Dân Quyền: Khẩu hiệu và phương châm số 1 của Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự là "Thực thi dân quyền," dân hiểu được các quyền (con người kể cả các quyền dân sự và chính trị) của mình và cứ thế nhất quán thực thi, không đợi ai cho phép, ban phát; nếu chính quyền chưa có luật minh bạch để TẠO THUẬN LỢI cho dân thực hiện quyền của mình thì đó là lỗi của chính quyền. Và với dân như thế, làm thế thì là cách tốt nhất để dân xây dựng chính quyền của mình, cho mình. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết thấm đẫm tinh thần ấy của nhà nghiên cứu Tiêu Dao Bảo Cự từ Đà Lạt.
Tiêu Dao Bảo Cự
Diễn tiến trong thái độ của chính
quyền đối với vụ tưởng niệm Gạc Ma 14/3 và việc thực hiện kế hoạch chặt 6700
cây xanh ở thủ đô Hà Nội cho thấy hành động của nhân dân đã tác động đến chính
quyền.
Sau khi đám “dư luận viên” phá rối
vụ tưởng niệm Gạc Ma, khác với sự im lặng hay công khai hỗ trợ hành động phá rối,
lần này chính quyền đã lên tiếng phủ nhận việc tổ chức và ủng hộ đám “dư luận
viên” thô thiễn, ngu ngốc gây phẫn nộ trong nhân dân; thay vì gọi những người đến
tưởng niệm là “bọn phản quốc” như các lần khác, đã tôn vinh họ là “những người
yêu nước”. Tương tự, sau việc chặt phá một
số cây xanh, chính quyền đã lùi bước trước phản ứng mạnh mẽ và tức thời của nhiều
tầng lớp dân chúng trên đường phố và trên mạng xã hội.
Những điều trên làm ta liên tưởng
đến câu tổng kết của một nhà tư tưởng: “Nhân dân nào chính quyền ấy”. Nó cũng
đánh dấu việc mở đầu một giai đoạn nhân dân chuyển mình đã tác động tích cực
lên nhà cầm quyền.
Trên dưới hai thập niên vừa qua,
nhiều cuộc chuyển đổi và cách mạng “long trời lở đất” đã xảy ra đối với hệ thống
xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới và các nước có chế độ độc tài ở Bắc Phi và
Trung Đông. Nhiều người đã mơ tưởng đến các loại “cách mạng màu, cách mạng hoa”
như ở một số nước nhưng điều đó đã không xảy ra. Tình hình này cũng có thể chứng
minh cho cách tổng kết “nhân dân nào chính quyền ấy” ở Việt Nam.
Nhân dân là một từ trừu tượng
nhưng lại rất cụ thể. Ai cũng có thể tự xưng nhân dân, nhân danh nhân dân, hô
hào nhân dân. Có khi nhân dân im lặng chịu dẫn dắt như bầy cừu nhưng cũng có
lúc nhân dân nổi gió dậy sóng. Người xưa cũng đã từng nói “chở thuyền là dân, lật
thuyền cũng là dân”.
Trong chiều dài lịch sử của mình,
nhân dân Việt Nam có hai đặc tính nổi bật: chịu đựng và phản kháng. Hai đặc
tính này luân phiên hay cùng lúc bổ sung cho nhau tùy hoàn cảnh cụ thể. Nếu
không rèn đúc được hai đặc tính này, chắc chắn quốc gia Việt Nam đã bị xóa sổ
trên bản đồ thế giới.
Trong lịch sử thế giới, không ít
thí dụ về việc có những chế độ tàn ác được nhân dân ủng hộ, trong một giai đoạn,
mà rõ ràng nhất là phát xít Đức và Nhật, đã gây nên thế chiến 2, làm hao tổn
bao nhiêu máu xương của nhân loại. Chế độ cộng sản ở Liên Xô và Trung Quốc trước
đây cũng thế, cho đến khi nhân dân nhìn ra tai họa tày trời với những tội ác
kinh hoàng mà chế độ do chính họ ủng hộ gầy dựng nên đã mang đến.
Từ năm 1975, 40 năm qua, tại sao
nhân dân Việt Nam vẫn phải chịu đựng một chính quyền ngày càng tỏ ra tồi tệ,
đưa đất nước ngày càng “tụt hậu” thay vì vươn lên sau khi đã chấm dứt chiến
tranh và thống nhất. Có người trách cứ, thậm chí nguyền rủa nhân dân chỉ biết
hèn nhát cúi đầu. Nhận định về tình hình này là một vấn đề phức tạp trên nhiều
lãnh vực, từ nhiều góc độ. Ở đây chỉ xin phân tích về tính chất của nhân dân định hình
bởi hoàn cảnh lịch sử hiện nay.
Nhân dân bao gồm tất cả mọi tầng
lớp trong xã hội. Khi nói nhân dân ủng hộ, chịu đựng hay phản kháng phải có đại
bộ phận nhân dân chứ không phải một vài tầng lớp.
Từ sau 1975 nhân dân Việt Nam có
tâm lý và tâm cảnh sau đây: Vui mừng vì đất nước đã hết chiến tranh và
thống nhất (trong đó riêng ở Miền Nam, những người có liên quan đến chế độ Việt
Nam Cộng Hòa lo sợ bị trả thù, phân biệt đối xử và thực tế điều này đã diễn
ra). Ngán ngại chiến tranh, xáo trộn. Cốt làm ăn kiếm sống và vươn lên. Hưởng
thụ khi có điều kiện. Lo sợ khi gặp rắc rối với chính quyền. Sẵn sàng thỏa hiệp
với chuyện hối lộ để được việc, vượt qua rắc rối. Cầu an nên thường tránh xa
hay vô cảm với cái xấu, cái ác xảy ra chung quanh hàng ngày.
Riêng đối với trí thức, ở
Miền Bắc từ sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm và Xét Lại - Chống Đảng, tinh thần phản
kháng hầu như bị thui chột đến mấy thế hệ, ở Miền Nam, do tâm lý và hoàn cảnh bại
trận, tinh thần phản kháng cũng nhụt đi nhiều.
Đối với học sinh sinh viên
là lứa tuổi trong sáng, giàu lòng phản kháng tự nhiên nhưng chính sách giáo dục
nhồi sọ, nô lệ, nặng tính chính trị, cùng với hoàn cảnh kinh tế khó khăn của
toàn xã hội đã làm họ trở nên thụ động và phần đông chỉ biết vâng phục, mong muốn
học giỏi, thi đỗ, có việc làm và làm giàu.
Tất cả những điều trên đã làm cho
nhân dân cam chịu trước bao nhiêu khó khăn, khổ nhục, bị tước đoạt nhiều thứ tự
do nhưng vẫn nhẫn nhục chịu đựng trong một thời gian dài, tưởng như toàn xã hội
đã tê liệt lòng phản kháng.
Tuy nhiên gần đây tình hình đã
thay đổi, những dấu hiệu phản kháng đã bộc lộ và bùng lên nơi này nơi khác với
nhiều mức độ khác nhau. Đầu tiên là “dân oan” bị mất đất mất nhà đã đi
khiếu kiện, biểu tình, “chống người thi hành công vụ” (thực ra là thi hành “công
vụ phi pháp”) và một vài trường hợp đã bạo động. Các tôn giáo bị trù dập, đàn
áp cũng có phản ứng tương tự. Nhiều trí thức, văn nghệ sĩ, kể cả đảng viên phê
phán nghiêm khắc chính sách của đảng và nhà nước ngày càng gay gắt. Các
blogger, facebooker phần đông là các bạn trẻ, quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề
chính trị, bày tỏ quan điểm trái với chính quyền ngày càng sắc bén, một số nhỏ
đã đi vào hành động một cách khôn ngoan, táo bạo. Việc chống lại cảnh sát giao
thông, đôi khi ngay cả lúc phạm lỗi, đã trở nên phổ biến, thậm chí có dấu hiệu
cực đoan như chửi bới, tông thẳng xe vào cảnh sát là điều trước đây chưa bao giờ
có. Hai biểu hiện gần đây của nhiều tầng lớp xã hội là vụ tưởng niệm Gạc Ma và
chống chặt cây xanh ở Hà Nội như đã nói trên cho thấy sự chuyển mình của quần
chúng từ chịu đựng sang phản kháng.
Sự phản kháng này chỉ có hiệu quả
lớn khi đại bộ phận nhân dân tham gia. Các tầng lớp nhân dân không đồng nhất
nên phải có sự tác động, kích thích lẫn nhau, đặc biệt trong đó tầng lớp ưu tú
có trách nhiệm dẫn dắt và thúc đẩy, lứa tuổi trẻ xung kích tiến lên hàng đầu.
Trí thức dấn thân thường đấu tranh vì lý tưởng chứ không vì quyền lợi, tuổi trẻ
không ngại hi sinh, không so đo tính toán. Đó hầu như là kinh nghiệm của mọi cuộc
cách mạng. Và trong thời đại Internet, thông tin truyền tải tức thời, sự tác động
qua lại giữa các tầng lớp càng nhanh lên gấp bội.
Phải chăng đây là con đường, là lối
thoát tất yếu cho tình hình Việt Nam? Và có phải đảng – chính quyền đã không học
được bài học tự ngàn xưa “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” để đi đến
tự hủy?
24/3/2015
Tiêu Dao Bảo Cự