Nguyễn Trung
27-9-2017
Cải cách thường phải do một lực lượng chính trị có ảnh
hưởng và quyền lực chi phối quốc gia tiến hành – ví dụ như đảng nắm quyền, chính
phủ, một lực lượng chính trị mạnh áp đảo… Nhưng tôi vẫn đặt vấn đề cả
nước cùng tham gia cải cách vì các lý do sau đây:
I. Cải cách đã trở thành đòi hỏi sinh tử của đất nước.
II. Vì là cải cách đổi đời đất nước, nên phải là sự
nghiệp của toàn dân.
III. Cái đích cải cách phải tới là hình thành một thể chế
chính trị – nhà nước dân chủ dựa trên kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền
– xã hội dân sự.
Xin trình bầy lần lượt như sau.
Nội dung
III. Cái đích phải tới
***
Phụ lục I – Về con đường cải cách đi qua ĐCSVN đã chuyển đổi
trở thành đảng của dân tộc,
Nguyễn Trung
Phụ lục II – Về chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Trung
Phụ lục III – Về ĐCS Trung Quốc và ĐCS Việt Nam, Nguyễn Trung
Phụ lục IV – Về sự hình thành và phát triển xã hội dân sự ở Việt Nam. Phạm Khiêm Ích
***
I. Đòi hỏi sinh tử: Cải cách đổi đời đất
nước
Cục diện thế giới hiện nay đặt nước ta vào tính thế nguy
hiểm chưa từng có kể từ khi giành được độc lập thống nhất 30-04-1975:
– Tranh chấp Mỹ – Nga – Trung rất phức tạp
nói riêng và những vấn đề kinh tế, chính trị và an ninh nóng bỏng ở phạm vi
toàn cầu trong cục diện thế giới đa cực hiện nay nói chung đặt ra cùng một lúc
nhiều vấn đề lớn chưa có lời giải. Chiến tranh lạnh II ngày càng quyết liệt
trên các mặt trận kinh tế, chính trị, quân sự. Đang tiềm tàng cùng một lúc các
nguy cơ xung đột lớn ở châu Á, châu Âu và Trung Đông có thể dẫn tới chiến tranh
thế giới III.
Giới chiến lược Mỹ cho rằng cả Trung Quốc và Nga vì lợi
ích riêng đều muốn khai thác sự lúng túng của Mỹ trong vấn đề tên lửa và vũ khí
A của Bắc Triều Tiên. Vì thế cho đến nay hai nước này vẫn không đi đến cùng với
Mỹ (trên thực tế gần như bỏ mặc cho Mỹ) trong việc gây sức ép phải có đối với
Bắc Triều Tiên. Sự nghi ngờ của Mỹ đi xa tới mức cho rằng: Bắc Triều Tiên được
sự giúp đỡ nào đấy về kỹ thuật, vật chất..; có người nói tiềm tàng những vụ đổi
chác lớn – ví dụ đổi vấn đề tên lửa và vũ khí A của Bắc Triều Tiên lấy “cái
lưỡi bò” ở Biển Đông… (chẳng lẽ lịch sử có thể lập lại chuyện “Kissinger – Chu
Ân Lai 1972”?)
Trong cuộc đấu tay ba Mỹ – Nga – Trung mỗi bên đều có cái
mạnh và cái yếu riêng với sự tập hợp lực lượng và phe cánh riêng rất phức tạp,
có nhiều mặt trận đối kháng chính/phụ, nóng/lạnh khác nhau, cục diện thay đổi
từng giờ.
Cái mạnh nổi bật của Trung Quốc là sự phát triển năng
động của kinh tế thế giới cần thị trường rộng lớn của Trung Quốc, sự nổi trội
sức mạnh tại chỗ so với các nước láng giềng, có tiềm lực thực hiện chiến lược
thâm nhập, câu giờ và phân hóa đối phương, chuẩn bị sẵn mọi trận địa khác nhau
tại nhiều châu lục và lấn từng bước, kết hợp với các thủ đoạn: gặm dần (thái
xúc-xích salami), lấy thịt đè người, phản ứng nhanh, mục tiêu biện minh cho
biện pháp (vô luật và vô đạo đức)… Chỗ yếu lớn nhất của Trung Quốc là tình hình
nội trị Trung Quốc có nhiều vấn đề lớn (đồng thời rất nguy hiểm cho bên ngoài),
kinh tế đang trong thời kỳ phải chuyển đổi mô hình phát triển do kinh tế thế
giới đã thay đổi. Hiện nay Trung Quốc đang trở nên nguy hiểm nhất đối với các
nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á – trong đó dặc biệt là Việt Nam, đã
thao túng được đáng kể ASEAN.
Thời Tập Cận Bình, đặc biệt là trong những năm gần đây và
hiện tại, Trung Quốc đã có những bước leo thang cao nhất đến nay, quyết thực
hiện “đường lưỡi bò” tại Biển Đông, hoàn tất việc xây các căn cứ quân sự trên
các đảo đã chiếm, tiến hành nhiều hoạt động gây căng thẳng phía Bắc là Biển Hoa
Đông, kết hợp chặt chẽ với những bước đi kinh tế, chính trị của Trung Quốc ở
phạm vi toàn cầu.
Cục diện thế giới hiện tai có nhiều hệ lụy toàn cầu rất
sâu sắc, trong đó đã làm xuất hiện một trong những hệ quả rất nhạy cảm và trực
tiếp tác động vào nước ta: Vì nhiều lý do toàn cầu và khu vực tại những nơi
khác nhau trên thế giới, Biển Đông nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói
chung đang dần dần trở thành một khu vực trống có lợi cho Trung
Quốc, hoặc trong tình huống nhất định có thể đột biến trở thành vùng trống – dù
chỉ trong khoảnh khắc, và Trung Quốc đã sẵn sàng. Tình hình này còn có
nguyên nhân: Vì nhiều lý do trên thực tế ảnh hưởng và sự có mặt của Mỹ tại khu
vực này từ thời Obama và nhất là hiện nay không đủ mạnh để kiểm soát có hiệu
quả sự bành trướng tại chỗ quyền lực của Trung Quốc, giữa lúc thế giới có nhiều
cơ hội “đục nước béo cò” khác với những hệ lụy có thể liên quan đến Biển Đông.
Việt Nam hiện nay đứng trước thách thức quyết liệt chưa
từng có kể từ sau chiến tranh 17-02-1979. Điều gì sẽ xảy ra và Trung Quốc có
thể đi xa tới đâu, nếu xu thế nói trên ở Biển Đông diễn tiến tiếp tục, hoặc khi
xảy ra đột biến lớn tại bất kỳ một điểm nóng nào đó trong cục diện thế giới
hiện nay? Trong khi đó Trung Quốc đã tạo ra được ở Việt Nam ở mức cao nhất đến
nay sự phụ thuộc về kinh tế, sự lệ thuộc về chính trị, sự uy hiếp nghiêm trọng
về an ninh quốc phòng, và triển khai tiếp sự can thiệp sâu hơn nữa vào nội bộ
nước ta.
– Trong cục diện quốc
tế và khu vực rất nguy hiểm và nhạy cảm hiện nay, Việt Nam đang bước vào thời
kỳ trầm trọng của cuộc khủng hoảng toàn diện bắt đầu từ Đại hội VII (1991). Nghĩa
là Việt Nam đang ở trong tình thế bị uy hiếp nghiêm trọng nhất trên cả hai
phương diện đối nội và đối ngoại. Đặc biêt là: Kinh tế tuy đạt mức thu nhập
trung bình thấp, song không bền vững, đang ở thời kỳ khó khăn nhất sau 30 năm
đổi mới với nhiều vấn đề cơ bản, ách tắc, nóng chưa có lời giải (vốn, nợ, tham
nhũng, kết cấu hạ tầng, quy hoạch phát triển, môi trường, năng lượng, nước,
năng lực quản trị quốc gia, giáo dục, biến đổi khí hậu…), nội trị rối ren, an
ninh quốc phòng bị uy hiếp quyết liệt nhất trong tình thế phải đối mặt với nguy
cơ bị cô lập rất cao.
– Và 30 năm đổi mới cho thấy ý
thức hệ, con đường ĐCSVN; từ đại hội VII đất nước đi vào thời kỳ khủng hoảng
toàn diện, từ mấy năm gần đây là thời kỳ trầm trọng nhất chưa từng có kể từ sau
30-04-1975. Đấy cũng là những nguyên nhân gốc gây ra lãng phí, tham nhũng và
bất công xã hội vô cùng nặng nề, cướp đi của đất nước nội lực phải có để có thể
đương đầu với mọi thách thức sống còn trong cục diện quốc tế ngày càng nóng
bỏng hôm nay. Đồng thời đã áp dụng quá nhiều chủ trương chính sách sai lầm,
bưng bít sự thật và ngu dân, kèm theo những hành động trấn áp khắc nghiệt, tất
cả khiến cho khối đại đoàn kết dân tộc bị phân hóa sâu sắc, trí tuệ và ý chí
phấn đấu vươn lên của đất nước bị tê liệt, làm tổn thương nghiêm trọng tinh
thần tự trọng dân tộc và thể diện quốc gia, lòng dân phân tán và mất lòng tin
vào sự lãnh đạo của đảng.
Từ Hội nghị Thành Đô đến nay cho thấy đường lối ngoại
giao leo dây để giữ “đại cục”, nhưng không có nội lực vững mạnh của quốc gia
làm nền tảng, lại thêm những yếu kém của đội ngũ lãnh đạo, nên đã thất bại
nghiêm trọng. Mỗi ngày ta phải nhân nhượng một tý để giữ “đại cục” như thế, để
hôm nay là cả một cái thòng lọng không gỡ ra nổi siết trên cổ đất nước, uy tín
quốc tế giảm sút nặng nề, biên cương bờ cõi tổ quốc bị xâm phạm, đất nước lâm
vào thế vừa lệ thuộc và phụ thuộc, vừa đơn độc một cách nguy hiểm.
Toàn bộ tình hình nêu trên còn cho thấy đường lối đối nội
và đối ngoại của đảng chẳng những đem lại cho đất nước những tổn thất lớn, mà
còn đẩy đất nước vào con đường phát triển vừa lạc hậu, vừa lạc lõng trong xu
thế phát triển chung của thế giới ngày nay. Xem xét kỹ thực chất, quan sát
trên thế giới sẽ thấy Việt Nam hiện nay là nước duy nhất còn lại đang cố tìm
cách níu kéo ý thức hệ có cỗi rễ là chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa cộng sản
để duy trì chế độ toàn trị và quyền lực của đảng trong điều hành đất nước –
mặc dù lãnh đạo đảng cũng thừa nhận chưa biết cuối thế kỷ này liệu sẽ có chủ
nghĩa xã hội hay không! Nghĩa là trên thực tế về nhiều mặt sâu sắc bên trong,
nước ta vẫn đang một mình một đường đi trong thế giới hôm nay.
Sau ba thập kỷ hội nhập quốc tế, nền kinh tế đất nước vẫn
gia công là chủ yếu và chưa xác lập được vị trí phải có trong nền kinh tế toàn
cầu (ngôn ngữ chuyên môn thường nói về các chuỗi cung / ứng). Chế độ toàn trị
nặng về trấn áp các quyền tự do dân chủ, cùng với nền kinh tế yếu kém đày rẫy
bất công và tham nhũng đã dựng nên một nền nội trị vừa không có khả năng vừa
không cho phép thực hiện đường lối đối ngoại dấn thân. Cho nên trên thực tế
nước ta chỉ giành được vai trò quốc tế thấp, không đúng với tầm vóc và vị trí
chiến lược của quốc gia, chưa đáp ứng được những đòi hỏi quan trọng của nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc; đất nước bị thua thiệt nhiều mặt, thậm chí bị
xâm phạm, mặc dù trên danh nghĩa đã thiết lập được mối quan hệ đối tác chiến
lược hay đối tác toàn diện trên mọi châu lục.
Một mình một đường đi như vậy, nước ta càng đuổi theo
thiên hạ, nhưng hôm nay càng tụt hậu xa hơn và yếu đi – ngay cả so với tất cả
các nước láng giềng, tiếp tục lạc lõng.
Trong khi đó địa kinh tế và địa chính trị của cục diện
quốc tế hôm nay khách quan đặt ra đòi hỏi phải có một Việt Nam là một quốc gia
độc lập tự chủ, vững mạnh và phát triển, để có thể đóng góp tích cực vào lợi
ích của hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực ĐNÁ và trên thế giới. Lợi
ích sống còn của Việt Nam cũng đòi hỏi phải tận dụng được yếu tố mới này để tạo
cho mình một tập hợp lực lượng rộng khắp hậu thuẫn cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc. Đảng hôm nay quên mất bài học việc tạo ra được một mặt trận
nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ cứu nước – kể cả ngay
trong lòng nước Mỹ – là một trong những yếu tố quyết định giành thắng lợi.
Có
thể kết luận:
Thất bại của 42 năm đầu tiên độc lập thống nhất đất nước
phải hứng chịu về nhiều mặt chính là thất bại của việc lấy chủ nghĩa chà đạp
trí tuệ và các giá trị của tự do – dân chủ – quyền con người, là do người nắm
quyền giành được một số lợi ích phe nhóm nhưng phải hủy hoại nhiều lợi ích quốc
gia và lợi ích của dân tộc, là thất bại của xây dựng chủ nghĩa xã hội – với kết
quả gặt hái được là để mọc lên trên đất nước ta hôm nay một chế độ toàn trị
khắc nghiệt, nhưng đối với bên ngoài độc lập 42 năm mà vẫn chưa độc lập!
Thất bại của 42 năm trước hết là do để cho tha hóa của
chế độ một đảng biến đảng thành đảng cai trị hôm nay cướp đi mất tiền thân của
nó là một đảng cách mạng đã từ thế hệ này sang thế hệ khác hy sinh chiến đấu vì
nước và đã làm nên sự nghiệp giành lại độc lập thống nhất, là thất bại của sự
hiểu biết mơ hồ cái thế giới khắc nghiệt chúng ta đang sống, là thất bại của sự
giác ngộ kém cỏi – hay là không giác ngộ được – lợi ích quốc gia của ta nằm ở
chỗ nào trong cái thế giới quyết liệt này – điển hình là đường lối ngoại giao
bắt đầu từ Thành Đô, mới đây lại xảy thêm vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Khái quát lại:
Bốn cuộc kháng chiến cứu nước vỹ đại và 42 năm độc lập
thống nhất, công sức tiền của đổ ra cho công nghiệp hóa như núi biển, song tất
cả chỉ để đạt được nền kinh tế gia công, lãng phí và tham nhũng làm cạn kiệt
mọi nguồn lực và tài nguyên quốc gia, đã đạt mức có thu nhập trung bình (thấp)
song kinh tế không bền vững, năng suất lao động rất thấp, môi trường tự nhiên
bị hủy hoại nặng nề, chế độ toàn trị đầy rẫy bất công và trấn áp, vị thế quốc
gia èo uột… Trong khi đó từ sau chiến tranh 17-02-1979 đến nay không một lúc
nào Trung Quốc ngừng nghỉ thực hiện dã tâm bành trướng “đường lưỡi bò”; ngay
trong những tuần vừa qua Trung Quốc ép ta phải rút việc khai thác dầu khí khỏi
lô 136.03 với lời đe dọa trực diện trắng trợn sẽ chiếm nốt tất cả các đảo còn
lại ở Trường Sa, tiến hành tập trận bắn đạn thật trên Biển Đông ở quy mô lớn
nhất, nằm sâu vào vùng biển nước ta 11.000km2 và cách Đà Nẵng 75 hải lý!
Đau quá! Nhục quá! Có lời lẽ nào nói hết được hiểm nguy
phía trước đang chờ đợi đất nước!?
Toàn bộ sự vận động nói trên của đất nước trong xu thế
phát triển hiện nay của chế độ toàn trị với ý thức hệ như vậy phải được chấm
dứt, để tìm đường hòa bình cải cách chuyển đất nước đi lên con đường: Giải
phóng nội lực và xây dựng cho đất nước vị thế quốc gia mới. Sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc trong cục diện quốc tế ngày nay đòi hỏi phải có đủ sức mạnh
nội lực để phát triển và đồng thời để tập hợp được sự hợp tác và hậu thuẫn rộng
rãi trên thế giới. Một sự nghiệp như vậy đòi hỏi phải có một thế chế chính trị
quốc gia mới phù hợp. Cải cách để đổi đời đất nước trở thành đòi hỏi sinh tử,
cả nước phải đứng lên thực hiện.
II. Cải cách phải là sự nghiệp của toàn dân
– Đổi mới từ 1986 bắt nguồn từ phong trào “phá rào” của
nhân dân, trong tình thế đất nước vô cùng hiểm nghèo. Khi trở thành chủ trương
của đảng, đổi mới giành thành tựu ngoạn mục, vì nó giải phóng sức mạnh của toàn
dân – nguyên nhân cốt lõi là thực hiện dân chủ và thừa nhận kinh tế thị trường.
Qua đổi mới 1986, bộ mặt đất nước bắt đầu có da có thịt,
bè bạn ngạc nhiên và vui mừng, còn mọi kế hoạch thù địch và bao vây cấm vận
hiển nhiên đã thất bại. Sức mạnh và nghị lực sáng tạo của nhân dân là như vậy.
Trong 30 năm sau đổi mới 1986, có thể nói sức mạnh và tiềm năng của nhân dân –
ở đây tôi muốn nhấn mạnh trước hết là vai trò của nông dân nói riêng và của
toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân nói chung – luôn luôn là chỗ dựa vững chắc,
thậm chí không hiếm lúc gian nan là chiếc phao cứu sinh, hoặc là bệ đỡ cho
những bước phát triển mới.., của nền kinh tế. Lùi nữa về quá khứ, sức mạnh toàn
dân tộc là yếu tố quyết định làm nên thắng lợi vẻ vang của 4 cuộc kháng chiến
cứu nước vỹ đại.
Truyền thống và sức mạnh nêu trên vừa là yếu tố quyết
định thắng lợi, vừa là đòi hỏi như một điều kiện tiên quyết: Cuộc cải cách vỹ
đại đổi đời đất nước cần phải được tiến hành với tính chất là sự nghiệp của
toàn dân, do toàn dân, và vì toàn dân. Bởi vì đây là cuộc cải cách sâu rộng làm
thay đổi triệt để mọi lĩnh vực của cuộc sống đất nước để trở thành một quốc gia
phát triển, trước hết là thay đổi chính từng người dân từ đây
thành người chủ của đất nước.
Xin nhấn mạnh như một nguyên lý: Không bao giờ có thể có một nước giầu mạnh của một nhân
dân bị nô lệ!
Một đất nước giầu mạnh chỉ có thể được kiến tạo nên bởi
một nhân dân tự do và là người chủ của quốc gia mình. Mục tiêu chiến lược này
lẽ ra đã phải được thực hiện ngay sau 30-04-1975, bây giờ không thể trì hoãn
được nữa. Mục tiêu chiến lược này khi trở thành khát vọng của nhân dân, đất
nước hôm nay sẽ có nguồn lực sáng tạo và sức mạnh bất khả kháng để phát triển.
– Trong chế độ toàn trị, cái gì nhà nước không quản được
thì cấm, thần dân của nó phải chấp nhận và buộc phải quen sống trong cái lồng
quản/cấm này; mấy chục năm quản và cấm như thế chế độ toàn trị đã tạo ra cho
thần dân của nó những tập quán và một văn hóa sống lạc hậu.
Trong chế độ dân chủ của nhà nước pháp quyền, công dân
chẳng những phải tự giác ngộ tất cả về quyền và nghĩa vụ để vươn lên làm người
trưởng thành, để tự quản chính mình, và còn phải làm nhiệm vụ chủ động tham gia
vào đời sống mọi mặt của đất nước với tính cách là chủ nhân của quốc gia. Hơn
thế nữa, mỗi công dân như vậy còn vừa là đối tác của nhau, vừa là đối tác của
cả thế giới, để có khả năng tạo ra cho mình khả năng hợp tác theo tinh thần
đồng đội (teamwork skill), đồng thời cũng phải có bản lĩnh và khả năng chịu
đựng hoặc xử lý được mọi tác động từ thế giới bên ngoài, chủ động tham gia vào
quá trình hội nhập quốc tế của đất nước vừa là với tính chất công dân Việt Nam,
vừa với tính cách là công dân thế giới…
Như vậy về tính chất, khả năng và quyền năng của một bên
là thần dân của chế độ toàn trị, và một bên là công dân của chính thể dân chủ
pháp quyền có sự khác nhau một trời một vực. Đây là lý do cơ bản nhất khiến sự
nghiệp cải cách đổi đời con người và đổi đời đất nước sẽ phải bặt đầu từ học.
Toàn dân, bao gồm cả các đảng viên, không phân biệt bất
kể một thứ bậc nào trong xã hội, đều phải học, học lại, giúp nhau học – để trở
thành một công dân tự do của trưởng thành, có trí tuệ, ý chí, bản lĩnh và khả
năng / quyền năng làm chủ chính mình và làm tròn trách nhiệm người chủ một quốc
gia trưởng thành. Sự trưởng thành như thế của từng công dân trong chính thể mới
được phát huy đến đâu, đất nước sẽ phát triển đi xa tới đấy!
Công dân của chính thể mới nhất thiết phải học để tự tay
mình chủ động và cùng nhau xây dựng nên xã hội dân sự cho chính mình như là một
trường học rèn luyện và phấn đấu để tự khẳng định mình, là môi trường thực thi
trực tiếp quyền và trách nhiệm của mình đối với chính thể và nghĩa vụ đối với
quốc gia, là môi trường quảng bá và vun đắp các giá trị và truyền thống tốt đẹp
của dân tộc và tiếp thụ những giá trị của văn minh nhân loại. Vì chính mình và
vì đất nước này, cần phải học văn hóa sống “mỗi người vì mọi người, mọi người
vì mỗi người”, “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do
của mọi người!”, không để cho dối trá, mỵ dân, cám dỗ lường gạt, quyết đối mặt
với cái ác và bênh vực lẽ phải, làm cho tổ quốc của chúng ta là nơi đáng sống
với tất cả niềm tự hào chính đáng của mình.
Công dân của chính thể mới cần đặc biệt quan tâm học hỏi
và thay đổi chính mình, để thấu hiểu nỗi đau của đất nước, hiểu những bài học
cay đắng trên chẳng đường đầy máu và nước mắt để đi tới được độc lập thống nhất
hôm nay, qua đó xây dựng cho bản thân mình chính kiến về đường đi nước bước của
đất nước trong thế giới đã thay đổi này. Phải học để hiểu nỗi nhục của đất nước
phải chịu đựng những chén ép và tổn thất do tình trạng chậm phát triển của quốc
gia mình, nên không thể mở mày mở mặt với thiên hạ, đến mức tổ quốc của chúng
ta được thiên hạ tặng cho biệt danh: quốc gia không chịu phát triển! Nghĩa
là mỗi người phải học để nhìn nhận công việc của
quốc gia cũng là công việc của chính mình, không thể phó mặc cho ai khác tùy
tiện.
Cần phải học nhiều nữa để thấm thía nỗi hèn kém và cả
những hư hỏng của chính bản thân mình và của đất nước, do cái dốt, cái lạc
hướng, và cái khiếp nhược trước quyền uy sinh ra – trong đó cần phải thấy sự
hèn kém này chính là một trong các thành tố tạo nên dinh lũy kiên cố của chế độ
toàn trị hiện nay, những bước bị khuất phục đã xảy ra trước sự bành trướng và
thâm nhập các mặt của Trung Quốc, cũng như thói tự ti và sính phương Tây, sính
theo cái này hay theo cái khác và quên mất chính mình là ai. Đã xảy ra không
hiếm trường hợp hèn kém đến mức đánh mất hoặc để bị cướp mất tinh thần tự trọng
dân tộc và thể diện quốc gia…
Cần phải học bằng được hòa giải dân tộc, để hàn gắn vết
thương tay trái chém tay phải đến hôm nay vẫn còn rỉ máu. Cần phải học bằng
được điều này để làm cho quốc gia đủ mạnh và vững vàng, không để cho bất kể
tình huống nào các mưu đồ hoặc quyền lực đen tối dù từ đâu tới lại có thể một
lần nữa xô đẩy đất nước vào thảm họa nội chiến này. Và trên hết cả, cần thông
qua hòa giải dân tộc, để có được sự cố kết dân tộc làm nên một quốc gia chẳng
những có sức mạnh bất khả kháng với mọi thách thức từ bên ngoài, mà còn là môi
trường nẩy nở các giá trị cao đẹp, là nơi nuôi dưỡng, làm bệ đỡ, và đồng thời
là thành lũy bảo hộ cho mọi nỗ lực tinh hoa của từng công dân của nó…
Xem như thế, công dân của thể chế chính trị mới phải học
rất nhiều, học tất cả, để phát huy lợi thế nước đi sau qua sự nghiệp cải cách
này xây dựng thành công một thể chế chính trị dân chủ của nhà nước pháp quyền
của Việt Nam, phù hợp cho Việt Nam, nhằm vào mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam độc lập của tự do – dân chủ – hạnh phúc, trên nền tảng một quốc gia giầu
mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh, như đã thể hiện trong Tuyên ngôn Độc lập
02-09-1945 và Hiến pháp 1946.
Có thể nói đây là cải cách của học tập. Học
như thế là nội dung chiều sâu phải thực hiện được trong quá trình cải cách. Vì
có con người như thế, đất nước sẽ có tất cả. Học như thế để dứt
khoát không học đòi. Học để từng công dân trực tiếp tham
gia cải cách vì chính mình và vì đất nước. Vì thế, cải cách như vậy phải
là sự nghiệp của toàn dân, với tính chất là toàn dân giác ngộ trực tiếp tiến
hành cuộc cải cách trong đại này, được khai thông con đường thực hiện
đi qua ĐCSVN như đang là đã chuyển đổi thành đảng của
dân tộc.
III. Cái đích phải tới
Nhiệm vụ có ý nghĩa lịch sử vô cùng trọng đại này của đất
nước hôm nay đặt lên vai ĐCSVN và đội ngũ lãnh đạo không phải là
đập vỡ “bình” hay sửa “bình”. Cả hai việc này đều không thể,
không cần thiết, và đều không phải là giải pháp, thậm chí có thể nguy hiểm cho
đất nước.
Nhiệm vụ lịch sử không được phép tránh né của đảng hôm
nay là phải cất cái “bình” hiện nay vào nơi trang
trọng nhất có thể trong bảo tàng – phần lịch sử Việt Nam cận đại, để đánh dấu
sự kết thúc con đường đất nước đã đi từ năm 1930 đến hôm nay, để từ đây thông
qua cải cách thể chế chính trị mở ra một thời kỳ phát triển mới của nước Việt
Nam độc lập thống nhất trong thế giới đã sang trang.
Song ĐCSVN hôm nay như
đang là không có trí tuệ, phẩm chất và khả năng thực hiện nhiệm
vụ lịch sử nó phải làm nói trên. Và nếu cố tình vẽ ra một nhiệm vụ như thế cho
đất nước thì nó cũng không thực hiện được, nhân dân cũng không tin. 42 năm độc
lập thống nhất đã chứng minh thuyết phục: Ngoài đổi mới 1986 là nỗ lực của cả
nước, ĐCSVN như đang là cho đến nay chỉ có thất bại
trong mọi nỗ lực cải cách, dù đấy chỉ là những cải cách ở quy mô các vấn đề
từng phần hay cục bộ (ví dụ: cải cách giáo dục, cải cách hành chính, tinh giảm
biên chế…). Đơn giản vì bản chất và lợi ích của ĐCSVN hôm nay đối
kháng với cải cách, do đó nó coi những ý tưởng cải cách là suy thoái đạo đức
chính trị tư tưởng, là tự diễn biến, đặc biệt đố kỵ trong các vấn đề như xóa bỏ
“Điều 4”, hòa giải dân tộc, xã hội dân sự…
Xin lưu ý:
Cải cách đổi đời đất nước mang tầm vóc và nội dung quan trọng, bao quát toàn bộ
đời sống mọi mặt của đất nước, làm nhiệm vụ thay đổi triệt để toàn bộ hệ thống
chính trị – nhà nước của quốc gia hiện có. Nhưng không được phép để xảy ra tình
huống xuất hiện khoảng trống quyền lực trong khi tiến hành cải cách. Vì lẽ cốt
tử này, cải cách phải được một lực lượng chính trị có ảnh hưởng chi phối quốc
gia thực hiện. So sánh tương quan các lực lượng chính trị – kinh tế
– xã hội ở nước ta trong tình thế cấp bách hiện nay, một lực lượng chính trị đủ
mạnh và có sẵn như thế chỉ có thể là ĐCSVN đã chuyển đổi thành đảng của dân
tộc. Đây cũng là điều lý tưởng nhất có thể lúc này để tiến hành cải cách trong
hòa bình theo tinh thần khép lại quá khứ và không hồi tố, vì thời gian và nguy
cơ không chờ đợi!
Vậy chỉ còn con đường sống duy nhất: ĐCSVN như
đang là phải lột bỏ ý thức hệ và tình trạng thoán quyền, chỉ
giữ lại cho mình trách nhiệm ràng buộc với đất nước, tự thay đổi mình
trước thành đảng của dân tộc với tinh thần “sống hay là chết!?”,
để có phẩm chất và khả năng mới của sự giác ngộ Tổ quốc trên hết,
để từ đó mới có thể đề xướng được cải cách, và vận động được cả nước đứng lên
thực hiện.
Muốn thế, ĐCSVN như đang là phải
làm được 2 việc:
·
(1)Phải nhận thức được đòi hỏi sống còn đưa quốc gia bước sang
thời kỳ phát triển mới trong một thế giới đã hoàn toàn thay đổi là trách
nhiệm ràng buộc của đảng; nếu ĐCSVN hôm nay từ
chối không làm, chống lại, hoặc làm hỏng… đều sẽ đồng nghĩa với phạm trọng tội
chống lại quốc gia, đảng không còn chính danh để tồn tại; nếu để xảy ra như thế,
cái trước sau phải đến không thể tránh được sẽ là: Chế
độ toàn trị sẽ dẫn tới “dân lật thuyền”, hoặc bị tha hóa làm cho sụp đổ, đất nước
lâm vào đại họa, chôn vùi theo toàn bộ sự nghiệp của đảng;
·
(2)đảng phải quyết tâm thay đổi chính mình trước, phải tin vào
nhân dân, và tự tin chính mình, quyết đi cùng với nhân dân mở ra trang sử mới đổi
đời này của đất nước. Làm được như thế, ngoài cái tha hóa và tham nhũng thối
nát ra, đảng không có gì để mất! Nắm mọi quyền lực trong tay, đảng đã dẫn dắt đất
nước đi vào tình thế đau lòng và hiểm nghèo hôm nay, đảng phải có trách nhiệm
ràng buộc tự lột xác mở lối ra cho đất nước! Đảng ra đời từ yêu nước, hy sinh cứu
nước đã làm nên sự nghiệp của đảng. Giữ được truyền thống này và có nhân dân, đảng
sẽ thực hiện được sứ mệnh lịch sử mới này.
Như thế, ĐCSVN như đang là cần tự
thay đổi mình trước thành đảng của dân tộc – như cố Thủ tướng Võ Văn
Kiệt cách đây 22 năm đã chính thức nêu ra với đảng (thư 09-08-1995). Đây là
điều kiện tiên quyết tất yếu. Chỉ trên cơ sở đó, đảng mới có thể đề xướng, có
khả năng và có chính danh để tiến hành cải cách, động viên được sự tham gia của
toàn dân.
Con đường đảng đã thay đổi thành đảng của dân tộc để cùng
với toàn dân tiến hành cải cách đổi đời đất nước, sẽ là con đường tất cả cùng
thắng rất lớn, và không gì có thể ngăn cản được. Tất cả chỉ còn
phụ thuộc duy nhất vào việc ĐCSVN như đang là dám
vứt bỏ mọi tha hóa và tham nhũng thối nát của mình, dám chặn đứng mọi sự can
thiệp vào nội bộ ta từ bên ngoài.
Làm được như thế,
đảng sẽ tránh được mắc phải trọng tội phản dân phản nước trước bước ngoặt của
lịch sử, trở thành đảng của dân, của nước và xác lập được cho mình con đường vì
dân, vì nước trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, kế thừa được truyền
thống cách mạng vẻ vang cứu nước của các thế hệ đi trước.
Đảng cần nuôi cho mình khát vọng làm được như thế, vì còn
gì đáng sống hơn cho một con người, cho một đảng viên và cho một đảng là trở
thành người đề xướng và chung tay với cả dân tộc mở ra một thời kỳ phát triển
mới của tổ quốc!? Đảng phải làm như thế để không phản bội các bậc tiền bối của
mình!
ĐSVN như
đang là quyết tự thay
đổi mình trước để làm được như thế, có thể nói sự nghiệp cải cách có ý nghĩa
sinh tử này của đất nước triển vọng thành công mười phần đã đạt được tới tám,
chín phần! Làm được như thế, Việt Nam bước lên con đường phát triển mới trong
thế giới mới hôm nay sẽ là lẽ tự nhiên, tất yếu, và bất khả kháng.
Vẫn cứ phải xin nhắc lại: Nếu đảng quyết không làm như
thế, thậm chí chống lại làm như thế, hoặc sợ không dám làm như thế, sẽ có nghĩa
đảng tự tay xóa bỏ toàn bộ sự nghiệp cách mạng của đảng và chống lại đất
nước. Trong tình hình nghiêm trọng hiện nay, nếu bây giờ lãnh đạo
đảng vẫn quyết như thế, thì nên tuyên bố công khai trước toàn dân, toàn thể các
đảng viên phải bầy tỏ thái độ rõ ràng của mình, các tầng lớp nhân nên dân huy
động trí tuệ của mình để quyết định. Cho đến nay đảng
đã thực hiện nhiều biện pháp chống lại cải cách: Điều 4 Hiến pháp,
19 điều cấm, nghị quyết 244, NQ TƯ 4 (30-10-2016) với 27 “biểu hiện” phải chống
(đặc biệt là nhóm 3 – biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ)… Bây
giờ đứng trước bước ngoặt của lịch sử đất nước, lãnh đạo đảng nhất thiết phải
xem lại. Hôm nay phải lột xác cứu đảng để mở đường cải cách cứu nước còn hơn cả
cứu hỏa! Bây giờ vẫn còn kịp!
Nội
dung cải cách có thể phác họa một cách tóm lược như sau:
Thứ nhất: Mục
đích cuối cùng và cũng là cao nhất cải cách chính trị ở nước ta hôm nay phải
đạt được nên là: Từ hòa giải, đoàn kết và đồng thuận dân tộc quật
khởi nên một quốc gia Việt Nam phát triển của toàn thể cộng đồng dân tộc Việt
Nam chúng ta – đúng với tinh thần đã nêu từ Cách Mạng Tháng Tám:
“Nước Việt Nam là của người Việt Nam!”, với các tiêu chí Dân
chủ, Cộng hòa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.
Thứ hai: Kinh
tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự là 3 trụ cột làm nên quốc gia
vững bền, phải được xây dựng và phát triển từng bước thích hợp trong tổng lộ
trình hình thành nên một nước Việt Nam phát triển, với các tiêu chí như đã nêu
trong điểm thứ nhất.
Thứ ba: Thể chế chính trị cần phải xây dựng là một nhà nước
pháp quyền dân chủ, có phân định rạch ròi các quyền lập pháp, quyền hành pháp
và quyền tư pháp, hoạt động ràng buộc nhau và kiểm soát lẫn nhau trong khung
khổ chung của một Hiến pháp mới; nhà nước này được xây dựng và hình thành trên
những nguyên tắc của bầu cử dân chủ. Kinh tế thị trường và xã hội dân sự là 2
yếu tố căn bản tạo dựng nên nhà nước pháp quyền này, vì lẽ này nhà nước pháp
quyền dân chủ tất yếu phải được xây dựng trên nền tảng của thể chế chính trị
dân chủ đa nguyên, được thiết kế theo một hiến pháp mới đúng với tinh thần nhà
nước do dân, của dân, vì dân. Đây phải là cái đích cuối cùng và
cao nhất của toàn bộ quá trình cải cách chính trị lần này, được thực
hiện dần từng bước dựa trên mọi thành quả kinh tế – chính
trị – xã hội và tiến bộ của quốc gia đạt được trong suốt quá trình tiến hành
cải cách này.
Học hỏi là động lực trí tuệ xuyên suốt quá trình này – vì
thế tôi gọi đó là thể
chế chính trị đa nguyên của học hỏi, của giác ngộ, của phát triển, bởi vì nó
được xây dựng từng bước và thường xuyên nâng cao theo tiến trình của giác ngộ
và phát triển; nó khác hẳn
với đa nguyên của bầy đàn, vô minh và hỗn loạn. Nói đơn giản: Đó là lấy mở rộng
tự do dân chủ tạo ra giác ngộ của trí tuệ và đồng thuận xã hội làm động lực cho
việc tiến hành cải cách, để từng bước xây dựng nên một thể chế chính trị mới.
Vì thế có thể nói: Cải cách chính trị lần này là tiến hành những cuộc vận động
chính trị lớn và sâu rộng trong toàn xã hội như đã từng làm thời Cách Mạng
Tháng Tám nhằm thay đổi sâu sắc toàn diện đời sống đất nước.
Thứ tư: Các
quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền sở hữu cá nhân, và các quyền con người
phải được thể hiện đầy đủ và được bảo đảm trong Hiến pháp, đồng thời được phản
ánh trong mọi bộ luật của quốc gia. Những quyền tự do ngôn luận,
tự do hội họp và lập hội, quyền biểu tình, quyền tự do báo chí phải
được xem và thiết kế là những quyền trực tiếp bảo đảm việc thực hiện các quyền
công dân và quyền con người, đồng thời những quyền này làm nhiệm vụ tạo nền
móng cho sự hình thành và hoạt động của xã hội dân sự, mang lại
động lực cho tiến hành cải cách. Quân đội, công an và các lực lượng
chuyên chính khác là công cụ bảo vệ đất nước và giữ gìn an ninh quốc gia, được
xây dựng và hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và luật pháp quốc gia, chỉ
trung thành với quốc gia, với nhân dân.
Thứ năm: Toàn
bộ các đảng phái chính trị, các loại hình hiệp hội cùng các thành viên
của nó chỉ được hoạt động trong khuôn khổ của xã hội dân sự, trong khuôn khổ
của Hiến pháp và pháp luật – bao gồm cả luật/các luật về các đảng phái chính
trị, hiệp, hội, các tổ chức dân sự khác… Tất đều bình đẳng trước pháp luật, tự
túc về tài chính và không được sử dụng tiền thuế của dân.
Một khi những cá nhân của những tổ chức này thông qua bầu
cứ dân chủ theo luật định được cử vào tham gia bộ máy nhà nước thì trở thành
đại diện của các cử tri bầu cho họ, hoạt động theo Hiến pháp, chứ không đại
diện cho các đảng phái hay các tổ chức chính trị xã hội xuất thân của họ. Khái
niệm đảng cầm quyền chỉ thuần túy là tên gọi không hơn không kém cho đảng phái
có nhiều thành viên (thường là chiếm đa số hoặc thông qua liên minh) tham gia
chính quyền. Nghĩa là: Không có các đảng phái hay các tổ chức
chính trị xã hội với tính chất là chính nó trong bộ máy và hệ thống pháp quyền
của nhà nước, đây là đặc chưng cốt lõi “nhà nước do dân, của dân, vì dân”.
…
Trên đây chỉ là một gợi ý sơ bộ để tham khảo. Tôi tin
rằng nếu lãnh đạo đảng huy động trí tuệ cả nước xây dựng chiến lược cải cách
đưa đất nước đi vào thời kỳ phát triển mới, chắc chắn đất nước sẽ có được một
chiến lược cải cách của toàn dân và nhất định thành công.
Tới đây tôi trân trọng đề nghị: Tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng, với trách nhiệm là người giữ cương vị cao nhất trong đảng,
yêu cầu Bộ Chính trị ra quyết định khép lại quá khứ, đoàn kết toàn Bộ Chính trị
và toàn đảng, huy động toàn đảng và dựa vào trí tuệ của nhân dân cả nước quyết
tiến hành cuộc cải cách chính trị không thể trì hoãn này. Đảng phải thay đổi
thành đảng của dân tộc để có thể dấy lên cuộc cải cách của toàn dân cứu nước và
đổi đời đất nước! Đây cũng là con đường cứu đảng thành đảng của dân tộc, mãi
mãi đi với dân tộc. Thời gian không chờ đợi. Mọi thách thức trong/ngoài đang uy
hiếp đất nước không biết chờ
đợi!
Trước những thách thức nghiêm trọng của quốc gia, tôi cầu
mong cả nước – đặc biệt là những đảng viên muốn cứu đảng để cứu nước – hãy lên
tiếng về vận mệnh đất nước, cùng nhau làm tất cả mọi việc vì đất nước với sự
giác ngộ cao nhất về cuộc cải cách phải tiến hành này!
Xin đọc tiếp 3 phục lục kèm theo
Phụ lục I
Về con đường cải cách đi qua ĐCSVN đã thay
đổi trở thành đảng của dân tộc
Nguyễn Trung
Thực trạng hiện nay
là:
·
Đảng như
đang là ngày càng không có dân đi với mình
và ngày càng bất cập do tha hóa và do nhiệm vụ đất nước đặt ra cho đảng ngày
càng vượt tầm, khiến đảng ngày càng bị thách thức, càng phải trấn áp để giữ chế
độ toàn trị;
·
trong xã hội dân sự hiện nay dân tình
ngày càng bức xúc và không có đường lùi; dân hiện nay tuy chưa đủ sức lật thuyền
xóa bỏ đảng, nhưng tình hình ngày càng đến gần tức nước vỡ bờ, cùng tắc biến;
·
tình hình từ hai, ba khóa đại hội nay
cho thấy mâu thuẫn giữa một bên đảng một bên dân nói trên gây ra nhiều xung đột
ngày càng lớn và quyết liệt, hoặc ngầm ngầm, hoặc bùng nổ công khai. Tình trạng
bế tắc này tự nó đang hấp dẫn ngày càng mạnh mẽ những bi kịch tồi tệ nhất đến với
đất nước, với mọi kết cục thê thảm có thể.
Trong những bi kịch có
thể xảy ra này, bạo loạn lật đổ, hoặc chế độ tự sụp đổ là nguy hiểm nhất, sẽ có
thể mang lại cho đất nước đau khổ và tổn thất lớn nhất. Bởi vì sự phá hủy này
nếu xảy ra sẽ chỉ đem lại điêu tàn cho đất nước. Trong cái bầu không khí chiến
tranh lạnh muốn ăn thịt người trên thế giới hiện nay, nhất là Việt Nam lại nằm
ở vị trị địa đầu trong khu vực, sẽ không sao đoán trước được cái gì sẽ xảy ra
cho nước ta tiếp theo sự phá hủy này! Điều chắc chắn: Quốc gia bạo loạn, nạn
“đục nước béo cò” dù là cò “nội” hay cò “ngoại” sẽ tìm đến như kền kền tìm xác
thối! Mong đừng ai mù quáng tưởng rằng đấy sẽ là “sự phá hủy sáng tạo” của
Schumpeter! Chỉ cần xem ai là người khích cho nước ta phải rối ren hơn nữa, sẽ
thấy ngay sự phá hủy này có thể mang lại cho đất nước những gì. Song giữ nguyên
trạng chế độ toàn trị ngày càng ruỗng nát thế này, trước sau cũng tất yếu dẫn
tới bạo loạn!
Hai năm khóa đại hội
XII cho thấy: Mọi nỗ lực rất quyết liệt và chật vật nhằm cứu vãn tình hình cho
đến nay của đảng và của chế độ toàn trị trong mọi lĩnh vực cuộc sống đất nước
chỉ là “bịt lỗ hà, ra lỗ hổng”, hoặc là “giật gấu vá
vai”. Hệ thống kinh tế và hệ thống chính trị – xã hội của đất nước dù
có vắng bớt được đôi ba bộ mặt tham nhũng xấu xí; song chồng chéo, manh mún, ăn
bám, tham nhũng, và mục ruỗng của hệ thống trước sau vẫn nguyên vẹn. Nghĩa là:
(a) cỗ máy sản sinh ra mọi tội lỗi của chế độ toàn trị, và (b) hiện trạng nguy
hiểm của đất nước đều còn nguyên vẹn, và tình hình mọi mặt đang ngày càng rối
thêm. Đất nước đang èo uột tiếp để chịu bó tay làm mồi cho mọi ý đồ xấu xa phía
trước. Trong khi đó thời gian và mọi thách thức trong / ngoài không biết chờ
đợi. Khoanh tay bất lực ngồi yên, hay cứ loay hoay mãi ngứa đâu gãi đấy, cháy
đâu chữa đấy như đang làm, đều đồng nghĩa với tự sát. Phải nhìn thẳng vào sự
thật này để không lạc hướng trong lúc tìm lối ra cho đất nước: Lột
xác cứu đảng để cải cách mở đường cứu nước – lẽ ra đây phải là nội dung duy
nhất của Đại hội XII!
Chỉ có con đường sống:
Đảng phải thay đổi chính mình thành đảng của dân tộc, còn dân quyết đi cùng với
đảng đã thay đổi, để cùng sống, sống được, trên hết là để có thể cùng nhau thực
hiện cải cách cứu mình và cứu nước, và mở ra cho đất nước thời kỳ phát triển
mới.
Lý tưởng nhất, con
đường này sẽ là: Bộ Chính trị huy động trí tuệ cả nước và trong
Đảng, vận dụng những kinh nghiệm thành / bại trên con đường phát triển của
chính nước ta và các nước khác trên thế giới xây dựng nên chiến lược cải cách
của ta, sau đó làm cho chiến lược cải cách trở thành nghị quyết của toàn Đảng –
bắt đầu là của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Sau cùng là việc thay đổi đảng
thành đảng của dân tộc và thực hiện cải cách trở thành nghị quyết của Đại hội
Đảng toàn quốc.
Thực hiện nghị quyết
đại hội, đảng – thông qua đảng viên và các tổ chức cơ sở của mình – làm nhiệm
vụ hạt nhân lãnh đạo và đồng thời là lực lượng nòng cốt vận động nhân dân cả
nước tiến hành cuộc cải cách này theo kế hoạch và các bước đã
thiết kế được, với tổng lộ trình gồm 2 phần trước sau dưới đây:
·
(A)Đảng
tiến hành thay đổi chính mình trước trở thành một đảng mới: đảng của dân tộc;
sau đó
·
(B)Triển
khai trong cả nước chiến lược cải cách của đảng mới.
Đại thể cải cách có
thể chia thành 3 giai đoạn sau đây:
Giai đoạn I
Hoàn thành phần A của
tổng lộ trình, làm xong việc chuyển đổi thành đảng mới với cương lĩnh mới, điều
lệ mới, tiến hành tổ chức lai đảng theo tinh thần lấy xã hội dân sự làm môi
trưởng rèn luyện, phấn đấu và hoạt động của đảng, với mục tiêu trở thành lực
lượng chính trị mạnh nhất và có tính tiền phong chiến đấu cao trong xã hội dân
sự. Đảng mới sẽ tiến hành mọi hoạt đông thực hiện các nhiệm vụ của mình theo
tinh thần “Điều 4” của Hiến pháp hiện hành không còn tồn tại nữa trong thực tế
(vì lúc này chưa có Hiến pháp mới). Có những
điểm nổi bật sau đấy:
1. Cương
lĩnh mới của ĐCSVN đã chuyển hóa thành đảng yêu nước của dân tộc và dân chủ –
nên lấy lại tên cũ là Đảng Lao động Việt Nam, gồm 3 phần chính (a)khẳng định mục
tiêu xây dựng một nước Việt Nam phát triển theo con đường dân tộc và dân chủ,
hòa nhập cộng đồng thế giới vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, phấn
đấu giành vị thế xứng đáng trong kinh tế thế giới toàn câu hóa ở giai đoạn hiên
nay; (b)xây dựng một thể chế chính trị / nhà nước dân tộc và dân chủ của hòa giải
và đoàn kết dân tộc dựa trên kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội
dân sự, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ đất nước của nhân dân; (c)chuyển đổi và
xây dựng ĐCSVN hiện nay thành đảng yêu nước của dân tộc và dân chủ trên cơ sở
gìn gữ và phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước, sự nghiệp giành độc lập
thống nhất, các giá trị của dân tộc và của văn minh nhân loại, nguyện phấn đấu
đi tiên phong trong hàng ngũ dân tộc vì sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam độc lập,
thống nhất, hòa bình, dân chủ, giầu mạnh, công bằng, văn minh.
2. Điều
lệ đảng mới bảo đảm cho đảng viên và toàn đảng được tổ chức và xây dựng phù hợp
tình hình và nhiệm vụ mới của đất nước, đòi hỏi đảng viên thông qua học tập
nâng cao kiến thức và giác ngộ chính trị để có năng lực và phẩm chất lấy xã hội
dân sự làm môi trường phấn đấu; gương mẫu mọi mặt để có thể trở thành hạt nhân
lãnh đạo trong mọi hoạt động của xã hội dân sự, qua đó phát huy ý chí, nội lực
và sự sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cải cách đòi hỏi;
khơi dậy mọi sáng kiến và phong trào của nhân dân trong xã hội dân sự, đi tiên
phong xây dựng những phong trào vận động lớn của toàn quốc hoặc từng vùng miền,
từng lĩnh vực để giải quyết những vấn đề trọng đại trong kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội; đẩy mạnh cải cách giáo dục, xây dựng nếp sống mới tôn trọng luật
pháp và các quyền của công dân, quyền con người; tạo ra những chuyển biến mới mọi
mặt của đất nước, thực hiện những kế hoạch phát triển, tạo công ăn việc làm mới,
tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam, gìn giữ môi trường tự
nhiên, tranh thủ đầu tư nước ngoài và hợp tác quốc tế. Xây dựng mới phù hợp với
hiến pháp và pháp luật mới (sẽ phải có) những tiêu chuẩn của đảng viên và tổ chức
đảng các cấp phù hợp với thể chế chính trị dân chủ pháp quyền và khả năng hoạt
động của đảng / các tổ chức cơ sở đảng trong xã hội dân sự để trở thành lực lượng
chính trị có khả năng đi tiên phong trong mọi tiến bộ của đất nước; lấy thúc đẩy
những thành quả đạt được trong vận động xã hội dân sự thành những động lực bên
cạnh những động lực kinh tế – chính trị – xã hội khác góp phần thúc đẩy sự phát
triển và những tiến bộ mới của đất nước; cho ra khỏi đảng những đảng viên không
muốn hoặc không đủ điều kiện là đảng viên của đảng mới, đẩy mạnh kết nạp đảng
viên mới – trước hết là trong đối tượng thanh niên, học sinh, sinh viên, trí thức,
doanh nhân giỏi.., nhằm mang lại cho đảng năng lực và sức sống mới, dứt khoát vứt
bỏ chủ nghĩa lý lịch và chủ nghĩa thành phần và hậu duệ. Qua thực tiễn phấn đấu
này rèn luyện đảng trở thành lực lượng chính trị nòng cốt và đội ngũ tiên phong
của một nước Việt Nam mới: Đảng theo đuổi những giá trị của dân tộc và dân chủ,
những tiến bộ mới của trí tuệ và văn minh nhân loại.
Xin đặc biệt lưu ý về đảng: Đối tượng vận động của đảng chính trị luôn luôn là nhân
dân. Quan điểm đúng đắn này đã được nhấn mạnh: Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng (nói đúng hơn: Cách mạng là sự nghiệp của
nhân dân). Trung thành với quan điểm này, đảng đã làm nên thắng lợi của 4 cuộc
kháng chiến vỹ đại.
Ngày nay, cải cách
là để xây dựng quốc gia độc lập có chủ quyền của thể chế chính trị pháp quyền
dân chủ, trong đó nhân dân là chủ đất nước với tính cách là công dân trong xã
hội dân sự. Vì thế trong cải cách đổi đời đất nước, Cương lĩnh và Điều lệ mới
của đảng (đã thay đổi trở thành đảng của dân tộc) cần làm rõ nhiệm vụ của đảng
và đảng viên là phải có phẩm chất, năng lực, xác định mục tiêu phấn đấu
là lấy xây dựng và phát triển xã hội dân sự làm môi trường nuôi
dưỡng và phát huy sự trưởng thành, quyền năng và sức mạnh của công dân, coi đây
là mặt trận chính trị số một của đảng để thực hiện hòa giải, đoàn kết và phát
huy sức mạnh toàn dân tộc cho nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thế
giới hôm nay. Đây là nhiệm vụ cơ bản hàng đầu của một đảng lãnh
đạo trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, khác hẳn với thời kỳ làm nhiệm
vụ cách mạng giành độc lập và kháng chiến cứu nước! Đặc điểm mới
này quyết định bản chất hoàn toàn mới của đảng, đồng thời
đòi hỏi phải có đường lối mới và tổ chức mới của đảng mà cố Thủ
tướng Võ Văn Kiệt đã đề cập tới (thư 09-08-1995). Nhiệm vụ đổi mới ĐCSVN như
đang là thành đảng của dân tộc trước hết là hiểu theo tinh thần
này. Chủ động xây dựng và phát triển xã hội dân sự như thế là môi trường rèn
luyện phẩm chất của tính chiến đấu và tính tiền phong của đảng, đồng thời là bí
quyết để phấn đấu giành về cho đảng vai trò lãnh đạo trong thể chế chính trị
dân chủ đa nguyên. Đây là những đòi hỏi rất cao về trí tuệ, bản lĩnh và các
phẩm chất thuộc các phạm trù đạo đức và giá trị. Tất cả nói lên ĐCSVN như
đang là phải thay đổi hoàn toàn về bản chất, đúng với quy luật:
nhiệm vụ mới của đất nước đòi hỏi phải có đảng chất lượng mới, nếu không muốn
bị loại bỏ. Có thể tổng kết: Trước 30-04-1975 là
giai đoạn làm nhiệm vụ cách mạng để giành độc lập
thống nhất, sau 30-04-1975 là làm nhiệm vụ phát triển để
xây dựng và bảo vệ tổ quốc; vì không nhận thức được sự khác nhau của 2 nhiệm vụ
chính trị là cách mạng và phát triển như
thế để thay đổi, nên 42 năm qua từ đảng lãnh đạo đảng đã biến chất thành đảng
cai trị, không oan uổng!
3. Ra
Tuyên bố của ĐCSVN chuyển đổi thành đảng yêu nước của dân tộc và dân chủ (nên đổi
tên là Đảng Lao Động Việt Nam – “ĐLĐVN”), tuyên bố trước quốc dân đồng bào và
toàn thế giới quyết định đổi mới thành đảng yêu nước của dân tộc và dân chủ
(“ĐLĐVN”), làm rõ đất nước đã hoàn thành một giai đoạn phát triển, ngày nay phải
chuyển sang một giai đoạn mới để trở thành một nước phát triển trong một thế giới
đã sang trang đi vào thời kỳ của một cục diện quốc tế mới. Khẳng định mục tiêu
chiến lược của đảng mới là kế tục mọi thành tựu đất nước đã giành được đến nay
để đưa đất nước lên con đường trở thành nước phát triển của một thể chế chính
trị / nhà nước dân tộc và dân chủ dựa tên kinh tế thị trường – nhà nước pháp
quyền – xã hội dân sự, nhằm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập thống
nhất, dân chủ và giầu mạnh; lấy hòa giải đoàn kết dân tộc và phát huy các giá
trị truyền thống của dân tộc và của văn minh nhân loại làm động lực thực hiện mục
tiêu trọng đại này; kêu gọi toàn dân nỗ lực chung vai sát cánh với đảng thực hiện,
đảng nguyện trung thành với lợi ich của nhân dân và của đất nước, phấn đấu trở
thành chỗ dựa tin cậy và là lực lượng nòng cốt của cả nước trong thực hiện cuôc
cải cách đổi đời đất nước cũng như trên con đường đưa đất nước trở thành nước
phát triển theo kịp tiến bộ của nhân loại.
Đảng ra tuyên bố trước toàn thế giới về quyết định thực
hiện cuộc cải cách trọng đại này, khẳng định xây dựng một nước
Việt Nam hòa bình, độc lập thống nhất, dân chủ và giầu mạnh, vì hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển trong quan hệ với moi quốc gia và với các tổ chức
quốc tế và khu vực; lấy phát huy hòa giải đoàn kết dân tộc, các giá
trị của dân tộc, tự do, dân chủ, bảo vệ và phát huy các quyền con người và bảo
vệ môi trường làm động lực xây dựng và bảo vệ đất nước. Việt Nam khẳng định
theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, tôn trọng luật pháp quốc tế, làm
tròn trách nhiệm của thành viên Liên hiệp quốc; Việt Nam kêu gọi mọi quốc gia
và mọi tổ chức quốc tế và khu vực chủ động góp phần mình gìn giữ hòa bình, bảo
vệ tự do lưu thông hàng hải, và giải quyết hòa bình mọi tranh chấp có liên quan
đến vấn đề chủ nguyền trên trong Biển Đông theo tinh thần UNCLOS 1982 và luật
pháp quốc tế, cùng chung sức phát huy vai trò của ASEAN xây dựng Đông Nam Á
thành khu vực của hòa bình, hợp tác và phát triển, qua đó góp phần vào hòa bình
và sự thịnh vượng chung của thế giới. Trong trường hợp Việt Nam bị xâm lược,
Việt Nam quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của mình,
đồng thời giành cho mình quyền kêu gọi sự giúp đỡ của cộng đồng thế giới. Nói
thì ngắn gọn như vậy, song nội dung là quyết xây dựng đối nội và theo đuổi một
đường lối đối ngoại dấn thân, để tạo ra vị thế quốc gia mới
cho đất nước.
Ngay sau khi ra 2 tuyên bố nói trên, trả lại tự do cho
tất cả những người bị tù vì bất đồng chính kiến với chế độ chinh trị, khuyến
khích và tạo mọi điều kiện cho họ đem hết sức mình tham gia cuộc cải cách vỹ
đại của đất nước; đồng thời tiến hành cuộc vận động lớn trong cả nước thực hiện
hòa giải và đoàn kết dân tộc, tạo ra sự đồng thuận của toàn dân tộc tiến hành
thắng lợi cuộc cải cách đổi đời đất nước.
Trong giai đoạn I này, như một khởi động đầu tiên của
toàn hệ thống chính trị – xã hội cả nước, đảng tiến hành ngay cuộc vận động lớn
trong cả nước thực hiện tiết kiệm triệt để chi tiêu – trước hết gương mẫu cắt
giảm mọi chi tiêu có thể cho đảng và trong đảng, để cứu nguy thâm hụt ngân sách
quốc gia, dồn mọi nguồn lực cho yêu cầu phát triển của kinh tế. Qua
cuộc vận động này xây dựng và hình thành một phong cách làm ăn trung thực, hiệu
quả, tiết kiệm trong cả nước. Từ đó xây dựng những chuẩn mực đạo
đức và chính trị đầu tiên của quốc gia cần xác lập cho toàn bộ sự nghiệp đưa
đất nước trở thành nước phát triển. Tạo dựng được phong trào mở đầu nhưng rất quan
trọng này, hy vọng những giá trị tốt đẹp sẽ được củng cố và có sức sống mới,
đồng thời đất nước sẽ nảy nở những tinh hoa và trí tuệ mới. Đây có thể là cái
đà đầu tiên vận động toàn bộ quá trình cải cách và xây dựng đất nước.
Tóm lại, giai đọạn I thực hiện xong nhiệm vụ đảng tự thay
đổi và cải cách đảng trước về đường lối, về tổ chức và về phương thức hoạt
động, để có khả năng xây dựng xong và triển khai chiến lược cải cách &
phương thức / kế hoạch thực thi trong cả nước. Trên cơ sở tự cải cách chính mình
trước như vậy, đảng chủ xướng và dẫn dắt cả nước thực hiện cuộc cải cách trọng
đại này.
Ngay lập tức (nghĩa là trong khi chưa có Hiến pháp mới)
đảng chuyển sang hoạt động theo phương thức của đảng cầm quyền trong một thể
chế chính trị pháp quyền dân chủ (trước hết với tinh thần trên thực tế coi như
không còn “Điều 4”), lấy xã hội dân sự làm địa bàn hoạt động chủ yếu, thực hiện
những sửa đổi / cải cách bước đầu cần thiết hệ thống hành chính quốc gia để bảo
đảm yêu cầu xúc tiến cải cách, duy trì đươc sự vận hành liên tục của mọi lĩnh
vực trong cuộc sống trong suốt thời gian tiến hành cải cách, không để xảy ra
khoảng trống quyền lực.
Giai đoạn II
·
Thực hiện tiếp những bước cải cách cụ thể đã đề ra trên cơ sở về
cơ bản giữ bộ khung cũ của toàn bộ hệ thống hành chính sự nghiệp với những thay
đổi cần thiết về tổ chức, cơ chế hoạt động, nhân sự, song song với thi hành những
chính sách mới hoặc những quy định mới đúng với tinh thần và nội dung của cải
cách. Đặc biệt chú trọng xây dựng và thực hiện ngay những luật cơ bản (có thể
là những Luật tạm thời trước khi có Hiến pháp mới) về tự do báo chí, tự do
thành lập hiệp hội, về quyền biểu tình, về quyền thể hiện ý chí của nhân dân, về
quyền con người, bảo đảm thực hiện công khai minh bạch và trách nhiệm giải
trình.., qua đó tạo ra động lực quyết định xúc tiến cải cách. Tất cả những hoạt
động này dựa trên nền tảng nâng cao dân trí và tinh thần thượng tôn pháp luật,
hòa giải và đoàn kết của nhân dân cũng như của hệ thống chính trị / nhà nước… Tất
cả những bước đi mới này nhằm phát huy mọi động lực toàn xã hội thúc đẩy tiến
trình cải cách diễn ra năng động và hiệu quả, giảm thiểu ở mức có thể nhất mọi
xung đột hay tổn thất không đáng có, kết hợp với xây dựng và thực hiện nếp sống
văn minh, gìn giữ và phát huy những giá trị đạo đức xã hội.
·
Xây dựng những chính sách và chủ trương thực hiện mới để thực hiện
song song các nhiệm vụ phát triển kinh tế, giải quyết những nhiệm vụ chính trị
/ văn hóa / xã hội phải tiến hành, thực hiện những bước cải cách giáo dục ở
giai đoạn này phù hợp với tiến trình của cải cách. Đây vừa là những nhiệm vụ
phát triển cụ thể phải thực hiện song song với tiến trình cải cách, đồng thời tạo
tiền đề tiến hành thay đổi / xây dựng các bộ luật mới.
·
Bàn hành dự thảo hiến pháp mới huy động toàn dân tham gia xây dựng.
·
Ban hành dự thảo và thông qua Luật về các đảng phái chính trị và
các tổ chức đoàn thể xã hội để xây dựng thành bộ luật chính thức sau này làm cơ
sở pháp lý cho hoạt động của mọi đảng phái chính trị và đoàn thể xã hội. Bộ Luật
này bảo đảm các đàng phái chính trị và đoàn thể xã hội bình đẳng trước pháp luật,
tự chủ về tài chính, không được sử dụng thuế và ngân sách của nhà nước, lấy xã
hội dân sự làm môi trường phát triển và hoạt động của mình, đồng thời góp phần
bảo đảm trong hệ thống chính trị / nhà nước và bộ máy vận hành của quốc gia chỉ
có Hiến pháp và luật pháp quyết định tất cả.
Giai đoạn III
Thông qua Hiến pháp mới, đồng thời thực hiện tiếp mọi
bước đi của cải cách trong giai đoạn này, xây dựng / hoàn thiện những luật pháp
và thể chế kinh tế theo Hiến pháp và hệ thống pháp luật mới. Thành tựu phát
triển kinh tế và sự ra đời của thể chế chính trị / nhà nước mới theo Hiến pháp
mới là thước đo nội dung và quá trình tiến triển của cải cách ở giai đoạn này.
Nên tham khảo mô hình thế chế chính trị / nhà nước và bộ
máy hành chính sự nghiệp của Singapore, Nhật và Hàn Quốc để vận dụng vào nước
ta theo tinh thần của Tuyên ngôn Độc lập 02-09-1945, Hiến pháp 1946 và cách tổ
chức quốc hội 1946, được bổ sung những nét cập nhật phù hợp với đòi hỏi của đất
nước và bối cảnh quốc tế hiện tại. Nét đặc trưng chung của 3 mô hình này
(Singapore, Nhật, Hàn Quốc) là tính tập trung để tạo ra khả năng quyết đoán
cao, đồng thời bảo đảm được dân chủ, tính công khai minh bách và trách nhiệm
giải trình.
Trên cơ sở những bước tiến mới nói trên, tiến hành xây
dựng một thể chế chính trị / nhà nước đa nguyên, hình thành một số đảng chính
trị mới theo Hiến pháp mới và Luật về đảng phái chính trị và các tổ chức xã hội
dân sự như đã được thông qua ở giai đoạn II.
Nên xây dựng các lý lẽ thuyết phục, và được bảo đảm bằng
bộ luật về các đảng phái chính trị và đoàn thể nói trên được thiết kế phù hợp,
để hình thành thêm các đảng chính trị mới có thể tham chính thông qua Luật bầu
cử dân chủ tự do và theo quy định của Hiến pháp.
Ở nước ta, hợp lý nhất có lẽ chỉ nên hình thành thêm 2
đảng tham chính mới như đã từng có trong thời đầu của nước VNDCCH – đó là đảng
Dân Chủ và Đảng Xã hội – song phải là 2 đảng có thực quyền và bình đẳng trước
pháp luật như mọi đảng khác theo Luật. Nếu có nhiều đảng nữa sẽ rối và không
cần thiết. Hiến pháp và các bộ Luật liên quan cần được thiết kế sao cho bảo đảm
nghiêm túc yêu cầu: thực hiện đa nguyên, nhưng bảo đảm không quá 3 đảng tham
chính trong tranh cử và bầu cử; thủ lĩnh của đảng có đa số ghế lớn nhất trong Quốc
hội sẽ là tổng thống với chức năng là người đại diện quốc gia cao nhất và có
quyền lực cao nhất cả nước; thủ tướng là người trực tiếp điều hành nội các
(chính phủ) do tổng thống bổ nhiệm và được quốc hội chấp thuận; với điều kiện
của nước ta, nên thực hiện chế độ 1 viện duy nhất là quốc hội; tuy nhiên nên
thực hiện chế độ bầu cử từng phần so le để bảo đảm sự hoạt động liên tục của
quốc hội (không bị gián đoạn qua mỗi kỳ bầu cử). Tiến hành bầu cử thành lập hệ
thống nhà nước theo Hiến pháp mới, nên mời sự giám sát quốc tế cuộc bầu cử để
nâng cao uy tín của chính thể mới, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ / hậu thuẫn
của cộng đồng quốc tế.
Nên chuẩn bị sớm một chiến lược cải cách như trên để được
thông qua sớm nhất có thể tại một đại hội đảng toàn quốc bất thường, sau đó
triển khai thực hiện. Nhưng ngay sau khi Bộ Chính trị đã đi tới được quyết định
phải tiến hành cải cách, Bộ Chính trị nên có ngay một tuyên bố trình bầy rõ
quyết định chiến lược này, kêu gọi cả nước và toàn đảng đoàn kết và phát huy
tinh thần yêu nước đem hết tâm huyết tham gia sự nghiệp cách bằng mọi hành động
và việc làm thiết thực, dấy lên trong cả nước một hào khí mới, làm cho nhân dân
và từng đảng viên ngay từ ngày đầu tiên cảm nhận được sự nghiệp cải cách này là
trách nhiệm của chính mình, chủ động làm mọi việc có thể góp phần tham gia của
mình.
Trong quá trình chuẩn bị Đại hội XII tôi đã kiến nghị
thành lập nhóm ad hoc gồm các đồng chí Bùi Quang Vinh, Vũ Đức Đam và Phạm Bình
Minh giúp đảng xây dựng nội dung Đại hội theo hướng xúc tiến cải cách nói trên.
Nay tôi xin đề nghị một lần nữa: Bộ Chính trị nên quyết định lập sớm một nhóm
như thế giúp đảng bắt tay ngay vào việc chuẩn bị và xây dựng chiến lược cải
cách.
Trên đây chỉ là những gợi ý thô sơ ban đầu để tham
khảo.
_____
Phụ lục II
Về
chủ nghĩa Mác – Lênin
Nguyễn Trung
Muốn tiến hành cải cách chính trị, đảng phải chủ
động loại bỏ “chủ nghĩa Mác – Lênin” và ý thức hệ đi kèm. Bởi các lẽ:
1. Đảng
phải từ bỏ ý thức hệ lỗi thời để thay đổi chính mình thành đảng yêu nước của
dân tộc và dân chủ.
2. Giai
đoạn phát triển mới của đất nước đòi hỏi đảng phải có một thế giới quan mới xác
lập được con đường phát triển theo các giá trị của dân tộc và dân
chủ, giành được vị thế quốc gia mới trong
thế giới hôm nay.
3. Chứng
minh trước nhân dân và tranh thủ được lòng tin của nhân dân là đảng đã trở
thành một đảng mới của dân tộc và dân chủ mà sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước trong thế giới hôm nay đòi hỏi.
Nên có những công trình nghiên cứu khoa học và nghiêm túc
giải quyết thấu đáo, thuyết phục nhiệm vụ khó khăn này để giải phóng tư duy
theo tinh thần loại bỏ những cái sai và lỗi thời, gìn giữ những giá trị đúng
đắn, hướng về những giá trị mới mà thực tế khách quan của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước đòi hỏi.
Trong khuôn khổ tâm sự và trao đổi, chỉ xin nêu ra một số
suy nghĩ ban đầu dưới đây.
Trước hết xin nói ngay: Cả Mác và Lênin đều không sáng
lập ra chủ nghĩa này – nó không tồn tại.
Chính bản thân Mác – và cả Ăng-ghen – đều cho tác phẩm
trí tuệ của mình là lý luận mang tính giải thích và thúc đẩy sự phát triển của
cuộc sống. Mác và Ăngghen suốt cuộc đời mình đã nhiều lần tiếp tục điều chỉnh
những chỗ sai, có nhiều sửa đổi quan trọng, bám vào thực tiễn và sự vận động
của lịch sử để tiếp tục phát triển lý luận của mình. Tới nay đã có thể lọc ra
khoảng 9 – 10 lần Mác và Ăngghen đã có những thay đổi như thế. Cả Mác và
Ăngghen đều coi lý luận của mình là mở, đòi hỏi vận dụng sáng tạo bám sát cuộc
sống chứ không giáo điều, không bao giờ coi nó là học thuyết hay chủ nghĩa mang
tính khuôn sáo, áp đặt.
Còn Lênin cũng chưa từng đưa lý luận Mác lên thành một
thứ chủ nghĩa, cũng chưa hình thành được chủ nghĩa riêng của Lênin, vì bản thân
Lênin còn đang viết NEP (the New Economy Policy – Chính sách kinh tế mới, 1924)
dở dang thì qua đời. Trước khi soạn thảo NEP, điều bổ xung của Lênin vào học
thuyết Mác là quan điểm “chuyên chính vô sản”. Song trong quá trình viết NEP
chính Lênin không nhắc tới hoặc đã thay đổi quan điểm này. Thực tế cũng đã
chứng minh CCVS là sai lầm.
CNML như được nói tới, được hiểu và dạy, được thực hành
trong ĐCSVN và ở nước ta cho đến hôm nay được lấy ra từ các phiên bản “Liên Xô”
và “Trung Quốc” (nghĩa là không phải từ gốc), có đôi chút biến báo vì lý do
phiên dịch hoặc vì theo cách hiểu của Việt Nam, vừa có nhiều cái sai so với
những điều Mác viết ra, vừa đã tự chứng minh là sai trong thực tiễn Việt Nam 42
năm nay.
Sự thật là CNML được các lãnh tụ của phong trào cộng sản
(Stalin, khoảng năm 1927, một số nhân vật khác…) chắt lọc chủ yếu từ Tuyên ngôn
Cộng sản, rồi dựng lên thành một chủ nghĩa, một học thuyết nhằm xác lập vai trò
độc tôn lãnh đạo cách mạng (trước hết lúc đó là của Liên Xô) và sự tồn tại của
ĐCS với tính cách là một đảng độc tôn như thế, và để chi phối mọi tư duy và
hành động của toàn xã hội theo quan điểm của ĐCS. Nội dung cốt lõi là xóa bỏ tư
hữu tư liệu sản xuất, thiết lập chuyên chính vô sản, coi đấu tranh giai cấp là
động lực của phát triển.
Ngoài ý nghĩa là một cẩm nang của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, CNML như vậy có thể được xem như sự khẳng định vai trò lãnh đạo tư duy
của LX (và phần nào cả tôn sùng cá nhân Stalin, sau này Khru-sốp đã bác bỏ,
nhưng ở ta lại phê phán Khru-sốp là xét lại) trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế.
Mác viết Tuyên ngôn Cộng sản năm 30 tuổi (1848), và hầu
như đây là tác phẩm duy nhất Mác đề cập đến chủ nghĩa cộng sản một cách đầy đủ
nhất với tính cách là một hình thái xã hội mới tất yếu sau chủ nghĩa tư bản.
Song trong toàn bộ cuộc đời còn lại sau đó, Mác hầu như bỏ không theo cách tiếp
cận như vậy nữa, mà đi sâu vào bản chất sự vận động và phát triển của chủ nghĩa
tư bản đương thời. Dù không kiên định, song đã có lúc Mác thừa nhận không thể
làm thầy bói cho lịch sử như các dự báo của mình, cho rằng lịch sử chỉ chấp
nhận may đo, chứ không thể ốp may sẵn (Việt Phương). Mác đã hoàn thành “Tư
bản” tập I, sau đó Ăngghen từ những phần việc dở dang của Mác hoàn thành tiếp
“Tư bản” II và III, trong đó hầu như không nói tới chủ nghĩa cộng sản nữa. Đáng
chú ý là: sau này Mác, song rõ nhất là Ăngghen nhân dịp 25 năm TNCS, đều coi
TNCS chỉ có giá trị lịch sử, cuộc sống hoàn toàn không diễn ra như đã viết
trong TNCS. Một số quan điểm quan trọng khác của Marx về đấu tranh giai cấp, về
quy luật bóc lột giá trị thặng dư, về quy luật tiến hóa của lịch sử… cũng cho
thấy nhiều chỗ không đúng và càng không theo kịp cuộc sống ngày nay… Trong khi
đó những phân tích của Marx về chủ nghĩa tư bản cho đến hôm nay vẫn có nhiều
giá trị thời sự[1].
Một vấn đề vô cùng hệ trọng liên quan đến vấn đề đang
bàn: Từ 6 – 7 thập kỷ nay nhiều công trình nghiên cứu khoa học và nhiều học giả
có uy tín trên thế giới đánh giá thống nhất: chế độ của Hítle, Stalin và Mao có
3 đặc điểm giống nhau:
·
(1)thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước – dù tên gọi của nó là
gì,
·
(2)tẩy não (chỉnh huấn, học tập, cải tạo…) để mọi người phải
trung thành với chế độ,
·
(3)biến con người thành công cụ với đòi hỏi phải phục vụ tuyệt đối
chế độ (thông qua hiến pháp, luật pháp, chính sách…).
Chủ nghĩa xã hội quốc gia của Hítle (Đức quốc xã) muốn
dựng lên một đế chế của giống ngưới Aryan thượng đẳng, song hiện thân của nó là
chủ nghĩa phát-xít Đức, và nó là thủ phạm số 1 gây ra chiến tranh thế giới II.
Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô lúc đầu là cái nôi và là thành
trì của cách mạng vô sản thế giới, song tha hóa dần hướng về một đế chế trong
quan hệ giữa Nga và các nước trong Liên bang xô viết, cũng như giữa Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu với nhiều rạn nứt, để cuối cùng là tan vỡ.
Ngay từ lúc quy mô nền kinh tế Trung Quốc còn đứng rất xa
ngoài tốp 50 nước đứng đầu thế giới, chủ nghĩa xã hội/chủ nghĩa cộng sản của
Mao với quan điểm “gió Đông thổi bạt gió Tây” đã mang màu sắc bá quyền. (Trung
Quốc không theo CNML vì chống Liên xô, mà chỉ một thời nêu là “chủ nghĩa Mác”).
Cả 3 chế độ toàn trị nói trên đều có những thảm sát đẫm
máu lịch sử sẽ không thể quên, những tội ác hủy hoại đến tận cùng quyền con
người.
Trong khi đó những khát vọng thể hiện đặc trưng hay thuộc
tính của chủ nghĩa xã hội hiện thực hôm nay xuất phát từ những khát vọng xa xưa
của loài người, sớm nhất là từ thời Plato và Aristotle thuộc nền văn minh Hy
Lạp. Rồi những giá trị này trở thành những quan điểm chính trị rõ rệt ở thế kỷ
thứ 16, nổi bật là Thomas More (The Utopia), và ngày nay vẫn là hoài bão của loài
người về các giá trị của tự do, hạnh phúc…
Chủ nghĩa xã hội hiện thực – có thể nói như vậy – hôm nay
được thấy trước hết ở các nước Bắc Âu, thuộc phong trào dân chủ xã hội – nghĩa
là hoàn toàn không phải là sản phẩm của CNML. Tiền thân của phong trào dân chủ
xã hội ngày nay là Quốc tế II mà Marx và Engels lúc sinh thời đã phê phán rất
quyết liệt, cho là cải lương và thủ tiêu đấu tranh giai cấp. Song sang thế kỷ
21 phong trào dân chủ xã hội trên thế giới cũng đang đi vào thời kỳ thoái trào,
xã hội loài người đứng trước nhiều vấn đề mới truyền thống và phi truyền thống,
những bất công mới, những đòi hỏi mới trong quá trình toàn cầu hóa ngày nay;
đồng thời – như 2 mặt của một đồng xu, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt
ra nhiều thách thức mới…
Vậy CNML với tính cách là nền tảng lý luận của
những gì được gọi là xã hội chủ nghĩa hay định hướng XHCN được giảng dạy và
thực hiện ở nước ta thực chất là gì? Lãnh đạo đảng đang đòi hỏi phải bảo vệ,
phải trung thành với CNML nào, nó là những nội dung cụ thể gì? Nó có thể soi
sáng con đường nào cho đảng, dẫn đất nước đi tới đâu?.. Mọi câu trả lời tìm
được trong cuộc sống đều dẫn tới kết luận: Đó là một tập hợp lý luận đầy khiên
cưỡng, duy ý chí và mâu thuẫn, xong lại có nhiệm vụ xác lập và biện minh cho
vai trò độc tôn của ĐCS, là nền tảng lý luận, là lá cờ giương lên để gò đất
nước vào sự lãnh đạo của đảng, v v.., đồng thời là nguồn gốc và mầm mống của
chế độ toàn trị ở nước ta hôm nay.
Đáng lưu ý là nội dung của CNML về xây dựng CNXH được xác
định tập trung trong Tuyên bố Mạc-tư-khoa 1957 của các ĐCS và CN quốc tế đã có
nhiều điểm khiên cưỡng trái hẳn với lý luận của Mác[2].
Cho đến nay chưa một lần nào và bất kỳ ở đâu có thể thực hiện được nội dung xây
dựng chủ nghĩa xã hội như đã ghi trong tuyên bố Mạc-tư-khoa. Đơn giản vì những
điều đã được xác định này không hiện thực, duy ý chí, nên thất bại[3].
Vì lẽ này các nước XHCN Liên Xô – Đông Âu cũ sụp đổ. Cũng vì lẽ này Việt Nam đã
phải tiến hành đổi mới 1986, và hiện nay đang bâng khuâng không biết đến hết
thế kỷ này sẽ có CNXH hay không?!.
Bi kịch kép của lý luận Mác là ngoài sự sụp đổ của các
nước LXĐÂ cũ, đến nay cũng chưa có một cuộc cách mạng nào thắng lợi đã xảy ra
theo lý luận của Mác. Trước khi mất 2 năm, Mác đọc cho con rể mình viết góp ý
với đường lối của Đảng công nhân Pháp: cách mạng có thể giành thắng lợi bằng
con đường hòa bình, nghĩa là không phải bạo lực, cụ thể là thông qua bầu cử;
1895 Ăngghen cũng góp ý như vậy với Đảng Công nhân Đức, song Lênin không biết
những điều này… Sau khi Mác mất, Ăngghen tập hợp tiếp các tác phẩm của Mác và
đã có lúc thô thiển hóa những ý tưởng của Mác thành “chủ nghĩa”… (Việt Phương
và một số học giả nước ngoài khác). Việt Phương còn dẫn ra những chỗ sai khác
của Mác trong kinh tế chính trị học. Đúng là dù vĩ đại đến mấy, con người bao
giờ cũng vẫn là nhân vô thập toàn: Mác là một trong những triết gia và nhà tư
tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất – tích cực cũng như tiêu cực – đối với nhân
loại trong thế kỷ 20.
Có một điều cần suy nghĩ: Nếu đồng nhất (1) tư tưởng – lý
luận Mác và (2) phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, và (3)chủ nghĩa cộng
sản diễn ra dưới dạng các chế độ toàn trị ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa
làm một, e rằng sẽ không đúng. Dù tác động qua lại với nhau sâu sắc thế nào,
song đây vẫn là 3 thực thể khác nhau. Nên có nghiên cứu khách quan
giải đáp thỏa đáng. Với cách đặt vấn đề như vậy, tôi cho rằng:
·
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là một cuộc đấu tranh
cách mạng, là một phản ứng tất yếu và rất đáng trân trọng của nhân loại trước
thực tế phát triển đẫm máu và mồ hôi người lao động trong chủ nghĩa tư bản cho
đến những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, chính phong trào đấu tranh cách mạng
này đã góp phần quan trọng làm nên những tiến bộ xã hội của nhân loại trong thế
giới hôm nay.
·
CNTB nói chung hay là các nước tư bản – cũng có lúc với những đối
tượng nào đó ngôn ngữ ta gọi là các nước đế quốc – một phần do đòi hỏi tự thân,
một phần do tác động của các trào lưu tiến bộ, trong đó có phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế – đã có rất nhiều điều chỉnh, nhất là kể từ sau chiến
tranh thế giới II đến nay, trên thực tế đã và đang dẫn đầu thế giới trong thực
hiện một số giá trị quan trọng.
·
Chủ nghĩa cộng sản như đã xuất hiện ở tất cả các nước XHCN thuở
ban đầu là kim chỉ nam của phát triển, và sau đó một mặt do duy tâm và duy ý
chí, mặt khác do tha hóa, dần dần biến thành chế độ toàn trị. Nhìn chung, đó
chính là sự diễn biến của một quá trình tha hóa.
·
Khi quyền lực của chế độ toàn trị là tuyệt đối với nhiều tội ác
đẫm máu, CNML ở tất cả các nước XHCN chỉ còn lại là cái tên (cái bình phong)
tuyệt đối, đã dẫn tới sự sụp đổ ở các nước LXĐA, và hiện vẫn đang tiếp diễn ở
các nước gọi là XHCN còn lại.
·
Chủ nghĩa cộng sản của phong trào cánh tả bắt đầu từ thời Mao-ít
rộ lên một thời ở một số nước đang phát triển song cũng tàn lụi rất nhanh, để lại
dĩ vãng đau buồn ở những nơi nó xuất hiện. Phong trào này không có mối liên
quan nào đó với CNML với nghĩa đang được hiểu.
·
CNML lúc đầu được hiểu và vận dụng như một học thuyết cách mạng
dẫn dắt sự phát triển của nước ta – dưới dạng xây dựng chủ nghĩa xã hội, rất tả
khuynh, song dần dần bị quyền lực biến tướng thành ý thức hệ bảo vệ chế độ toàn
trị. Quyền lực càng được củng cố bao nhiêu thì CNML càng bị tước bỏ về nội dung
bấy nhiêu. Hôm nay chỉ còn lại chức năng là cái mộc và cái khiên của chế độ
toàn trị.
·
Tất cả những thứ nêu trên đều không phải là hiện thân của lý luận
Mác.
·
Vân… vân…
Nhân kỷ niêm 100 năm Tuyên ngôn Cộng sản, hội thảo quốc
tế ở Paris đánh giá: Trong toàn bộ tác phẩm của Mác, kể cả trong các thư riêng,
đỉnh cao của tư tưởng Mác thể hiện trong quan điểm được nói ra rành rọt, nguyên
văn là “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của mọi
người!” – một lần duy nhất được viết ra trong Tuyên Ngôn Cộng Sản. Nhưng
tư tưởng này không hề được thực hiện trong bất kỳ một nhà nước cộng sản nào cho
đến nay, thậm chí bị vứt bỏ hoàn toàn! (Xem bản ghi của Việt Phương).
Hơn nữa, trên đời này ngoài kinh thánh được các tín đồ
của mình phong tặng sự vĩnh cửu, không có lý luận khoa học nào là vạn năng, bất
di bất dịch và trường tồn – trong lĩnh vực khoa học xã hội càng không, vì con
người luôn luôn hướng về sự giải phóng chính mình; mọi thứ “chủ nghĩa” đều phải
áp đặt tư duy của chính nó. Chỉ có các giá trị mà con người xây dựng nên được
trong quá trình phát triển của chính mình là trường tồn. Song các giá trị này
cũng phải thường xuyên phát triển theo sự vận động của thời gian, thời đại…
Đến đây có thể kết luận:
·
CNML như đang được hiểu và vận dụng ở nước ta là tam sao thất bản
(từ Liên xô, Trung Quốc), lại được tuyên giáo ta qua các thời kỳ “chế biến
thêm” và “chốt lại”… Một thứ CNML như thế hầu như chỉ còn lại là một bình
phong, một nhãn mác, hay là một căn cứ mơ hồ, chỉ để mang lại cái chính danh
cho “định hướng xã hội chủ nghĩa” mà Đảng muốn ốp cho đất nước.
·
CNML như hiện nay ở nước ta chỉ còn làm được chức năng trang trí
tư tưởng, một thứ bùa hộ mệnh, một kiểu ngọn cờ… để biện minh cho vai trò độc
tôn và quyền lực của ĐCSVN hôm nay trong xã hội Việt Nam.
Nói trung thành với CNML dịch ra đúng nghĩa là áp đặt sự thừa nhận trạng thái
hoàn toàn bế tắc về lý luận của một đảng chính trị, và tính hư vô của lý tưởng
mà đảng theo đuổi.
Tất cả chỉ với mục đích duy nhất: củng cố quyền lực của Đảng, loại bỏ phản kháng, trấn áp
bất đồng.
Trong cuộc sống thực của đất nước ta hôm nay, ngoại trừ
một số quan điểm sai lầm như chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp, tập trung
dân chủ.., rất khó tìm được bất kể một quyết định, hay hành động hoặc một kết
quả thực tiễn nào của ĐCSVN hôm nay mang nội dung CNML như
đã được xác định trong Tuyên bố Mạc-tư-khoa 1957 nói trên, hoặc theo chính các
giáo lý giảng dạy. Đơn giản vì những thứ này đều không khả thi. Song lại ngụy
biện là vận dụng sáng tạo vào nước ta! Thực tế này giải
thích hiện tượng: Xây dựng CNXH ở nước ta do thất bại, nên từ vài thập kỷ nay
buộc phải hạ thấp xuống thành “định hướng XHCN”. Tuy thế đến bây giờ vẫn không
xác định rõ được ĐHXHCN là cái gì. Đơn giản vì “định hướng” như thế không có
thực. Tất cả những gì tốt đẹp định làm và cố tìm cách gói ghém chúng vào khái
niệm ĐHXHCN ở nước ta – ví dụ như công bằng, dân chủ, văn minh, phúc lợi xã
hội, chống bóc lột, trách nhiệm của nhà nước… – trên thực tế chỉ là những bánh
vẽ, hoặc giả có điểm nào cố sức làm (ví dụ trong y tế, trong giáo dục, trong
thực hiện qua loa một số quyền tự do dân chủ nào đó…) kết quả nếu đạt được thường
ở mức độ rất thấp và kém rất xa tất cả các nước cùng ở mức thu nhập trung bình
(thấp) như nước ta, kém hẳn các nước phát triển.
Sự thật là nước ta hiện nay bị xếp vào nhóm “top” các
quốc gia có chế độ chính trị mất tự do dân chủ, vi phạm nhân quyền và bất công
nhất trên thế giới. Cho nên càng bàn mãi về ĐHXHCN càng bí. Vì vậy tuyên giáo
của Đảng đã “chốt” lại hộ để khỏi phân vân mãi chưa ra: Cốt lõi của “định hướng
XHCN” là bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững kinh tế nhà nước là chủ
đạo! Song oái oăm thay chính cái được “chốt” lại này lại là nguồn gốc của chủ
nghĩa tư bản thân hữu và tư bản hoang dã đạt tới đỉnh cao ở nước ta 10 năm qua,
bây giờ Đảng phải kêu gọi chống. Trong khi đó Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII
lại quy kết mầm mống của chủ nghĩa tư bản thân hữu ở nước ta là kinh tế tư
nhân! Phi lý đến thế là cùng. Song chính cái “chốt” lại này khiến
nước ta xin mãi hàng chục năm nay sự công nhận là “kinh tế thị trường” mà vẫn
không được!
Cuộc sống luôn luôn đòi hỏi giải phóng tư duy khỏi sự kìm
kẹp của ý thức hệ, để mở mang trí tuệ phấn đấu cho những giá trị đã được văn
minh của nhân loại xác lập.
_____
Phụ lục III
Về ĐCS Trung Quốc và ĐCS Việt Nam
Nguyễn Trung
Một trong những cái lầm chết người từ Thành Đô đến nay là
ta bị «16 chữ và 4 tốt» mê hoặc, cứ tưởng ta giống Trung Quốc, nên có thể đi
với nhau, dựa vào nhau, học nhau, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.., mà
quên mất ta không hề, không bao giờ, và không thể giống Trung Quốc về bất kỳ
phương diện nào, nhất là quên khuấy đi mất trước sau ta chỉ là cái
đích của Trụng Quốc!
Xin nhắc lại :
ĐCSVN không bao giờ giống ĐCSTQ, nên không thể và không
được làm theo TQ! Đừng bao giờ quên điều chết người này!
Hữu nghị, hợp tác… vân vân… là những chuyện hoàn toàn
khác và chỉ thuộc lĩnh vực đối ngoại.
Sự thật đơn giản thế này:
– Trung Quốc của một đế chế hồi sinh luôn luôn cần một
đảng độc tài toàn trị cực mạnh để giữ cho Trung Quốc khỏi tan rã thành những
nước nhỏ, và để tạo lực chiếm ngôi bá chủ trên thế giới. Mao Trạch Đông đã
nhiều lần khẳng định công khai: ĐCSTQ là vô thiên vô pháp, trời cũng không so
được! Cứ nhìn những gì đẫm máu đã xảy ra ở TQ và những hành vi của TQ
trên thế giới từ thời Mao cho đến hôm nay, sẽ thấy quan điểm «vô thiên, vô
pháp, mục tiêu biện minh cho biện pháp» của Mao là xuyên xuốt toàn bộ hệ thống
chính trị Trung Quốc về đối nội cũng như đối ngoại.
– Nhưng Việt Nam là một láng giềng sát nách lại cần một
đảng cầm quyền xây dựng cho quốc gia mình một thể chế chính trị dân chủ lành
mạnh, để phát huy hết mức sức mạnh dân tộc và tranh thủ dược cả thế giới hậu
thuẫn, qua đó mới có thể tồn tại và trở thành một láng giềng được tôn trong của
Trung Quốc! Việt Nam không làm được như thế thì chắc chắn sẽ chỉ là cái đích TQ
đã bỏ túi.
Hiển nhiên như ban ngày: Xem vậy nhiệm vụ chính trị
đối với quốc gia của 2 đảng Trung Quốc và Việt Nam đối nghịch nhau như giữa đen
và trắng vậy. Đừng giây phút nào mơ hồ điều này! Đừng để cho lăng kính ý
thức hệ nhìn lệch sự thật này.
Cho nên “16 chữ và 4 tốt” chỉ là ngoại giao Trung Quốc
đưa ra mà thôi, phải luôn luôn đối chiếu giữa nói và làm như thế nào. Rất tiếc
rẳng “16 chữ và 4 tốt” khi ra đời Trung Quốc lúc ấy mới chỉ làm xong việc chiếm
các đảo của ta, hôm nay làm xong việc hình thành một hệ thống căn cứ quân sự
trên các đảo này.
Nếu ĐCSVN hôm nay nghĩ mình giống Trung Quốc, chọn nhiệm
vụ chính trị của mình là học và làm theo Trung Quốc, làm giống Trung Quốc..,
thì vô lý quá. Ví dụ, Trung Quốc làm Thiên An Môn, chẳng lẽ ta cũng làm Thiên
An Môn? Trung Quốc khủng bố Lưu Hiểu Ba, ta cũng phải bắt chước? Lại còn học
Trung Quốc nhiều thứ chính trị khác, nhờ Trung Quốc đào tạo cán bộ, lại cả cán
bộ cao cấp nữa… Làm như thế sẽ chỉ hàm nghĩa là làm cho nước
mình sớm trở thành cái đích đạt được của Trung Quốc mà thôi!
Cho phép tôi nói bỗ bã thế này:
·
Đảng của Trung Quốc cần bạo quyền để giữ bá quyền trong nước và
đối với thế giới, nhiệm vụ chính trị đối với quốc gia của nó là thế.
·
Đảng của Việt Nam cần dân chủ phát huy nội lực của nhân dân và
giành được vị thế tranh thủ được hậu thuẫn của cả thế giới để làm cho nước mạnh
có thể sống được bên cạnh Trung Quốc.
Nghĩa là mỗi đảng này có nhiệm vụ chính trị đối với
quốc gia của nó khác nhau như giữa đêm và ngày, giữa nước và lửa vậy!
Nếu đảng của Việt Nam cũng bắt chước đảng Trung Quốc làm
bạo quyền, thì giỏi lắm cũng chỉ có thể bạo quyền với chính nhân dân nước mình
mà thôi. Nhưng làm như thế, sẽ giúp Trung Quốc bá quyền được nước mình sớm hơn!
Nếu làm như thế, đảng của Việt nam sẽ là đảng gì? Dân có để cho đảng yên không?
Đảng của Việt Nam có nên như thế không? Phải nghĩ lại!
Hai đảng này không giống nhau chút nào cả.
Nhất thiết phải tạo dựng được quan hệ hữu nghị và hợp tác
lâu dài với Trung Quốc. Song nếu ta muốn đạt được điều này, nhất thiết phải có
nhân cách, bản lĩnh và thực lực; còn nếu chỉ là kẻ dặt dẹo, là con nghiện, thì
hữu nghị và hợp tác chỉ có thân phận kẻ ăn mày và chứ hầu mà thôi!
Nói đến hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc là phải nói
đến hữu nghị thật, hợp tác thật, trước sau phải làm bằng được. Có thể sẽ không phải quá lời: Không ai cần mối quan hệ
hữu nghị láng giềng tốt với Trung Quốc bằng Việt Nam! Cũng chưa nước nào bỏ ra
nhiều công sức như thế cho mục tiêu này. Song cũng chưa nước nào phải trả giá
đắt như Việt Nam. Đấy là sự thật trần trụi.
Nếu hiện nay hữu nghị – hợp tác với Trung Quốc chưa được
là thật, thì ta phải tìm cách tạo ra lực đứng trên đôi chân của ta, để khẳng
định được là chính ta, nhờ đó để có thể làm cho hữu nghị và hợp tác với Trung
Quốc trở nên thật.
Còn hữu nghị cửa miệng, hợp tác cửa miệng, sẽ chỉ là lừa
nhau mà thôi. Nhìn lại, lừa nhau như thế, cho đến nay hầu như chỉ có ta bị lừa.
Làm ngoại giao cả đời, tôi chưa thấy ta lừa nổi Trung Quốc một lần nào, vì nước
này lớn quá và xảo quyệt quá để có thể lừa. Vậy chỉ còn con đường tạo ra thực
lực và bản lĩnh để có được hữu nghị thật, hợp tác thật với Trung Quốc thì mới
sống được! Thứ này không xin được.
Hay là chọn con đường làm chư hầu!? Xin đừng quên lịch sử
quan hệ Việt – Trung hơn một nghìn năm nay!
Không có con đường giả vờ nào khác mà đi cả.
Tất cả cho thấy chỉ còn cách phải đổi đời để sống thật!
Mất nước 80 năm vào tay thực dân Pháp, chỉ vì triều
Nguyễn hồi ấy chưa nghĩ đến đổi đời để bước vào cái thế giới đã thay đổi mà
sống. Bây giờ có lại được độc lập thống nhất, nhưng trong một thế giới lại thay
đổi tiếp. Bài học rút ra từ 80 năm thuộc địa «phải đổi đời để sống» chẳng lẽ
hôm nay vô nghĩa đối với ĐCSVN hay sao? Nguy cơ tái diễn cái quán tính lịch sử
tệ hại của những thế kỷ đất nước ta đã sống trong cái bóng Trung Quốc chính là
ở chỗ này!
Xin nhấn mạnh một lần nữa :Nhiệm vụ chính trị và trách
nhiệm đối với quốc gia của ĐCSVN chẳng có một nét mảy may nào giống đảng của
Trung Quốc – và đây chính là chỗ lãnh đạo ĐCSVN hôm nay mơ hồ nhất, mất cảnh
giác nhất! Cứ nghĩ cùng là XHCN thì giống nhau và đi được với nhau! Với
những thất bại nghiêm trọng cho đất nước và những hệ quả lâu dài đến hôm nay
vẫn chưa tỉnh và chưa sao gỡ ra được!
Mong suy nghĩ kỹ điều này.
Xin nhắc lại tại đây lãnh đạo đảng thời hai cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã từng tổng kết:
Mọi thắng lợi đạt được, trước hết là nhờ độc lập tự chủ trong tư duy và đường
lối, mọi thất bại vấp phải là do mất độc lập tự chủ trong tư duy và rập khuôn
Trung Quốc! Lãnh đạo hồi ấy đã kiểm điểm sâu sắc những bài học đau đớn như cải
cách ruộng đất, cải tạo tư sản, chỉnh huấn, rèn cán chỉnh cơ, để cho ý thức hệ
mao-it ảnh hưởng đến một số đường lối chính sách… Thậm chí hồi đó đã có người
còn muốn nhập khẩu cả cách mạng văn hóa vào Việt Nam, nhưng đã bị bác bỏ quyết
liệt… Bộ chính trị hồi đó luôn luôn nhắc nhở phải độc lập tự chủ trong tư duy
và cảnh giác với mọi thâm nhập từ bên ngoài và giáo điều, quyết không để cho
bên ngoài – dù là ai – can thiệp vào đường lối cách mạng của mình.
Nghị quyết 15 về đẩy mạnh kháng chiến cứu nước của ta và
Nghị quyết 9 về đối ngoại là những vị dụ tiêu biểu về kiên định độc lập tự chủ
trong tư duy chiến lược và trong hành động, quyết gạt bỏ mọi ảnh hưởng, tác
động, áp lực từ bên ngoài, để thực hiện đến cùng mục tiêu chiến lược giành lại
độc lập thống nhất đất nước.
Xin kể lại như vậy với các thế hệ lãnh đạo hôm nay để
tham khảo.
Muốn hay không, Trung Quốc hôm nay đã trở thành vấn đề
của cả thế giới. Thực tế khách quan này đối với Việt Nam còn nghiêm trọng hơn,
sát phạt hơn nhiều. Nước ta không lựa chọn được thế giới, nên chỉ còn cách làm
sao lựa chọn được vị thế quốc gia phải có để sống được trong
thế giới này – trong đó có đòi hỏi không thể thiếu là phải xác lập bằng
được quan hệ lâu dài láng giềng tốt với Trung Quốc, có được hữu nghị
thật, hợp tác thật. Nhìn rõ và quyết nắm lấy bằng được cái đích này, mỗi
người Việt chúng ta – và trước hết là đảng nắm quyền, sẽ biết được và xác định
được con đường phải đi và phải làm gì. Trời đất không cho chúng ta thoát
khỏi nhiệm vụ này, địa kinh tế và địa chính trị của thế giới hôm
nay đặt lên vị trí địa đầu của nước ta số phận như vậy. Nên chi còn cách xác
lập lòng tự trọng, thay đổi chính bản thân mình, để bắt tay thực hiện
cái quy luật muôn đời : «Có lực mới vực được đạo!». Người
Nhật, người Hàn Quốc, người Israel cho chúng ta nhiều bài học thành công của
quốc gia họ xuất phát từ trân quý lòng tự trọng này. Xin cùng nhau suy nghĩ về
điều này. Nước ta trước sau rất muốn, rất cần hữu nghị – hợp tác với Trung
Quốc, nhưng phải gian khổ tìm cách tạo lập nên, thứ này không thể xin được.
Nói đất nước đã sang trang trong một thế giới đã sang
trang, trước hết nên bắt đầu từ suy nghĩ như trên.
Hà Nội – Võng Thị, 20-09-2017
____
Phụ lục IV
VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI DÂN SỰ Ở VIỆT
NAM
Phạm Khiêm Ích
Xã hội dân sự ở Việt Nam có quá trình hình thành và phát
triển khá đặc biệt, gặp nhiều khó khăn, trắc trở, khi nở rộ, khi lụi tàn. Vai
trò của nó đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội hiện nay rất mờ nhạt.
Xã hội dân sự (XHDS) đã hình thành cùng với sự hình thành
nhà nước pháp quyền dân chủ, từ sau Cách mạng tháng Tám. Đây là điều được Chủ
tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Ngay sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập, ngày
3/9/1945 trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ
việc tổ chức sớm Tổng tuyển cử, xây dựng một Hiến pháp dân chủ, đảm bảo cho
nhân dân thực hiện quyền tự do dân chủ là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách nhất.
Ngay sau đó ngày 8/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 14/SL mở cuộc
Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội.
Sau bốn tháng chuẩn bị trong những điều kiện vô cùng khó
khăn, ngày 6/1/1946 cuộc Tổng tuyển cử đã được tiến hành trên phạm vi cả nước,
trong một bầu không khí dân chủ thật sự. Trong bản báo cáo ngắn gọn trước Quốc
hội tại kỳ họp thứ nhất ngày 2/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong
cuộc toàn quốc đại hội đại biểu này, các đảng phái đều có đại biểu mà đại biểu
không đảng phái cũng nhiều, đồng thời phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số cũng
đều có đại biểu. Vì thế cho nên các đại biểu trong Quốc hội này không phải đại
diện cho một đảng phái nào mà là đại biểu cho toàn thể quân dân Việt Nam. Đó là
một sự đoàn kết tỏ ra rằng lực lượng của toàn dân Việt Nam đã kết thành một
khối”.
Một thành tựu có tính lịch sử mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để
lại là bản Hiến pháp đầu tiên của nuớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà Nguời là
Truởng Ban Dự thảo. Hiến pháp ấy xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai
đoạn này là: “bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia
trên nền tảng dân chủ”. Bản Hiến pháp dân chủ này ghi ngay trong trong Điều 1 :
“Nuớc Việt Nam là một nuớc dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nuớc là
của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Đặc biệt Hiến pháp đầu tiên đã khẳng định những quyền cơ
bản của công dân Việt Nam: Quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức
hội họp, tự do tín nguỡng, tự do cu trú, đi lại trong nuớc và ra nuớc ngoài
(Điều 10). Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, thư tín…
(Điều 11). Quyền tư hữu tài sản được đảm bảo (Điều 12).
Những điều trên đây chứng tỏ rằng giữa XHDS với nhà nuớc
pháp quyền và chế độ dân chủ có quan hệ mật thiết, bổ sung cho nhau. Không thể
có cái này mà không có cái kia.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chỉ công nhận
và tôn trọng những quyền cơ bản của công dân, mà còn tạo điều kiện cho mọi công
dân thực thi những quyền ấy. Tôi muốn nói đến những Sắc lệnh và những Nghị định
của Chính phủ tạo điều kiện cho công dân thực thi quyền tự do lập hội và tự do
ngôn luận.
Ngày 22/4/1946 Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến
ký Sắc lệnh số 52 quy định việc lập hội. Sắc lệnh này, ngoài chữ ký của chủ
tịch Hồ Chí Minh còn có chữ ký của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ
trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe và Bộ trưởng Bộ Tài Chính Lê Văn Hiến. Lúc này
chưa có Hiến pháp, Sắc lệnh này là hình thức pháp lý cao nhất. Sắc lệnh xác
định: “Hội là một đoàn thể có tính cách vĩnh cửu gồm hai hoặc nhiều người giao
ước hiệp lực mà hành động để đạt mục đích chung; mục đích ấy không phải là để
chia lợi tức” (Điều l). Định nghĩa trên đây xác nhận “hội”
không phải là tổ chức kinh tế để chia lợi tức, cũng không phải là cơ quan Nhà
nước, đó chính là tổ chức XHDS. Sắc lệnh quy định: “Cấm không được lập những
hội có mục đích và hoạt động làm đồi bại phong tục, hại đến trật tự chung, hoặc
đến sự an toàn của quốc gia” (Điều 2).
Thủ tục thành lập hội rất đơn giản và dễ dàng. Người sáng
lập hội phải đủ 21 tuổi, là người xưa nay không có can án thường phạm. Những
người sáng lập ra hội phải làm Giấy khai, kèm theo hai bản Điều lệ gửi cho Uỷ
ban hành chính Kỳ (tức là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ), hoặc Bộ Nội vụ. 15 ngày
sau khi nhận được Giấy khai và Điều lệ, Ủy ban hành chính Kỳ sẽ phải chuyển cả
hồ sơ và phát biểu ý kiến lên Bộ Nội vụ. Bộ trưởng Bộ Nội vụ xét hồ sơ và nếu
cho phép hội thành lập sẽ ký Nghị định cho phép. Sau hạn 45 ngày kể từ hôm phát
biên lai, nếu Bộ Nội vụ không trả lời ngăn cấm hội thành lập và hoạt động, thì
hội sẽ coi như được thành lập (Điều 3, Điều 4).
Nguyên tắc bắt buộc là phải tôn trọng sự tự nguyện của
hội viên: “Không hội viên nào có thể bị cưỡng bách ở trong hội. Tuỳ ý hội viên
muốn xin ra bao giờ cũng được, dù hội lập ra có thời hạn nhất định mặc lòng,
miễn là hội viên xin ra hội đã thanh toán các trái khoán đối với hội và đã báo
trước một tuần lễ”
(Điều 7).
Chỉ 2 tuần sau khi công bố sắc lệnh, ngày 6/5/1946 Bộ
trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng đã ký Nghị định cho phép Nghiệp đoàn khách
sạn Việt Nam được thành lập. Đó là hiệp hội sớm nhất được thành lập theo quy
định của sắc lệnh số 52 ngày 22/4/1946. Từ đó đến cuối năm 1946, trong vòng 6
tháng có tới 65 hội được thành lập, tính trung bình cứ 3 ngày có thêm 1 hội
mới. Các hội tiêu biểu là: hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Nghị định thành lập
ngày 5/7/1946, về sau đổi tên thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam),
đảng Xã hội Việt Nam (30/7/1946), Liên đoàn Công giáo Việt Nam (6/8/1946), Liên
đoàn Lao động trí thức thành phổ Đà Nằng (26/8/1946), Hội Công chức Bình Định
(11/10/1946), hội Cựu đệ tứ Cứu thế Ái hữu ở Hàm Nghi, Thuận
Hóa (được tiếp tục hoạt động), hội Kiến thiện Kiến An ở Hải Phòng (11/10/1946),
hội Việt Nam học xá Nhân viên Ái hữu ở Hà Nội (30/8/1946), hội Từ Liêm Văn học
Ái hữu làng Phú Mỹ, huyện Từ Liêm (11/10/1946), hội Văn miếu văn học hiệp hội ở
Hà Nội (3/7/1946), hội Phụ nữ ca vũ tương tế có trụ sở ở biệt thự Thanh Hà làng
Thổ Quan, Ô Chợ Dừa, Hà Nội (3/7/1946), đoàn Nữ hướng đạo Việt Nam trụ sở ở Hà
Nội (11/10/1946), hội Hợp thiện ở 125 Phùng Hưng, Hà Nội (5/6/1946 được phép
tiếp tục hoạt động), hội Việt – Mỹ thân hữu (5/6/1946 được phép tiếp tục hoạt
động).
Quả thật các hội rất đa dạng, từ các hiệp hội nghề
nghiệp, các tổ chức quần chúng, các tổ chức tôn giáo, văn học nghệ thuật, các
tổ chức chính trị, các NGO và phần lớn là các tổ chức Ái hữu. Đây chính là các
tổ chức XHDS, hình thành ở rất nhiều tỉnh thành trong cả nước. Cần nhấn mạnh
rằng Đảng Xã hội VIệt Nam được thành lập theo Sắc lệnh số 52 quy định việc
thành lập Hội (đảng dân chủ Việt Nam được thành lập từ năm 1944, trước sắc lệnh
số 52). Như vậy Đảng cũng chỉ là một thứ hội mà thôi, không phải là một thứ gì
thần thánh hóa cả. Suốt trong 6 tháng chỉ có một trường hợp Bộ Nội vụ bác đơn
xin thành lập hội của “Quốc gia thanh niên đoàn” ngày 23/5/1946. Bác đơn như
vậy cũng có Nghị định đàng hoàng, công khai. Trong tình thế rất khó khăn hiểm
nghèo phải có lòng tin tuyệt đối vào nhân dân thì Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính
phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa mới có thể mạnh dạn phát huy
tinh thần dân chủ của mọi tầng lớp nhân dân như vậy.
Trong khi đó hơn 10 năm nay Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam không thông qua được Luật lập hội, nghe nói đã có đến bản dự
thảo lần thứ 14! Chẳng lẽ lại sợ XHDS, sợ dân đến như vậy sao? Thật vô lý, thật
đáng buồn!
Cùng với việc tạo hành lang pháp lý cho nhân dân
thực hiện quyền tự do lập hội, Chính phủ đầu tiên cũng tạo mọi
điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện quyền tự do ngôn luận.
Ngay từ tháng 9 năm 1945 Chính phủ đã công bố thể lệ mới
về việc cho phép xuất bản báo chí. Chỉ trong vòng 3 tháng cuối năm 1945, Bộ Nội
vụ do ông Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng đã ký hàng loạt Nghị định cho phép xuất
bản 87 tờ báo (hầu hết là báo tư nhân), báo hàng ngày và hàng tuần bằng tiếng
Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Hoa. Như vậy trung bình cứ một ngày lại có
thêm một tờ báo mới.
Có thể kể ra một số tờ báo tiêu biểu:
– Nhật báo Tự do của ông Trần Khánh Dư
xuất bản tại Hà Nội theo Nghị định của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ngày 8/10/1945.
– Tuần báo Văn mới của ông Trương Tửu
(8/10/1945), Việt Nam hồn của ông Lê Văn Trương. Báo Dân
quyền của ông Lê Văn Thanh.
-Tuần báo Ý Dân của ông Nguyễn Quang
Cận (12/10/1945), Tuần báo Nói thẳng của ông Đoàn Phú Tứ
(7/12/1945). Nhật báo Nói thật của ông Trịnh Văn Hoàng tại
Nam Định (7/12/1945). Tuần báo Văn Hóa của ông Từ Giấy. Tuần
báo Bạn gái của bà Nguyễn Thị Lý. Tuần báo Tòa
sen của ông Trịnh Giai Ngân. Tờ Đa Minh bán nguyệt san của
Nhà chung Bùi Chu, Nam Định (24/11/1945). Đội Cấn tuần báo của
ông Nguyễn Nhật Thăng tại Thái Nguyên (22/10/1945). Quyết chiến tuần
báo của ông Dương Thế Châu tại Phủ Lý (22/10/1945). Tuần báo Bạn
quê của ông Hoàng Tiến Lộc tại Hải Dương (24/10/1945). Báo Dân
chủ nhật báo của ông Đỗ Trọng Giang tại Hải Phòng (24/10/1945). Việt
Mỹ tạp chí của bán nguyệt san tại Hà Nội (31/10/1945). Hanoi
Tribune báo hàng ngày bằng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp của
ông E.de Pollak (17/11/1945). Tờ La République và The Republic của ông Nguyễn
Đình Thi (28/9/1945). Tờ L’Entente báo hàng ngày của ông Jean Saumont.
Báo Nam Hoa báo hàng ngày bằng tiếng Việt và tiếng Hoa của
ông Hồ D3ếnh.
Những số liệu trên đây chứng tỏ XHDS đã hình thành rõ
rệt, tất nhiên dưới dạng sơ khai, chưa hoàn thiện, nhưng đã đóng vai trò thiết
yếu trong buổi đầu xây dựng một nước Việt Nam dân chủ, tự do. Không có XHDS làm
sao có dân chủ, tự do được?
Cuối năm 1946 kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Từ đó đến
năm 1979 nước ta trải qua 3 cuộc chiến tranh ác liệt, chiến tranh chống thực
dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và chống bọn bành trướng bá quyền Bắc Kinh năm 1979.
Chiến tranh kéo dài làm đảo lộn cuộc sống xã hội, hạn chế rất nhiều tự do, dân
chủ của người dân. Năm 1950 Việt Nam mở cửa biên giới với Trung Quốc, chúng ta
có thêm súng đạn, lương thực để chống thực dân, đồng thời cũng có cả chủ nghĩa
Mao nữa. Các sách Bàn về mâu thuẫn, Bàn về thực tiễn là sách gối đầu giường của
nhiều nhà lý luận triết học ở ta. Năm 1953 ta tiến hành cải cách ruộng đất, rồi
hợp tác hóa nông nghiệp, cải tạo tư sản… Sau đó là các vụ Nhân văn giai phẩm,
Chống xét lại, đã gây hận thù sâu sắc trong lòng dân tộc tại Việt Nam. XHDS cứ
lịm dần, lịm dần… Đặc biệt sau chiến tranh, chuyên chính vô sản được xác lập
trên phạm vi toàn quốc. Hiến pháp năm 1980 long trọng xác nhận điều đó, cùng
với việc xác nhận vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Mô hình Xô Viết
được xác lập. Điều 6 Hiến pháp Liên Xô được sửa đổi thành Điều 4 Hiến pháp Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Giờ đây khái niệm “Chuyên chính vô sản” ghê sợ
không được sử dụng nữa mà thay bằng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.
Nhưng điều đó không thay đổi gì về bản chất, cơ chế chung “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ” được Tổng bí thư Lê Duẩn định nghĩa là “chuyên
chính vô sản ở Việt Nam” vẫn giữ nguyên trong Hiến pháp 1992 và Hiến pháp sửa
đổi năm 2013. Do vậy nhà nước pháp quyền XHCN chỉ là biến thái của chuyên chính
vô sản mà thôi. Trong quá trình phát triển đó XHDS bị xóa bỏ, để nhường chỗ cho
xã hội toàn trị (totalitarian society).
Từ đầu thập niên 90, cùng với quá trình dân chủ hóa đất
nước, XHDS từng bước được phục hồi. Nhiều nhà nghiên cứu phân tích quá trình
dân chủ hóa trên thế giới đã rút ra kết luận là: quá trình dân chủ hóa ở tất cả
các nước đều gắn liền với sự hình thành và phát triển của XHDS. Không như vậy,
quá trình dân chủ hóa sẽ không có nội dung xác thực. Dân chủ hóa về thực chất
là chuyển quyền lực chính trị trong tay Nhà nước sang tay nhân dân. Nhân dân
phải trở thành chủ thể của quyền lực Nhà nước. Đấy chính là Nhà nước pháp quyền
đích thực, Nhà nước của dân, do dân và vì dân, hay như Hiến pháp dân chủ năm
1946 ghi rõ: “tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam”.
Chính vì vậy chúng tôi nhiều lần khẳng định: “XHDS, nhà nước pháp quyền và dân
chủ là không thể tách rời”. Điều đó đòi hỏi phải cải cách chính trị, chuyển đổi
thể chế chính trị của nước ta từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa.
Xã hội toàn trị là đối lập với XHDS. Khái niệm này chỉ
những xã hội thực hiện một sự kiểm soát hoàn toàn đối với toàn bộ đời sống xã
hội nói chung và đời sống mỗi con người nói riêng. Hannah Arendt dùng khái niệm
này để khái quát các chế độ có bản chất và đặc trưng giống nhau, dựa trên sự
thống trị tuyệt đối của Nhà nước đối với các công dân trong tất cả các lĩnh vực
đời sống xã hội. Những nét chủ yếu của xã hội toàn trị là:
– Lấy một hệ tư tưởng đặc biệt làm nền tảng cho sự tồn
tại của chế độ và hợp pháp hóa quyền tồn tại của nó, toàn thể nhân dân bắt buộc
phải coi hệ tư tưởng đó là hệ tư tưởng thống trị toàn xã hội.
– Đặt lợi ích và các quyền tự do của cá nhân phục tùng
tuyệt đối lợi ích xã hội, do Nhà nước đại diện.
– Quyền lực chính trị nằm trong tay một đảng duy nhất,
đảng cầm quyền và Nhà nước hòa thành một thể thống nhất.
– Xã hội bị Nhà nước hóa triệt để, xã hội dân sự bị xóa
bỏ, đặc biệt là cấm các đảng chính trị khác và tất cả các tổ chức xã hội không
thuộc quyền lãnh đạo của Đảng cầm quyền.
– Vai trò của pháp luật bị giảm sút, Nhà nước có quyền
quyết định mọi cái mà không bị kiểm soát,hoặc hạn chế bởi luật pháp, không có
tam quyền phân lập để hạn chế sự lạm quyền, nhà nước pháp quyền bị xóa bỏ.
– Thực hiện độc quyền ngôn luận và thông tin; mọi phương
tiện thông tin và báo chí đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của bộ máy Đảng và Nhà
nước.
– Lấy bạo lực làm phương tiện hàng đầu của sự thống trị;
sử dụng khủng bố chính trị như một công cụ chính trị đối nội.
Trái ngược với xã hội toàn trị là xã hội dân sự. Có vô
vàn định nghĩa khác nhau về xã hội dân sự. Nhưng theo tôi, định nghĩa của học
giả Nguyễn Khắc Viện và Nguyễn Kiến Giang trong cuốn Từ điển Xã hội
học năm 1994 đã làm nổi bật được cái cốt lõi của xã hội dân sự (được
gọi là xã hội công dân). Đó là xã hội trong đó người dân là chủ thể
của xã hội và do đó cũng là chủ thể của nhà nước, Nhà nước phục tùng lợi ích
của công dân, mà không phải ngược lại.
Định nghĩa này quán triệt được quan niệm mà K. Marx đã
nêu ra trong Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel về
mối quan hệ giữa xã hội dân sự với Nhà nước: “Nhà nước chính trị không thể tồn
tại nếu không có cơ sở tự nhiên là gia đình và cơ sở nhân tạo là xã hội dân sự.
Chúng là conditio since qua non (điều kiện cần thiết) của
Nhà nước. Nhưng (ở Hegel) điều kiện biến thành cái chịu điều kiện, cái quy định
biến thành cái bị quy định, cái sản sinh biến thành sản phẩm của sản phẩm của
nó”. Như vậy “Mối quan hệ thật sự ở đây đã đặt lộn ngược. Ở đây điều giản đơn
nhất được miêu tả thành rối rắm nhất; còn điều rối rắm nhất lại được miêu tả
thành điều giản đơn nhất, cái phải là điểm xuất phát thì trở thành kết quả thần
bí, còn cái lẽ ra phải có tư cách là kết quả hợp lý thì lại trở thành điểm xuất
phát thần bí”.
Trên đây là K.Marx phê phán quan điểm của Hegel. Rất tiếc
rằng, ngày nay một số người tự nhận là theo chủ nghĩa Marx, nhưng lại tuyệt đối
hóa vai trò của Nhà nước, biến Nhà nước thành chủ thể, còn công dân chỉ biết
phục tùng Nhà nước chuyên chế. Thật ta, trong mọi xã hội đều có hai cực: Công
dân và Nhà nước. Ngay cả trong xã hội dân sự, cũng không thể không có Nhà nước
đứng ra điều khiển và quản lý các công việc xã hội, nhưng tất cả những điều đó
đều nhằm thực hiện đầy đủ các quyền của công dân, các quyền của con người,
trong khi đòi hỏi các công dân thực hiện những nghĩa vụ của mình với nhà nước,
cũng tức là đối với toàn xã hội. Vai trò của Nhà nước trong xã hội dân sự khác
về nguyên tắc trong xã hội cực quyền, ở đó lợi ích và quyền của con người bị
đặt xuống dưới và hy sinh cho lợi ích và các quyền của nhà nước chuyên chính.
Xã hội dân sự là một thành tựu to lớn của sự phát triển
lịch sử của loài người. Xã hội dân sự là một cơ thể phát triển không ngừng và
hoàn thiện không ngừng. Những yếu tố cấu thành của xã hội ấy là: Sở hữu của các
công dân với tư cách cá nhân, các quyền tự nhiên của con người và các quyền tự
do cá nhân của công dân, chế độ dân chủ về mặt chính trị và nhà nước pháp
quyền. Bản thân các yếu tố ấy cũng không ngừng phát triển và hoàn thiện, cùng
với sự phát triển và hoàn thiện của toàn bộ hệ thống xã hội dân sự.
Ngày nay, trong quá trình dân chủ hóa, ngày càng nhiều
người nhận thức sâu sắc rằng chỉ có thể xây dựng chế độ dân chủ trên cơ sở xã
hội dân sự. Chừng nào xã hội dân sự chưa vững vàng thì chừng đó dân chủ vẫn
chưa được bảo đảm. Ngược lại, dân chủ hóa là một trong những động lực chính để
xây dựng xã hội dân sự.
Việc chuyển từ xã hội cực quyền sang xã hội dân sự ở nước
ta gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Nhưng đây là quá trình tất yếu không thể
đảo ngược được.
Hà Nội, ngày 24 tháng 9 năm 2017
_____
[1] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Dòng đời”, quyển
một, chương 5, tr. 226 – 246.
[2] Tham khảo: DECLARATION OF COMMUNIST AND WORKERS’
PARTIES OF THE SOCIALIST COUNTRIES – MEETING IN MOSCOW, USSR 1957
https://www.marxists.org/history/international/comintern/sino-soviet-split/other/1957declaration.htm
[3] Xin lưu ý: Do chống Liên Xô từ đầu, nên ĐCSTQ
không có CNML, mà chỉ có “Chủ nghĩa Mác”, chủ yếu chỉ để biện minh cho
những chuyên chinh của ĐCSTQ thời kỳ đầu. Ngay sau khi CHNDTH được thành lập,
Trung Quốc hầu như chỉ có chủ nghĩa Mao. Và ngày nay ai không hiểu “chủ nghĩa
xã hội đặc sắc Trung Quốc” là gì?