Nguyễn Quang Duy
Hà Nội vẫn thường tự hào Việt Nam là nước xuất cảng gạo hàng đầu
trên thế giới.
Nhưng ít ai ngờ rằng chính chiến lược đẩy mạnh xuất cảng của Hà
Nội là nguyên nhân khiến 15 triệu nông dân trồng lúa trong vùng đồng bằng sông
Cửu Long và sông Hồng đều nghèo hay rất nghèo.
Nông Dân Hy Sinh 50% Lợi Nhuận Nhằm Bảo Hộ Công Nghiệp Xuất Cảng
Hà Nội bảo hộ công nghiệp bằng cách giảm giá đồng tiền giúp hàng
công nghiệp xuất cảng rẻ hơn.
Giảm giá đồng tiền làm giảm giá gạo Việt Nam bán ra trên thị
trường quốc tế và làm giảm thu nhập của nông dân trồng lúa.
Khi đồng tiền bị giảm giá thì giá phân bón, nhiên liệu, thuốc trừ
sâu, máy móc nhập cảng đều mắc hơn làm tăng giá thành gạo và lại giảm xa hơn
lợi nhuận nông dân có thể thu được.
Riêng việc dùng đồng tiền để bảo hộ công nghiệp đã cướp đi 50% lợi
nhuận của nông dân.
Chính phủ Thái Lan trợ giá gạo bằng cách mua lúa của nông dân, sau
đó sẽ bán lại cho các công ty xuất khẩu. Mức trợ giá là từ 14 tới 15.000
baht/tấn lúa, tính ra cao hơn mức giá thị trường toàn cầu từ 40 đến 50%.
Trong vụ mùa 2018–19, chính phủ Thái sẽ hỗ trợ chừng 3 tỷ Mỹ kim
cho cho ngành lúa gạo, gồm những khoản cho vay và khoản trợ cấp trực tiếp cho
nông dân.
Nếu nông dân đồng ý giữ lúa trong kho và bán ra khi được giá, họ
sẽ được trợ giá để có thể thu về 17.050 baht/tấn gạo Hom Mali, 15.450 baht/tấn
gạo nếp, 12.000 baht/tấn gạo trắng và 12.900 baht/tấn gạo thơm Pathum Thani.
Trung cộng, Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân và các quốc gia nhập
cảng gạo khác đều bảo vệ gạo nội địa bằng cách đánh thuế và giới hạn số gạo
nhập cảng.
Ngày 1/7/2018, Trung cộng điều chỉnh mức thuế nhập cảng gạo từ 40%
tăng lên 50%.
Nhìn vào con số Thái Lan và Trung cộng bảo trợ nông dân xứ họ, ta
có thể ước tính nông dân Việt Nam đã hy sinh đến 50% lợi nhuận so với giá xuất
cảng mà không hề được Hà Nội bồi hoàn hay bảo trợ.
Lý do này hầu như không được các chuyên gia tại Việt Nam nêu lên
ngay cả họ biết và biết rất rõ sự việc.
Những vòi bạch tuộc hút máu nông dân
Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) một tổ chức được Hà Nội thành
lập nhằm quản lý thị trường gạo và bảo đảm số gạo xuất cảng theo kế hoạch của
Hà Nội.
Mang tiếng là hiệp hội nhưng nó không hề đại diện cho tầng lớp
nông dân, không đại diện thương nhân trung gian, mà cũng không đại diện cho các
doanh nghiệp nhỏ đang hoạt động trong thị trường lúa gạo.
Nó chỉ đại diện cho một số doanh nghiệp lớn, đều là doanh nghiệp
nhà nước, hội đủ các quy định về kinh doanh xuất cảng gạo do Hà Nội đưa ra là
phải có kho trữ gạo lớn, nhà máy xay xát thóc lớn và có vốn nhiều.
Cơ cấu quản lý thị trường gạo vì thế vẫn như thời bao cấp, doanh
nghiệp nhà nước độc quyền thu mua và xuất cảng gạo theo kế hoạch nhà nước.
Hà Nội đã lừa gạt thế giới vì khi họ gia nhập WTO họ đã đồng ý sẽ
dần dần xóa bỏ doanh nghiệp nhà nước tạo công bằng trong thương mãi.
Nắm độc quyền xuất cảng gạo, các doanh nghiệp nhà nước sẵn sàng ký
những hợp đồng với giá gạo rẻ hơn giá thị trường. Vì thế giá gạo Việt Nam
thường rẻ hơn giá gạo Thái Lan cùng loại có khi lên tới cả 100 Mỹ Kim.
Người nông dân Việt Nam thường ít ruộng, không vốn để giữ lúa,
không chỗ chứa, ít thông tin về giá cả và mất quyền thương lượng bị doanh
nghiệp nhà nước ép phải bán theo giá nhà nước đưa ra nên lợi nhuận còn lại rất
thấp.
Cơ chế này không khác gì các vòi bạch tuộc hút máu nông dân, công
sức và lợi nhuận nông dân bị cắt xén nên ngay cả khi được mùa nông dân vẫn chỉ
đủ sống.
Tính trung bình nông dân trồng lúa vùng đồng bằng sông Cửu Long
thu nhập không quá 100 Mỹ Kim mỗi tháng, thấp hơn lợi tức nông dân trồng lúa
Thái Lan 2,7 lần và 1,5 lần thấp hơn so với Nam Dương và Phi Luật Tân.
Gạo Sạch, Ngon, Thơm
Chạy theo định mức xuất cảng là nguyên nhân lâu nay Việt Nam chỉ
sản xuất gạo thường, sử dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu nên phải bán giá rẻ.
Trong khi đó nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước dần dần
chuyển sang gạo sạch, ngon và thơm.
Ngay thị trường quốc nội khi lợi tức cao hơn người dân mua gạo
Thái Lan và cả gạo Kampuchia về ăn.
Là quốc gia hàng đầu sản xuất gạo mà không thể cạnh tranh được với
gạo Thái gạo Kampuchia ngay trong nước là một nghịch lý khó có thể chấp nhận
được.
Điều cần nói là giá gạo Thái, gạo Kampuchia lại cao hơn giá gạo
Việt Nam xuất khẩu rất nhiều.
Nói cách khác nông dân Việt Nam nghèo vì họ không được khuyến
khích và mất đi cơ hội sản xuất các loại gạo có giá trị lợi nhuận cao nhằm nâng
cao đời sống của họ và gia đình.
Nhiễm thuốc trừ sâu
Theo báo cáo mới nhất từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
riêng tháng 5/2018 Việt Nam nhập cảng 110 triệu Mỹ Kim thuốc trừ sâu và nguyên
liệu thuốc trừ.
Mỗi năm nông dân tiêu thụ đến cả 100 ngàn tấn thuốc trừ sâu, hơn
50% là nhập cảng từ Trung cộng.
Việc nhiễm thuốc trừ sâu vì vậy không chỉ xảy ra với nông dân mà
những người ở thành phố cũng có nguy cơ nhiễm thuốc còn tồn dư trong thực phẩm
như gạo, rau, quả, cá, tôm hay gia súc nuôi bằng thực phẩm nhiễm độc.
Khi ngộ độc thuốc trừ sâu, chất độc sẽ chuyển hoá qua gan, gây rối
loạn thần kinh, mất ngủ, kém trí nhớ, mờ mắt, giảm thính lực, gây suy nhược cơ
thể, ung thư, ở phụ nữ dễ bị sảy thai, đẻ non, gây dị tật bẩm sinh ở trẻ,...
Nghĩa là cả một dân tộc và nhiều thế hệ tiếp nối đang đối đầu với
ô nhiễm thuốc trừ sâu chỉ vì đảng và nhà nước cộng sản chạy theo đồng tiền xuất
khẩu.
Quyền tư hữu đất đai
Với nông nghiệp, quyền tư hữu đất đai vô cùng quan trọng, bao gồm
quyền sử dụng đất, quyền hưởng lợi và quyền mua bán. Quyền này đến nay nông dân
Việt vẫn chưa có.
Có quyền tư hữu người dân mới yên tâm mua thêm đất, mở rộng cơ
nghiệp, mới chí thú và mạnh dạn phát triển kinh tế nông thôn, mới đầu tư vào
máy móc trang thiết bị nhằm tăng năng suất và sản lượng sản xuất.
Nông thôn có phát triển mới thu hút được đầu tư vào hạ tầng cơ sở,
thu hút nhân tài về phát triển nông thôn, thu hút đầu tư vào công nghiệp nhẹ
sản xuất ngay tại nông thôn...
Nông thôn có phát triển thì đời sống nông dân mới khá hơn, khoảng
cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị mới thu hẹp, người trẻ không rời
lên đô thị kiếm sống, giảm gánh nặng cho đô thị, đất nước mới thực sự phát
triển.
Các yếu tố khác như các đập thủy điện đầu nguồn ngăn chặn lượng
nước phù sa, gây lụt lội, nước mặn xâm nhập, việc lạm dụng nước giếng cho sản
xuất và tiêu dùng, việc khai thác cát trên sông, … đều ảnh hưởng đến môi trường
sống và lợi tức của người trồng lúa.
Kết Luận
Rõ ràng nông dân dù làm việc rất cực khổ nhưng vẫn nghèo là do
chiến lược bảo hộ xuất cảng công nghiệp và guồng máy quản lý thị trường của Hà
Nội.
Hiện nay Liên Minh Âu Châu đang thúc đẩy Việt Nam cải cách kinh tế
để được Quốc Hội Âu Châu đồng ý thông qua Hiệp định thương mại Việt Nam-EU.
Nhưng kinh nghiệm cho thấy Hà Nội luôn tráo trở và lừa bịp nên
việc cải cách kinh tế chỉ là điều kiện cần còn thay đổi thể chế chính trị mới
là điều kiện đủ.
Có tự do bầu cử tự do ứng cử nông dân, công nhân, dân nghèo thành
thị mới có cơ hội để tiếng nói của họ được lắng nghe, quyền lợi của họ mới được
các đảng chính trị và chính quyền bảo đảm thực thi và như thế đời sống của họ
mới thực sự thoát khỏi nghèo đói.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
6/8/2018