Bộ Chính trị đang thúc ép Quốc hội hợp thức hóa để cho thuê 3 Đặc khu nhằm đi đêm với Trung Quốc. Chúng tôi nghĩ cũng là lúc, chúng ta cần nhấn mạnh lại âm mưu của bọn cõng rắn cắn gà nhà trước công chúng.
Chính phủ Việt Nam đã trình dự thảo
“Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc”
(Luật Đặc khu) để Quốc Hội thảo luận và thông qua trong kỳ họp thứ V, Quốc hội
khoá XIV, từ ngày 21-5-2018 đến 15-6-2018. Do sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân,
ngày 11-6-2018 Quốc hội đã quyết định lùi thời gian xem xét thông qua dự án luật
này sang kỳ họp thứ VI, dự kiến vào tháng 10-2018.
Ngày 10-7-2018, Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc, trưởng ban chỉ đạo quốc gia về xây dựng các đơn vị hành chính-kinh tế
đặc biệt, đã nói “xin ý kiến rộng rãi nhà khoa học, nhân dân về đặc khu kinh tế”.
Cho đến nay chưa rõ việc “xin ý kiến rộng rãi” sẽ diễn ra thế nào.
Theo kế hoạch, Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội dự kiến họp
trong tháng 8-2018 sẽ bàn tiếp về Luật Đặc khu để chuẩn bị cho kỳ họp thứ VI.
Báo chí đưa tin đã có một tài liệu phục vụ cho việc tiếp xúc cử tri sau kỳ họp
thứ V; tài liệu đó đã nêu một số vấn đề trong dự thảo luật mà người dân phản đối
và đưa ra các lập luận bác bỏ những sự phản đối đó, tức là nhằm biện minh cho dự
thảo luật. Tuy nhiên, cho đến nay (6-8-2018) các chuyên gia và đông đảo nhân
dân tiếp tục phản đối và yêu cầu huỷ dự án luật này.
Ngày 4-8-2018 báo chí tưởng thuật rằng
trong phiên họp từ 8-8 đến 13-8-2018 Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội chưa xem xét luật đặc khu.
Dự luật Đặc khu đã được trình hay sẽ
được sửa đổi vẫn phải nhằm đạt mục đích được nêu trong Nghị quyết số 11-NQ/TW
ngày 3-6-2017 của Đảng Cộng sản
Việt Nam về “xây dựng một số đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt với thể chế
vượt trội để tạo cực tăng trưởng và thử nghiệm đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ
máy thuộc hệ thống chính trị”.
Chúng tôi phản đối dự luật đặc khu
vì một số lý do sau đây:
1) Trong
hai mục tiêu nêu trên của Nghị quyết số 11-NQ/TW thì mục tiêu “với quy chế vượt
trội để tạo cực tăng trưởng” cho đất nước là không thể đạt được nếu chỉ thực hiện
tại vài đặc khu có quy mô dưới cấp tỉnh lớn, như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội
hay Đà Nẵng; còn mục tiêu “thử nghiệm đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy thuộc
hệ thống chính trị” với “thể chế vượt trội” cũng không thể thực hiện được nếu
không có sự thay đổi thể chế chính trị ở tầm quốc gia. Nói cách khác cả hai mục
tiêu là bất khả thi nếu không có sự thay đổi thể chế đồng bộ ở cấp quốc gia
theo hướng dân chủ, pháp trị và cai quản (governance) tiên tiến. Nếu có sự thay đổi như vậy,
tức là biến cả nước thành “đặc khu” (một việc mà chúng tôi hết sức ủng hộ), thì luật về đặc khu chẳng còn ý nghĩa gì.
2) Một
mục tiêu khác của dự luật (theo Tờ trình của Chính phủ số 411 cho Quốc hội, tr. 4-5) là “Tạo ra môi trường đầu tư kinh
doanh đặc biệt thuận lợi cho khởi nghiệp sáng tạo, nghiên cứu và phát triển
(R&D), các ngành khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới, công nghệ cao công nghệ
sinh học;…” chỉ có thể thực hiện được ở
các trung tâm đô thị lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Cần Thơ chẳng hạn. Nhưng hãy
xem xét thật nghiêm túc tình hình của các khu công nghệ cao Hoà Lạc (được thành
lập từ 1998 và 20 năm sau vẫn chưa đâu ra đâu: đến 2016 chỉ thu hút được 78 dự
án với vốn đăng ký 60 ngàn tỷ đồng và nhiều dự án đã không thể triển khai và phải
thu hồi giấy phép đầu tư của 17 dự án và nhiều dự án khác đang chậm tiến độ sắp
bị thu hồi giấy phép), Khu Công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh (SHTP, thành lập
năm 2002) có lẽ “thành công” hơn cả đạt gần 3,4 tỷ USD vốn giải ngân trong 16
năm hoạt động (với 1 tỷ USD của Intel Products và 1 tỷ USD của Nidec, ngoài ra là vốn giải ngân của
các công ty khác) và các doanh
nghiệp tại SHTP nộp ngân sách năm 2017 gần 118 triệu USD, mức xuất khẩu từ SHTP
hơn 10 tỷ USD, nhưng SHTP vẫn chưa được như kỳ vọng sau 16 năm hoạt động. Đó là
chưa kể đến sự èo uột của nhiều khu công nghệ cao ở các nơi khác. Chưa rút kinh
nghiệm để cải thiện các khu công nghệ cao như vậy, thì hỏi làm thế nào để thu
hút đầu tư công nghệ cao, cho khoa học, kỹ thuật, nghiên cứu & phát triển ở
các “đặc khu” xa các trung tâm văn hoá, khoa học kỹ thuật này? Mục tiêu này là
hoàn toàn không có cơ sở và không thể khả thi ở các đặc khu đó.
3) Mục
tiêu tiếp theo (Tờ trình của Chính phủ số 411 cho Quốc hội, tr.5) là “Từ thực
tiễn phát triển của các đơn vị Hành chính Kinh tế Đặc biệt có thể nhân rộng
trong cả nước những thể chế, chính sách và mô hình quản lý mới, hiệu lực, hiệu
quả” chắc chắn sẽ thất bại vì những phân tích 1) và 2) ở trên.
4) Nền
kinh tế Việt Nam đã hội nhập rất sâu (nếu tính bằng tỷ lệ xuất nhập khẩu trên
GDP thì Việt Nam thuộc các nước hội nhập sâu nhất) vào nền kinh tế thế giới. Cần
cải cách thể chế sâu rộng ở quy mô toàn quốc chứ không phải “thử nghiệm” ở vài
“đặc khu nhỏ”, nói cách khác mô hình đặc khu không còn phù hợp với Việt Nam
ngày nay.
5) Thế
thì tại sao người ta vẫn khăng khăng cố làm các “đặc khu”? Có những dấu hiệu
khó chối cãi về sự câu kết giữa các doanh nghiệp cánh hẩu (nhất là các doanh
nghiệp bất động sản) và chính quyền hay một số người của chính quyền trong việc
đổ xô chia chác đất và các dự án “đón lõng đặc khu” để trục lợi tại Vân Đồn,
Phú Quốc và phần nào ở Bắc Vân Phong. Có
sự giống nhau khó chối cãi của sự câu kết như vậy khi người ta nhất quyết sáp
nhập Hà Tây và vài xã Hoà Bình vào Hà Nội 10 năm trước đây.
6) Tuy dùng từ ngữ rất hào nhoáng (thể
chế vượt trội, công nghiệp 4.0, công nghệ cao, vân vân), nói là "Tạo ra
môi trường đầu tư kinh doanh đặc biệt thuận lợi” cho “dịch vụ, du lịch nghỉ đưỡng
cao cấp, công nghiệp văn hoá, dịch vụ hậu cần cảng biển và sân bay,…” (Tờ trình của Chính phủ số 411 cho Quốc hội,
tr. 5) nhưng thực ra chỉ là để hợp thức hoá sự câu kết nêu ở điểm 5) ở trên và
sẽ chỉ tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, casino (mà có lẽ là “công
nghiệp văn hoá”?), khách sạn, sân bay… đang được hối hả xây dựng để được hưởng
các mức ưu đãi đặc biệt.
7) Vân
Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc đều là các nơi rất nhạy cảm về an ninh quốc phòng và với việc biến các đặc
khu này thành các khu đặc lợi rất có thể tạo khuyến khích cho việc gây ra những
nguy cơ khôn lường đối với an ninh quốc gia.
Còn có thể nêu ra các lý do khác
cho việc phản đối luật đặc khu.
Vì các lý do nêu trên, chúng tôi
yêu cầu:
1) Chính
phủ huỷ bỏ, không trình dự luật đặc khu dù dưới dạng đã được trình hay sẽ được
sửa đổi (thí dụ bỏ thời hạn thuê đất 99 năm xuống 50 hay 70 năm, bỏ một số quy
định quá ưu ái cho “công dân nước có biên giới chung với tỉnh Quảng Ninh”, vân vân);
2) Trong
trường hợp Chính phủ vẫn cố ý trình dự luật đặc khu, thì yêu cầu Quốc hội bác bỏ
dự luật đặc khu đó.