Thụy My. RFI.
Lính hải quân Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa ngày 09/02/2016.REUTERS/Stringer/File Photo |
Tuần trước, báo mạng Washington Free
Beacon có trụ sở tại Washington đã tiết lộ một chiến thuật mới của Trung Quốc
trong mục tiêu độc chiếm Biển Đông : thay vì yêu sách đường 9 đoạn, thường gọi
là « đường lưỡi bò », Bắc Kinh lại nêu ra khái niệm « Tứ
Sa ».
Trong một cuộc họp kín với các viên
chức bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ vào ngày 28 và 29/08/2017 tại Boston, ông Mã Tân Dân
(Ma Xinmin), cục phó Cục Hiệp định và Pháp luật thuộc bộ Ngoại Giao Trung Quốc,
đã khẳng định « quyền lịch sử của Trung Quốc tại Tứ Sa ». Tờ báo
cho biết các viên chức Mỹ tỏ ra rất ngạc nhiên về cách diễn dịch mới này.
Theo ông Mã Tân Dân, Trung Quốc
có « chủ quyền và quyền hàng hải » kéo dài xung quanh bốn
nhóm đảo ở Biển Đông là Đông Sa (Dongsha, tức Pratas Islands của Đài Loan), Tây
Sa (Xisha, tức Hoàng Sa), Nam Sa (Nansha, tức Trường Sa), Trung Sa (Zhongsha,
tức bãi cạn Macclesfield, là một bãi ngầm nằm cách Hoàng Sa 75 hải lý). Bắc
Kinh gọi chung là « Tứ Sa », đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế 200
hải lý xung quanh nhóm đảo này.
Ông Michael Pillsbury, thuộc Hudson
Institute và là giám đốc Center for Chinese Strategy, nhận định, yêu sách về
pháp lý trên đây là một trong « Tam chủng chiến pháp » do
Quân ủy Trung ương đưa ra từ năm 2003, gồm tâm lý chiến, chiến tranh thông tin
và chiến tranh pháp lý. Còn đại tá Hải quân về hưu Jim Fanell cho rằng
thuyết « Tứ Sa » là « một bước lôgic của Bắc Kinh
trong chiến thuật tằm ăn dâu » trên Biển Đông.
Hai chuyên gia về công pháp quốc tế
Julian Ku và Christopher Mirasola trên trang Lawfare - một trang chuyên về an
ninh do Lawfare Institute và Brooking Institution thực hiện, với sự hợp tác của
nhiều luật gia - trong một bài viết mới đây đã khẳng định « Biển Đông
và yêu sách "Tứ Sa" của Trung Quốc : Lý thuyết mới về pháp luật,
nhưng lập luận tệ hại như cũ ». Theo hai tác giả trên, về mặt luật
pháp, lý lẽ về « Tứ Sa » cũng chẳng hơn gì so với đường lưỡi
bò lâu nay.
Thật ra đây không phải là một khái
niệm mới mẻ. Luật về lãnh hải và đường tiếp giáp của Trung Quốc năm 1992 đã
tuyên bố lãnh thổ Trung Quốc bao gồm cả « Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và
Nam Sa ». Sách Trắng công bố năm 2016 khi tranh chấp với Philippines cũng
khẳng định chủ quyền « Nam Hải chư đảo » (tức các đảo trên
Biển Đông) gồm bốn nhóm đảo trên, kể cả « các đảo, rạn san hô, bãi
cạn, thực thể có số lượng và kích thước khác nhau ».
Như Bắc Kinh đã nhìn nhận, mỗi nhóm
đảo gồm nhiều thực thể đa dạng, đa số không mang lại quyền lợi hàng hải. Chẳng
hạn phán quyết của Tòa Trọng Tài La Haye năm 2016 nhận định, không một thực thể
nào ở Trường Sa đủ lớn để có được lãnh hải 12 hải lý xung quanh. Năm 1996,
Trung Quốc ấn định các đường cơ sở bao quanh quần đảo Hoàng Sa, coi đây là một
đơn vị địa lý duy nhất (có lẽ nhằm mở rộng tối đa yêu sách).
Vì
Trung Quốc không phải là một quốc gia gồm nhiều đảo hợp lại như Indonesia hay
Philippines, Hoa Kỳ và hầu hết các nước coi việc vẽ ra những đường cơ sở xung
quanh một nhóm đảo là đi ngược lại với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
(UNCLOS). Điều 47 của Công ước quy định đường cơ sở xung quanh một quần đảo như
Hoàng Sa chẳng hạn, chỉ có thể được ấn định nếu bao quanh « các đảo
chính và một khu vực mà tỉ lệ khoảng cách từ vùng biển so với vùng đất, kể cả
rạn san hô » của một Nhà nước « là từ 1-1 đến 9-1 ».
Hai chuyên gia Julian Ku và Christopher Mirasola khẳng định, Trung Quốc không
hội đủ điều kiện này, vì đất liền Hoa lục xa tít tắp vùng biển yêu sách.
Do
vậy, cơ sở luật pháp của « Tứ Sa » thậm chí còn yếu hơn cả
đường lưỡi bò, vì rõ ràng là vi phạm UNCLOS (điều 46 và 47). Tuy vậy có vẻ như
Trung Quốc có lợi hơn khi thay đường 9 đoạn bằng « Tứ Sa ». Vì
sao ?
Trước
hết, các lãnh đạo Bắc Kinh có thể đã nhận ra rằng đường lưỡi bò đã trở nên một
gánh nặng về ngoại giao. Đây là một « sui generis » (tình
trạng pháp lý chưa có tiền lệ) : chưa hề có một Nhà nước nào đòi hỏi «
quyền lịch sử trên biển » như vậy. Thế nên đường lưỡi bò đã khiến
Trung Quốc trở thành mục tiêu bị quốc tế phê phán.
Thứ
hai, khi sử dụng một thuật ngữ có vẻ giống như trong UNCLOS, Trung Quốc có thể
tránh né được những chỉ trích.
Thứ
ba - và theo hai chuyên gia trên, là đáng phẫn nộ nhất - Bắc Kinh có thể kết
luận là tốt nhất nên bóp méo Luật Biển theo kiểu của mình, qua việc sử dụng
những thuật ngữ của UNCLOS. Cường quốc đang lên này diễn dịch những quy định
hiện hành theo cách nào có lợi nhất. Tìm được sự ủng hộ về đường cơ sở có lẽ dễ
dàng hơn so với đường lưỡi bò. Tiến hành « chiến tranh pháp lý »,
Bắc Kinh có thể trông cậy vào đội ngũ đông đảo các luật sư và nhà nghiên cứu
Trung Quốc để quảng bá chiến lược mới này với cộng đồng quốc tế.
Hai
nhà nghiên cứu Julian Ku và Christopher Mirasola kết luận, trong khi chờ đợi
đường lưỡi bò bị quẳng vào thùng rác (hợp pháp) của lịch sử, khó thể tin rằng
với « Tứ Sa », Bắc Kinh sẽ đóng một vai trò khiêm tốn hơn tại
Biển Đông. Lý lẽ về « Tứ Sa » không mấy vững, thậm chí yếu
hơn cả đường 9 đoạn. Tuy nhiên để giải thích khái niệm « Tứ Sa » thiếu
vững chắc và bất hợp pháp như thế nào, cần có những phân tích phức tạp về luật
pháp, cộng với những thông điệp công khai, hiệu quả. Chính quyền Mỹ liệu có đẩy
mạnh những công cụ này để khẳng định chính sách về Biển Đông hay không ?