập. Có địa
phương ban hành chỉ thị hẳn hoi về chủ trương phát triển NNCNC. Ngôn từ
“Cách mạng công nghiệp lần 4”, “công nghiệp 4.0”, “NNCNC” xuất hiện ngày
càng dày hơn trên truyền thông và các văn bản nhà nước. Có nhiều người hy
vọng áp dụng sản xuất NNCNC sẽ khắc phục được mọi trì trệ trong sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm, không còn tái diễn tình cảnh giải cứu nông sản. Khi
tuyên truyền về NNCNC thường kèm với hình ảnh nhà màng, nhà lưới, dưa lưới,
tưới nhỏ giọt - tiết kiệm nước... Vậy nông nghiệp ĐBSCL đang gặp trục trặc
gì mà phải giải cứu bằng áp dụng công nghệ cao?
Hết giải cứu bằng
Đổi mới, rồi sẽ bằng công nghệ cao?
Hơn 40 năm qua, nông
dân - nông nghiệp ĐBSCL đã hơn một lần phải giải cứu đó là vào năm 1986,
sau Đại hội VI của Đảng, gọi là Đổi mới hay nói như tinh thần bài này là
giải cứu cơ chế, thuộc phạm trù quan hệ sản xuất. Sự thật là do ta tự trói
mình trong cơ chế kế hoạch hóa - tập trung - quan liêu - bao cấp, khiến một
vùng vốn từng là vựa lúa xứ Đông Dương thời thuộc Pháp, trở thành thiếu ăn,
dân đói, xã hội đứng trước nguy cơ mất ổn định. Vì vậy nhu cầu cấp thiết là
phải tự cắt bỏ dây trói, tự giải cứu, sản xuất lưu thông trở lại bình
thường như trước 1975. Nhờ đó, tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1986-1996 hết
sức ấn tượng và không chỉ trong nông nghiệp.
Cũng nhờ giải cứu cơ
chế, nông dân có quyền sử dụng đất lâu dài, quyền chủ động sản xuất, tự do
bán sản phẩm, tiếp cận vốn ngân hàng; cùng với các chương trình khuyến
nông, nông dân sản xuất giỏi, áp dụng giống mới... đến thập niên đầu thế kỷ
21 sản xuất gần như được cơ giới hóa, điện khí hóa, hóa học và sinh học
hóa. Một sự tương tác rất rõ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Năm 1988, khi chương
trình khai thác Đồng Tháp Mười và tứ giác Long Xuyên của Chính phủ được
triển khai, thì đến năm 1995 tổng sản lượng lúa tại 13 tỉnh thành ĐBSCL đã
tăng vọt, đạt gần 13 triệu tấn, năm 2015 lên 25,7 triệu, chiếm 57,11% cả
nước.
Trước tình cảnh đau
đầu vì lúa ế, có người than: “Thà đói hơn ăn no mà không tiêu” là ngữ cảnh
này. Con cá ba sa, cá tra cũng từng xuất khẩu thu về gần 2 tỉ đô la Mỹ hàng
năm nhưng số phận cũng “phập phều” như cây lúa. Trái cây, rau, dưa, củ,
quả... cũng là thế mạnh của đồng bằng nhưng cũng hay phải bỏ, không thu
hoạch hoặc cho bò ăn. Việc sử dụng, đa phần là bừa bãi, các loại phân hóa
học và thuốc bảo vệ thực vật độc hại được nhập khẩu, khó kiểm soát gây mất
niềm tin an toàn thực phẩm ngày càng nghiêm trọng. Vườn rau mini của gia
đình lại trở thành “biểu tượng” của niềm tin chất lượng thực phẩm sạch.
Như vậy, vấn đề ở đây không
đơn thuần là năng lực của lực lượng sản xuất mà là chất lượng làm chủ sản
xuất, bao gồm cơ chế - thể chế và văn hóa kinh doanh, thuộc phạm trù quan
hệ sản xuất. Cho dù có quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy nhau cùng phát
triển, nhưng nếu lấy lực lượng sản xuất thay cho quan hệ sản xuất là không
ổn.
Theo định nghĩa phổ
thông hiện nay thì “nông nghiệp công nghệ cao là một nền nông nghiệp được
ứng dụng kết hợp những công nghệ mới, tiên tiến để sản xuất, còn gọi là
công nghệ cao nhằm nâng cao hiệu quả, tạo bước đột phá về năng suất, chất
lượng nông sản, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hội và đảm bảo sự
phát triển nông nghiệp bền vững”. Vậy NNCNC thuộc phạm trù lực lượng sản
xuất - văn minh kinh tế, nhiều nước tiên tiến và một số nơi ở Việt Nam đã
làm, không có gì mới, và nó hoàn toàn không thay được vai trò của quan hệ
sản xuất đang bức bách hiện nay.
NNCNC là cốt lõi của
nông nghiệp hiện đại, là cái bên trong chiếc thuyền chớ không phải là chiếc
thuyền (thiết chế) đưa nông sản đi dự hội chợ. Ở các nước có thị trường tự
do, có văn minh kinh tế, họ không nói nhưng sự liên kết giữa nhà nước, nhà
khoa học, doanh nghiệp và nông dân là tự nhiên, tôn trọng đầy đủ các quy
luật kinh tế thị trường, làm tăng chuỗi giá trị sản xuất, tạo được niềm tin
và ổn định thị trường, kể cả thị trường ngoài nước.
Ở ta, thị trường còn
nhiều nét đặc thù nên hội nhập thị trường thế giới rất khó khăn mà ngành
ngoại thương đang nỗ lực vận động để được công nhận “có kinh tế thị
trường đầy đủ”. Ngay như với thị trường Trung Quốc, so với ta có nhiều tương đồng,
nếu không nói giống nhau về thể chế - cơ chế và cung cách vận hành, mà còn chưa
thông suốt và cũng không ổn định nữa là. Vậy tại sao?
Đâu là cách làm của
Việt Nam?
Mỗi giai đoạn phát
triển kinh tế - xã hội bao giờ cũng có nhân vật - thành phần trung tâm chi
phối. Trong chế độ phong kiến, có một thời gian dài thành phần địa chủ có
vai trò nhất định. Trong cách mạng dân tộc - dân chủ có vai trò
công-nông-trí thức. Trong kinh tế thị trường có vai trò tư sản dân tộc. Nhà
nước quản lý kinh tế bằng pháp luật và chế tài luật pháp chớ không trực
tiếp làm kinh tế như ta lâu nay. Ta đang làm kinh tế thị trường, hội nhập
quốc tế nhưng thành phần kinh tế tư nhân đang thiếu và rất yếu nên hội nhập
rất khó khăn, hệ thống chính trị nhà nước quá đông, tưởng mạnh nhưng thật
ra là không đáp ứng được yêu cầu.
Cụ thể như Luật Đất
đai 2003 phải có đến 700 văn bản pháp quy hướng dẫn mà nông dân và doanh
nghiệp vẫn còn vướng, chưa an tâm. Luật Đất đai 2013 cũng đang tồn tại
những vấn đề cốt lõi về sở hữu và quyền định đoạt giá trị đất đai của chủ
sử dụng theo cơ chế thị trường. Bộ Công Thương đi tiên phong đã cắt giảm và
đơn giản hóa tới 306 thủ tục (trong đó cắt giảm 64 thủ tục, đơn giản hóa
242 thủ tục) trong tổng số 891 thủ tục của bộ tại thời điểm 2016-2017, vậy
mà sản xuất và thị trường vẫn chưa chuyển động đáng kể. Còn bao nhiêu rào
cản tương tự ở các bộ ngành khác, đang xiềng xích thị trường, vẫn chưa được
tháo gỡ.
Hệ thống chính trị
nhà nước đông, nhiều tầng nấc đến mức chồng chéo chức năng, giẫm đạp nhiệm
vụ lẫn nhau, kém hiệu lực, hiệu quả. Ngân sách không kham nổi chi thường
xuyên đồng nghĩa với việc làm giá thành dịch vụ hành chánh công ở ta vào
hàng cao nhất so với nhiều nước khiến cho sản xuất kém tính cạnh tranh. Rồi
cơ sở hạ tầng giao thông - logistics kém cũng “góp phần” làm cho giá thành
và chất lượng nông sản của ta không cạnh tranh nổi với Thái Lan. Tất cả như
góp vào, làm cho thị trường không được tự do, trong khi ta lại đang cố gắng
hội nhập vào thị trường tự do. Vì vậy, thua là cái chắc. NNCNC tự nó không
giải quyết được toàn bộ vấn đề giá thành, không làm tăng tính cạnh tranh và
niềm tin xã hội - khách hàng đối với chất lượng cao của nó, đặc biệt là
không giải quyết được những bất cập trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh
doanh nói chung.
NNCNC phải do doanh
nghiệp tư nhân trực tiếp tổ chức sản xuất hoặc hướng dẫn chủ trang trại,
nông dân các HTX làm theo quy trình kỹ thuật cụ thể, có hợp đồng pháp lý
hẳn hoi. Nông dân không thể “tự sản tự tiêu” với sản lượng lớn theo kiểu
mùa vụ, hoặc giao thương với “lái lạ” nhiều may rủi như lâu nay. Nhà nước
chỉ tạo hành lang pháp lý, chế tài luật pháp, tổ chức nghiên cứu, ứng dụng
khoa học công nghệ có trọng tâm, trọng điểm; xây dựng hạ tầng giao thông,
logistics thông thoáng; xây dựng nền giáo dục theo hướng thực dụng hơn;
dùng quyền năng của Nhà nước để trừng trị gian thương và cán bộ tham nhũng giúp
thị trường trong sạch vững mạnh là nông nghiệp đủ sức cạnh tranh.
Mặt khác phải bỏ
cách tập trung vào xuất khẩu như lâu nay để đi nhập nông sản Thái, Mỹ, Tàu,
Tây... về ăn. Đó mới là cách giải cứu kinh tế nói chung, cho nông nghiệp
ĐBSCL nói riêng trong tình hình hiện nay.