1. Thưa ông, Trung Quốc vừa gửi công
hàm lên LHQ bác bỏ công hàm trước đó của Việt Nam. Trong công hàm này, Trung
Quốc có nhắc đến công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng 1958. Theo ông, tính
pháp lý của công hàm 1958 thế nào đặt trong bối cảnh lúc bấy giờ và theo luật
pháp quốc tế?
Thưa chị, việc Trung Quốc gửi
công hàm 17/4/2020 cho Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa, gửi đến TBT LHQ và yêu cầu
chuyển đến các quốc gia thành viên của LHQ, trong công hàm có nhắc đền công hàm
Phạm Văn Đồng, là một sự leo thang trong cuộc tranh biện về Hoàng Sa, Trường Sa
và Biển Đông. Tuy Trung Quốc đã vận dụng công hàm Phạm Văn Đồng từ lâu, nhưng
đây là lần đầu tiên họ làm như thế, chứng tỏ họ rất tự tin về lập luận của họ,
và động thái đó là nhằm dồn Việt Nam vào chân tường trong cuộc tranh biện trên
đấu trường chính trị.
Trước hết, có thể khẳng định rằng
vào năm 1958 không có một nước Việt Nam thống nhất như bây giờ, và lúc đó chính
phủ VNDCCH không được thế giới nói chung cho là có thẩm quyền đối với phía nam
vĩ tuyến 17, không được thế giới nói chung cho là có trách nhiệm pháp lý phải
khẳng định chủ quyền lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17. Do đó, những gì Thủ tướng
Phạm Văn Đồng của chính phủ đó, hay những người khác có chức năng, phát biểu
hay không phát biểu vào lúc đó đều không có giá trị pháp lý để thay đổi về chủ
quyền lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17 vào lúc đó.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải
quan tâm đến khía cạnh động thái đó và các động thái tương tự của chính phủ đó
có ý nghĩa pháp lý gì khi VNDCCH và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thống nhất thành
CHXHCNVN năm 1976.
Theo tôi, khi VNDCCH và Cộng hòa
Miền Nam Việt Nam thống nhất thành CHXHCNVN năm 1976 thì Cộng hòa Miền Nam Việt
Nam hoàn toàn có chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Song song, trong trường
hợp tệ nhất VNDCCH có thể bị các học thuyết như estoppel và acquiescence ràng
buộc không được tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo đó với Trung Quốc. Như vậy,
trong trường hợp tệ nhất CHXHCNVN sẽ phải thừa kế hai yếu tố có mâu thuẫn với
nhau và có lẽ chỉ có tòa án quốc tế mới có thể giải quyết sự mâu thuẫn đó.
Theo ý tôi, VNDCCH cũng đã không
phản đối khi Philippines đòi chủ quyền ở Trường Sa, khi Campuchia, Thái Lan,
Malaysia đòi thềm lục địa, khi Campuchia đòi đảo và lãnh thổ. Thậm chí, VNDCCH
còn có những tuyên bố có lợi cho Campuchia. Thế nhưng không có nước nào hay học
giả nào công khai cho rằng hành vi của VNDCCH ràng buộc CHXHCNVN phải chấp nhận
các yêu sách của các nước kia. Trong đàm phán với các nước này, CHXHCNVN đã vận
dụng các yêu sách của VNCH, và không có nước nào hay học giả nào công khai cho
rằng CHXHCNVN không có quyền vận dụng các yêu sách đó.
2. Công hàm năm 1958 của cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng có đồng nghĩa với việc thừa nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ
quyền của Trung Quốc hay không?
Theo ý tôi điều quan trọng là
vào năm 1958 đó chính phủ VNDCCH không được thế giới nói chung cho là có thẩm
quyền đối với phía nam vĩ tuyến 17, không được thế giới nói chung cho là có
trách nhiệm đối với vấn đề chủ quyền lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17. Vì vừa
không có thẩm quyền, vừa không có trách nhiệm pháp lý phải khẳng định chủ quyền,
và công hàm đó không phải là để trả lời Trung Quốc về chủ quyền đối với Hoàng
Sa, Trường Sa thì cũng không hội tụ được các điều kiện của estoppel để ràng buộc
VNDCCH.
3. Theo ông, liệu Việt Nam có vô hiệu
hóa được công hàm 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không? Và bằng cách nào?
Trong phạm trù pháp lý, vấn đề
là chứng minh công hàm Phạm Văn Đồng có hiệu lực gì hay không khi nó ra đời
và khi VNDCCH và CHMNVN thống nhất lại thành CHXHCNVN năm 1976. Nếu chứng minh
được nó không có hiệu lực ràng buộc CHXHCNVN thì không có gì để vô hiệu hóa.
Ngược lại nếu Trung Quốc chứng minh được nó có hiệu lực ràng buộc CHXHCNVN thì
Việt Nam không thể đơn phương vô hiệu hóa nó.
4. Nếu không vô hiệu hóa được công hàm 1958, Việt Nam sẽ gặp
những khó khăn gì khi kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế?
Như tôi nói trên, vấn đề không phải là vô hiệu hóa
công hàm Phạm Văn Đồng mà là nếu ra tòa thì phải chứng minh:
• Thứ nhất, khi nó ra đời, nó không có hiệu lực để thay đổi
về chủ quyền lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17.
• Thứ nhì, nó không hội tụ đủ các điều kiện của hoc thuyết
estoppel để tạo ra sự ràng buộc pháp lý cho VNDCCH.
• Thứ ba, chứng minh khi VNDCCH và CHMNVN thống nhất
lại thành CHXHCNVN năm 1976 thì CHXHCNVN đã thừa kế chủ quyền đối với vùng lãnh
thổ phía nam vĩ tuyến 17, trong đó có Hoàng Sa, Trường Sa. Dù lúc đó Hoàng Sa
có bị Trung Quốc chiếm đóng thì trên diện pháp lý CHXHCNVN vẫn có thể thừa kế
chủ quyền.
• Thứ tư, nếu không chứng minh được điều thứ nhì, phải
chứng minh rằng dù VNDCCH có bị ràng buộc không được khẳng định chủ quyền đối
với Hoàng Sa, Trường Sa trước Trung Quốc đi nữa, CHXHCNVN vẫn được làm điều
đó.
5. Thưa ông, vì sao Trung Quốc lại đưa công hàm lên LHQ vào
thời điểm dịch Covid-19 này? Phải chăng Trung Quốc đang lợi dụng tình hình dịch
bệnh để đẩy mạnh yêu sách trên Biển Đông?
Tình hình thế giới trong COVID-19 cho Trung Quốc một
thời cơ tốt để lấn lướt, thậm chí lấn chiếm, ở Biển Đông. Việc họ gửi công hàm
cho Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa thì chỉ là hệ quả của việc Malaysia đệ trình
về ranh giới ngoài của thềm lục địa vào tháng 12/2019. Tuy nhiên việc họ đưa
công hàm Phạm Văn Đồng vào vấn đề là điều đáng suy nghĩ. Đó có phải là một sư
leo thang tranh biện bình thường? Hay họ dồn Việt Nam vào chân tường để Việt
Nam phải lộ ra phần nào lập luận pháp lý của mình? Hay họ dọn đường dư luận cho
động thái kế tiếp nào đó?
6. Với tình hình căng sức chống dịch như chống giặc hiện
nay, Việt Nam có lợi thế và bất lợi gì trong cuộc chiến với Trung Quốc về vấn
đề Biển Đông?
Theo tôi, từ khi tình hình Biển Đông nóng lên từ năm
2007, 2008 tới nay, chưa có khi nào bất lợi và nguy hiểm cho Việt Nam như hiện
nay.