Hương Khê
Lời dẫn: Chủ đề về tôn giáo là vấn đề rất nhạy cảm.
Nhất là khi đề cập đến những người trong giới linh mục, tu sĩ, là việc rất
tế nhị. Vì vậy khi nói về vấn đề này, nếu không thận trọng, có thể
gây nên sự hiểu lầm là xúc phạm tôn giáo.
Nhưng
không vì thế mà cúi đầu im lặng, không dám nói đến một số cá nhân, khi họ đã lợi
dụng chiếc áo thầy tu để có những hoạt động chống phá lại tôn giáo mà họ mang
danh, để phục vụ lợi ích đen tối cho những thế lực hắc ám đang giật dây, biến họ
thành con rối, thành công cụ để thực hiện âm mưu phá hoại tôn giáo.
Do
đó, khi nói đến những con người này, không phải xúc phạm đến tôn giáo của họ,
mà chỉ là vạch cái bộ mặt thật của những người này để cho mọi người khỏi bị mắc
lừa. Đồng thời để thấy được những âm mưu, thủ đoạn mà các thế lực tà quyền
trong bóng tối thường sử dụng những người đội lốt tôn giáo này để chống phá các
tôn giáo như thế nào.
Về
nhân vật mà bài này nói đến, là một cái tên “nổi đình nổi đám” trong giới công
giáo, bởi những hoạt động hai mang của ông này. Có lẽ trong giới đồng bào công
giáo tại Sài Gòn, không mấy ai là không biết đến ông ta. Vì những hoạt động của
ông này bên ngoài giáo hội, và đời sống của ông ấy đã được phơi bày
rất nhiều trên báo chí, mạng xã hội và trong dư luận.
Vì
vậy khi nói về những nhân vật “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” này, thì hoàn
toàn không phải là xúc phạm tôn giáo. Cũng không phải là bới móc đời tư của vị
linh mục. Mà là để “vạch mặt chỉ tên” những con sâu, con chuột nấp
bóng dưới chiếc áo chùng thâm để phá hoại giáo hội mà thôi.
1. Linh mục Phan Khắc Từ là ai?
Trong
hồ sơ lý lịch của các Ứng cử viên Đại biểu Quốc hội khóa XIII(2011) tại Đơn vị
bầu cử số 9: Huyện Củ Chi và huyện Hóc Môn(TP HCM), về ông Phan Khắc Từ như
sau:
“Linh
mục PHAN KHẮC TỪ
Phó
Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam (UBĐKCGVN).
Đại
học Thần học.
Ứng
cử viên Đại biểu Quốc hội khóa XIII, Bầu cử ngày 22 tháng 5 năm 2011.
Đơn
vị bầu cử số 9: Huyện Củ Chi, huyện Hóc Môn.
Linh
mục Phan Khắc Từ sinh ngày 28 tháng 12 năm 1941. Quê quán: xã Cao Minh, huyện
Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Hiện cư ngụ tại 413 Lê Văn Sỹ, phường
12, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.
Quá
trình công tác của Ông như sau:
Từ
năm 1968: Ông là Linh mục, Phó xứ Nhà thờ Vườn Xoài, tham gia phong trào Thanh
Lao Công Sài Gòn.
Từ
năm 1969 đến năm 1970: Ông đi tu học tại Thụy Sĩ, Bỉ, Pháp, Ông đã cùng các Việt
kiều quy tụ những tín đồ Thiên Chúa giáo thế giới ủng hộ Việt Nam.
Từ
năm 1970 đến năm 1975: Ông đã làm công nhân hốt rác và tham gia các tổ chức đòi
hòa bình, đòi quyền sống, đòi thi hành Hiệp định Paris. Ông là phó Chủ tịch
phong trào nhân dân cứu đói, Chủ tịch Ủy ban bảo vệ quyền lợi lao động;
Từ
năm 1975 đến nay: Ông là Linh mục Chánh xứ Nhà thờ Vườn Xoài và đã kinh qua các
chức vụ: Phó Chủ tịch Liên hiệp Công đoàn TP.HCM, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký
Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam, Tổng biên tập Báo Công giáo và Dân tộc, Ủy
viên Ủyban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ngoài
ra, Ông còn tham gia làm Phó Chủ tịch thứ nhất Hội Cứu trợ trẻ em khuyết tật
thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên Hội nạn nhân chất độc Da cam Việt Nam, Giám đốc
Quỹ Vì trẻ em khuyết tật, Giám đốc cơ sở nuôi dưỡng và bảo trợ trẻ em khuyết tật
Thiên Phước.
Ông
là Đại biểu Quốc hội các khóa VIII, IX, X và là Ủy viên Ủy ban các vấn đề xã hội
của Quốc hội khóa IX, X.
Ông
đã được tặng thưởng: Huân chương Kháng chiến hạng nhì, Huân chương Đại đoàn kết
Dân tộc và Huân chương Độc lập hạng ba”(1).
Như
vậy là quá trình “hoạt động cách mạng” của LM Phan Khắc Từ từ trước và sau năm
1975 đến nay là rất vang dội. Về các Huân chương mà ông được nhà nước CSVN tặng
thưởng nói trên, chứng tỏ Phan Khắc Từ đã có những cống hiến rất lớn cho đảng
trong “sự nghiệp” chống phá Giáo hội Công giáo, thực hiện âm mưu “đưa đảng vào
đạo” của ĐCSVN.
Chứng
tỏ ông Phan Khắc Từ là một cán bộ ưu tú của ĐCSVN, một chiến sỹ cộng sản kiên
trung, một lòng một dạ theo đảng, hay nói theo cách nói của những người cs, là
“chiến đấu đến hơi thở cuối cùng”.
Ngay
cái việc ông tự khoe khoang “Ông đã cùng các Việt kiều quy tụ những tín đồ
Thiên Chúa giáo thế giới ủng hộ Việt Nam” cũng hoàn toàn bố láo. Tham gia vài
buổi biểu tình tại Paris cùng đám sinh viên bị cs dật dây, mà nói “quy tụ những
tín đồ Thiên Chúa giáo thế giới ủng họ Việt Nam” được sao? Một con ếch ngồi
trong ao kêu òm ọp mà tưởng là làm tiếng sấm vang, chấn động thế giới ư?
Điều
khó hiểu là theo như bản khai của ông nói trên, chỉ từ năm 1969 đến 1970, nghĩa
là trong vòng trên dưới một năm, mà ông ấy đi tu học đến 3 nước, là Thụy Sĩ, Bỉ,
Pháp. Có lẽ đây là chuyến du lịch dài ngày nấp bóng tu học chăng?
Thực
chất đây không phải là chuyến “tu học” như Phan Khắc Từ khoe khoang. Với cái lý
lịch tự tô vẽ để hy vọng được đảng ưu ái đưa ra làm ĐBQH lần này, Phan Khắc Từ
đã làm “lòi đuôi cs” là khai man, dối trá để lấy thành tích( nói ở phần sau).
Đặc
biệt, ông còn là Đại biểu Quốc hội ba khóa liên tiếp: khóa VIII,IX,X.
Vì
những công trạng to lớn như thế đối với ĐCSVN, nên LM Phan Khắc Từ đã vinh dự
được đảng và nhà nước CSVN tặng thưởng: Huân chương Kháng chiến hạng nhì, Huân
chương Đại đoàn kết Dân tộc và Huân chương Độc lập hạng ba.
Vậy
câu hỏi đặt ra là, Trong Giáo luật của Giáo hội Công giáo, có cho phép linh mục,
tu sỹ tham gia hoạt động chính trị không?
“Việc
Tham Gia của Giới Giáo Sĩ vào Chánh Trị Dựa Theo Các Quy Luật Phổ Quát của Giáo
Hội:
1.
Theo Bộ Giáo Luật (Code of Canon Law):
Có
hai điều khoản (provision) trong Bộ Giáo Luật 1983 vốn ngăn cấm việc tham gia của
giới Giáo Sĩ vào một số hoạt động chánh trị cụ thể, đó là:
Can.
285, §3 viết rằng: "Giới Giáo Sĩ không được phép đảm nhận các chức vụ công
cộng, vốn có liên quan đến sự tham dự vào việc thực thi công quyền."
(Clerics
are forbidden to assume public offices, which entail participation in the
exercise of civil power).
Tức
các Linh Mục không thể đảm nhận các vị trí công quyền vốn đòi hỏi việc thực thi
các quyền hành về mặt hiến pháp, hành chánh và pháp lý.
Can.
287, §2 viết rằng: "Giới Giáo Sĩ không được phép đóng một vai trò tích cực
trong các đảng chánh trị và theo khuynh hướng của các công đoàn trừ phi nhu cầu
để bảo vệ các quyền lợi của Giáo Hội hay để cổ võ lợi ích chung mà qua đó có được
sự suy xét/quyết định hay phán đoán của giới giáo quyền.."
(Clerics
are not to have an active role in political parties and in the direction of
labor unions unless the need to protect the rights of the Church or to promote
the common good requires it in the judgement of the competent ecclesiastical
authority).
Điều
này có nghĩa rằng các vị Linh Mục không thể nào tham gia vào hoạt động của bất
kỳ một đảng phái chính trị nào, trừ phi trong một trường hợp cụ thể "vốn
thật sự được đòi hỏi vì lợi ích chung của cả cộng đồng, và nhận được sự cho
phép của Đức Giám Mục địa phương sau khi đã tham khảo với hội đồng các Linh Mục,
và nếu trường hợp cần phải có một hay hai người như vậy, thì phải có sự đồng ý
và cho phép của cả Hội Đồng Giám Mục." (trích từ J.A. Coriden in the Code
of Canon Law: A Text and Commentary, Canon Law Society of America, New York,
1985, p.228 sq.)(2).
Như
vậy việc LM Phan Khắc Từ tham gia Đại biểu Quốc hội nước CHXHCNVN trong nhiều
khóa, và giữ các chức vụ: Phó Chủ tịch Liên hiệp Công đoàn TP.HCM, Phó Chủ tịch
kiêm Tổng thư ký Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam, Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, là vi phạm Giáo luật.
Chúng
ta đều biết, cái gọi là “Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam” thực chất là
một tổ chức bù nhìn, là công cụ của ĐCSVN. Đây là mô
hình được đảng nặn ra và nuôi dưỡng với nhiệm vụ tiêu diệt bằng được
Giáo hội Công giáo qua hình thức tinh vi là thiết lập một Giáo hội Công giáo tự
trị – tam tự – kiểu Trung Quốc. Bản chất của cái gọi là Ủy ban này, hoàn toàn
nhằm chống lại Công giáo, như lời Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt đã xác nhận: “Đó
là công giáo nhãn hiệu”.
Tổ
chức này không được Giáo Hội Công giáo công nhận. Đức Hồng y Angelo
Sodano - Quốc vụ khanh Tòa Thánh, trong văn thư đề ngày 20 tháng 5 năm 1992 gửi
Giám mục Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật - Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam
lúc đó, có viết về Ủy ban này như sau: "Một tổ chức vừa có tính chất công
dân, vừa có tính chất chính trị có nguy cơ gây lẫn lộn giữa giáo hội và tổ chức
chính trị"(3).
Chính
nhà nước CSVN cũng không giấu giếm điều này: “Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt
Nam là một tổ chức chính trị - xã hội tại Việt Nam, là một tổ chức thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy thành viên của Ủy ban là các giáo dân và một số
chức sắc Công giáo, nhưng Ủy ban này không trực thuộc Giáo hội Công giáo tại Việt
Nam”(4).
Tại
miền Bắc, tiền thân của tổ chức bù nhìn này là “Ủy ban Liên lạc những
người Công giáo Việt Nam yêu Tổ quốc, Yêu hòa bình”. Đứng đầu tổ chức này
là các tay “cộng sản nằm vùng” khoác áo linh mục như Vũ
Xuân Kỷ, Hồ Thành Biên, Võ Thành Trinh, Nguyễn Thế Vịnh, Phạm Quang Phước …
Cơ
quan ngôn luận của tổ chức này là tờ Chính Nghĩa, nhưng thực chất chỉ làm những
điều phi nghĩa, với nội dung chủ yếu là xuyên tạc Giáo Hội Công giáo. Nổi bật
là các bài “Suy gẫm” được ký tên Luca Nhật Lân, với mục tiêu chính là bôi bác,
xuyên tạc, dựng lên nhiều câu chuyện tượng tượng để nói xấu các linh mục
và giáo hội.
Người
Công giáo miền Bắc, đã quá dạn dày và kinh nghiệm với các thủ đoạn của người
cs, vì họ đã “nằm trong chăn” quá lâu, nên cái tổ chức này không mấy tác dụng
đối với Giáo Hội Công giáo miền Bắc.
Do
vậy, người Công giáo Miền Bắc, cả hàng Giáo phẩm, giáo sĩ lẫn giáo dân đều tẩy
chay nó. Không ai viết bài, không ai cung cấp tin, không ai mua báo, không ai đọc
báo. Nó phải chết! Đảng CSVN bèn vội vã thông qua Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo đẻ
ra tờ Người Công Giáo Việt Nam thay thế tờ Chính Nghĩa.
Về
tờ Người Công giáo VN này, tác giả Thiên Sứ viết: “Báo Người Công Giáo bị phê
phán gay gắt vì báo đạo mà toàn nói chuyện đời. Linh mục Thiện Cẩm nói khi vận
động TGM Ngô Quang Kiệt viết bài, TGM nói: “viết báo ấy cho xấu cả người viết.”
(Thiên
Sứ – Cuộc họp của Đoàn Chủ tịch, Ban Thư ký Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Việt Nam
– VietCatholic News, Thứ Năm 28/02/2008).
Tại miền
Nam trước năm 1975, nhóm này mang tên là “Hội Những người Công giáo
kính Chúa yêu nước”, là thành viên của cái gọi là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam”. Tổ chức này chống lại chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Năm
1983, nhà nước CSVN sát nhập hai tổ chức ở hai miền này lại, lấy tên
là “ Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước Việt Nam”. Đến năm 1990, đã
đổi tên thành “Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam”(5).
Sau
năm 1975, tại miền Nam, hoạt động của tổ chức này đã có một số tác dụng.
Đảng
CSVN coi Ủy ban Đoàn kết như đại diện cho người Công giáo Việt Nam.
Nhà nước đòi phải có ý kiến của Ủy ban Đoàn kết trong những sinh hoạt của Giáo
hội, như phong chức, thuyên chuyển. Nhưng ý kiến của Ủy ban Đoàn kết lại là những
ý kiến chỉ đạo của ĐCSVN.
Lãnh
tụ ban đầu của nhóm này tại miền Nam sau năm 1975 là các linh mục Trương Bá Cần,
Huỳnh Công Minh, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ. Giáo dân hay gọi nhóm này là “Tứ
nhân bang” hoặc “Lũ 4 tên”.
Thành
tích ban đầu của nhóm này sau 30/4/1975 là đã hô hào trục xuất Đức Khâm sứ Tòa
thánh Henri Lemaitre và phản đối việc Tòa thánh bổ nhiệm Đức cha Nguyễn Văn Thuận
làm Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Sài Gòn.
Để
làm việc này, họ đã “Nhảy qua tường, đột nhập vào Tòa Khâm sứ, dùng
búa đập phá ổ khóa ngoài cổng, trèo lên mái nhà căng biểu ngữ và hạ lá cờ Tòa
thánh. Bọn chúng hò hét: Đả đảo! Đả đảo! Henri Lemaitre về nước, cút đi, cút đi.
Họ xô đẩy đức Khâm sứ, linh mục phụ tá người Balan và linh mục Bí thư người Việt
từ trong khuôn viên Tòa Khâm sứ ra đường Hai Bà Trưng, rồi đóng sập cửa lại”.
“Các
vị ấy tấn công Tòa Khâm sứ Tòa thánh vào ngày 14/5/1975 – tức là chỉ hai tuần
sau khi cộng sản cướp chính quyền. Cũng chính các vị lãnh tụ tương lai của Ủy
ban Đoàn kết này đã hô hào loại trừ Đức cha Fx. Nguyễn Văn Thuận, Tổng Giám mục
phó Tổng Giáo phận Sài Gòn. Ngày 25/4/1975, 5 ngày trước khi tướng Dương Văn
Minh tuyên bố đầu hàng. Đức cha Fx. Nguyễn Văn Thuận – Giám mục Nha Trang, được
Đức Giáo hoàng Phaolo VI bổ nhiệm làm Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Sài Gòn
với quyền kế vị. Ngày 12/5/1975, Đức Tổng giám mục Phaolo Nguyễn Văn Bình cho
phổ biến thông cáo về việc bổ nhiệm trên. Nhóm các linh mục lãnh tụ
tương lai của Ủy ban Đoàn kết đã bao vây Đức Tổng Giám mục Phaolo Nguyễn Văn
Bình và Đức cha Fx. Nguyễn Văn Thuận. Họ yêu cầu Đức cha Thuận rút lui khỏi chức
vụ”.(Trích trong loạt bài của LM Chân Tín: “ Ủy ban Đoàn kết Công giáo: Tập
đoàn của âm mưu và tội ác”(6).
Trong
vụ phong 117 vị thánh tử đạo VN năm 1988, Ủy ban Đoàn kết tuân lệnh Đảng Cộng sản,
tổ chức khắp nơi những hội thảo, để đòi Giáo hội hủy bỏ việc phong thánh, hoặc
loại các vị tử đạo ngoại quốc. Họ còn vu khống rằng, việc Tòa thánh Vatican chọn
ngày 19/6 để phong thánh là nhằm tôn vinh ngày Quân lực VNCH?
Cũng
Ủy ban Đoàn kết đã làm cái loa cho đảng chống lại việc Tòa Thánh đặt Đức cha Huỳnh
Văn Nghi, Giám mục địa phận Phan Thiết, về làm Giám quản Giáo phận
Sài Gòn, khi Đức cha Nguyễn Văn Bình bị bệnh nặng sắp chết (1993).
Về
việc tòa thánh Vatican bổ nhiệm các giám mục tại Việt Nam, nhóm này tuyên bố
“Không cần gì phải có ý kiến của Tòa thánh Vatican, các giám mục Việt Nam cứ
thu xếp với nhau là được rồi”.
Hãy
nhìn vào thành phần của Hội đồng tư vấn(HĐTV), cơ quan tham mưu cho các Tòa
Giám mục tại các giáo phận, tại Tòa TGM Sài Gòn, thời Đức cha Nguyễn Văn Bình
thì biết, cái Ủy ban ĐKCG này đã khống chế Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn
như thế nào. Lẽ ra các thành viên trong HĐTV phải là các cha quản hạt
và các bề trên dòng. Thì trong HĐTV của GP SG đã được “đảng hóa”.
HĐTV
gồm 6 người, thì 4 người trong đó là những người đầu não của Ủy ban ĐKCG, là những
tay cs nằm vùng: linh mục Huỳnh Công Minh, linh mục Nguyễn Huy Lịch, linh mục
Phan Khắc Từ, và ông Nguyễn Đình Đầu (Chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Sài Gòn). Còn lại
2 người ngoài Ủy ban, đó là hai LM Mai Xuân Hậu và LM Chân Tín.
Trong đó, LM Huỳnh Công Minh, người đã tuyên bố đặt niềm tin vào Đảng Cộng sản
làm Tổng đại diện.
Hãy
nghe ĐTGM Nguyễn Văn Bình tâm sự: “Ủy ban này do Chính phủ thành lập. Vấn đề là
luôn luôn có những khó khăn, tại vì Ủy ban rất dễ can thiệp vào những công việc
thuộc thẩm quyền các Giám mục. Về điểm này, chúng tôi luôn luôn kháng nghị trước
chính quyền. Cũng phải biết rằng chính quyền không điểm xỉa đến những cơ cấu của
Giáo hội. Thành ra, người ta dựa vào Ủy ban Đoàn kết để giải quyết một số vấn đề.
Chẳng hạn, nếu tôi muốn tập hợp tín hữu mà xin phép Nhà Nước, Nhà Nước không
cho. Nhưng nếu tôi nhân danh Ủy ban để triệu tập tín hữu, Nhà nước sẽ dễ dàng
cho phép”(7).
Nhà
báo Nguyễn Kế Nghiệp, thư ký tòa soạn báo Người Công Giáo VN, là một đảng viên
cs không công giáo, có lần nói với một người bạn của ông: Ông có biết vì sao
cái UBĐK vẫn còn tồn tại đến nay không? Nhà nước cũng muốn dẹp cái cây cảnh héo
này lắm rồi. Nhưng dẹp nó đi thì mấy chục cán bộ ở Uy ban và Báo
CG&DT làm gì mà sống? Tôi đố tay nào ở cơ quan này đi xin nổi việc ở nơi
khác vì có biết làm gì đâu, tối ngày chỉ ngồi ăn sẵn, và dọa nhà nước về nguy
cơ của Vatican để nhận lương mà thôi!
2. Những năm “tu học” của Phan Khắc từ.
Năm
1969,Phan Khắc Từ được đi dự đại hội Thanh Lao Công thế giới có xu hướng thân cộng
tại Liban, được Liên Xô đỡ đầu và tài trợ. Tại đại hội này, nhiều phái đoàn
thanh niên công giáo lên tiếng đòi Mỹ rút quân, trả lại quyền tự quyết cho Việt
Nam, và gọi chính quyền VNCH là bù nhìn, nên Phan Khắc Từ càng thêm quyết tâm
theo CS hơn.
Sau
Đại Hội Liban, Phan Khắc Từ ở lại Âu Châu. Hơn một năm tại Pháp, Phan Khắc Từ
ngả hẳn theo khuynh hướng Thần Học Giải Phóng của nhiều giáo sĩ Châu Mỹ Latinh,
với phong trào Thanh Lao Công làm điểm tựa, cũng đồng thời là môi trường hoạt động
cho của ông ta.
Tại
Paris, Phan Khắc Từ tham gia đình công, biểu tình đòi công bằng cho giới lao động,
tham gia nhiều cuộc biểu tình của sinh viên và công nhân đòi hòa bình cho Việt
Nam. Đánh dấu bước quay đầu phản bội quan trọng nhất của Phan Khắc Từ là trong
thời gian ở Pháp, ông ta đã đến gặp bà Nguyễn Thị Bình, trưởng phái đoàn thương
thuyết của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, để xin được ra bưng theo
cs. Nguyễn Thị Bình bảo Phan Khắc Từ hãy trở về Saigon chế bom xăng đánh Mỹ
trong thành phố. Và Phan Khắc Từ đã làm theo đúng như vậy.
Cuối
năm 1970, Phan Khắc Từ trở lại Sài Gòn và lập tức hăng hái nhập cuộc với các
phong trào đấu tranh tại đây. Ông ta góp mặt trong Mặt trận nhân dân tranh thủ
hòa bình, rồi phong trào học sinh, sinh viên đòi quyền sống, phong trào chống
tăng học phí, chống độc diễn, đốt xe Mỹ trên đường phố v.v. Nhà thờ Vườn Xoài
trở thành nơi chế tạo bom xăng cho phong trào đốt xe Mỹ(8).
3.Về tờ báo Công giáo và Dân tộc(CGvDT).
Là
một tờ tuần báo, mang danh Công giáo, ra đời vào ngày 10 tháng 7 năm
1975. Tờ báo này mặc dù mang danh Công giáo, nhưng chưa hề được Giáo hội Công
giáo công nhận là cơ quan truyền thông của Giáo hội. Hiện báo này
không thuộc bất kỳ tổ chức nào của Giáo hội Công giáo, mà nó thuộc sự quản lý của
Ủy ban đoàn kết Công giáo Thành phố Hồ Chí Minh.
Những
ngày đầu tiên của tờ báo này do Huỳnh Công Minh làm Chủ
nhiệm, sau đó đến Vương Đình Bích và sau này là Trương Bá Cần làm Tổng Biên tập
từ 1992 cho đến 2009.
Trong
vụ phong 117 vị thánh tử đạo tại Việt Nam năm 1988, tờ Công giáo và
Dân tộc với những tay “đâm thuê chém mướn” như Trương Bá Cần, Vương Đình
Bích, Thiện Cẩm, Nguyễn Thiện Toàn, Huỳnh Công Minh…, đã trở thành căn cứ địa
cho công cuộc đánh phá giáo hội. Cùng với mấy tên lính xung kích của đảng như
Trần Bạch Đằng, Nguyễn Khắc Viện… Họ đã dùng tờ báo này làm cái loa điên cuồng
gáo thét chống đối việc phong thánh. Họ xuyên tạc và tuyên truyền rằng, việc
giáo hội phong thánh cho những vị này là “phá hoại mối đại đoàn kết của dân tộc,
chia rẽ đồng bào lương-giáo”.
Sau
khi Trương Bá Cần chết (10-7-2009), toàn bộ cán bộ, phóng viên và
nhân viên của tờ CG&DT chưa biết ai là người sẽ thay thế TBC để tiếp tục
lãnh đạo tờ báo. Thì vào một buổi sáng đẹp trời, y như từ trên trời rơi xuống,
người ta thấy Phan Khắc Từ nghiễm nhiên xách cặp đến tòa báo, và ngang nhiên
tuyên bố mình là Tổng Biên tập mới của tờ báo này, thay thế TBC vừa chết, trước
sự sững sờ và ngỡ ngàng của tất cả mọi người.
Thực
ra việc bố trí Phan Khắc Từ làm TBT đã được đảng bố trí sắp xếp từ trước, khi
TBC lâm bệnh nặng và khó qua khỏi. Mặc dù tờ báo này có nhiều ứng viên tiềm
năng hơn Phan Khắc Từ, như Thiện Cẩm, Vương Đình Chữ, Nguyễn Thành Long..Nhưng
“ý đảng là ý trời”, nên tất cả mọi người trong tòa báo đều phải gắng gượng chấp
nhận.
Để
đền đáp công ơn của đảng, nhân vụ đảng huy động hàng ngàn công an,
quân đội, bọn côn đo. Với những vũ khí như chất nỗ, roi điện, hơn cay, dùi cui,
chó nghiệp vụ. Bọn chúng tấn công giáo dân, và đập nát tượng Thánh giá
trên Núi Thờ thuộc giáo xứ Đồng Chiêm vào đêm 05, rạng sáng
06/01/2010, Phan Khắc Từ đã công khai lên tiếng bênh vực bọn phá đạo.
Trong bản tin Anh Ngữ của tờ SGGP, Phan Khắc Từ khẳng định rằng “Việt Nam
hoàn toàn có tự do tôn giáo.” Ông nhấn mạnh rằng cả Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô
XVI cũng hoàn toàn nhận thức rõ ràng rằng “tự do tôn giáo được tôn trọng tại Việt
Nam”. Phan Khắc Từ cũng lên tiếng kêu gọi trừng trị nghiêm khắc những ai lợi dụng
tự do tôn giáo để làm những việc sai trái.
(Trích
VietCatholic News (17 Jan 2010 06:58)
Nhờ
thành tích này mà Phan Khắc Từ, một người chưa hề viết nổi một bài báo cho ra hồn,
nghiễm nhiên trờ trành TBT của báo CG&DT cho đến nay.
Cũng
như tờ Chính Nghĩa, và sau này là Người Công giáo VN ở ngoài Bắc, tờ Công Giáo
và Dân tộc chỉ làm có hai việc: Tìm dịp bốc thơm chế độ và chờ cơ hội đánh phá
Giáo Hội Công Giáo.
Nhận
xét về tờ báo này, trong bài “Bộ mặt thật của tờ Công Giáo và Dân Tộc”, tác
giả Thùy Dung viết:
“Trong
lời nói đầu bàn về tôn chỉ và chủ trương của tờ Công giáo và Dân tộc (CGDT),
Trương Bá Cần viết:
“Trong
suốt lịch sử hình thành và phát triển tại Việt Nam, quan hệ giữa Công giáo và
Dân tộc thường khá phức tạp, nhiều khi gay go. Mối quan hệ này được dự liệu sẽ
khó khăn hơn khi những người Cộng sản lãnh đạo đất nước. Trong bối cảnh đó, tờ
CGvDT muốn là một nổ lực đóng góp khiêm tốn cho công việc giải quyết vấn đề
chung, như một bước đi trên chặng đường hành hương cùng anh em đồng đạo tìm về
Dân tộc”
Ngay
trong lời nói đầu này ,Trương Bá Cần đã để lộ dã tâm mà ông theo đuổi từ khi
cho ra đời tờ CGDT cho đến nay: đồng hóa cộng sản với dân tộc, với đất nước và
thúc đẩy người Công Giáo “hành hương” nhưng không phải tiến về quê Trời nhưng
là đi theo con đường cộng sản lỗi thời.
Để
thực hiện dã tâm này, hai chủ trương nổi bật mà CGDT đã theo đuổi trong suốt mấy
chục năm qua là: thứ nhất, không bỏ lỡ bất cứ dịp nào để đề cao đảng cầm quyền;
thứ hai: không bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào (đôi khi còn khiên cưỡng hay xuyên tạc hầu
tạo ra cơ hội) để bôi nhọ cơ cấu Giáo Hội như một cơ chế lỗi thời, bảo thủ, mù
quáng, và tội lỗi”(9).
(Về
tờ CG&DT sẽ được nói rõ hơn ở bài sau về LM Trương Bá Cần).
Với một cuộc đời bê bối
như thế, cho nên trong đạo ngoài đời chẳng còn ai tin tưởng Phan Khắc Từ là điều
dễ hiểu.
Trên đây là chỉ mới phác họa sơ khảo về "chân dung” của vị linh mục quốc doanh, và một số hoạt động chống phá giáo hội của
ông ấy tại UBĐKCG, nơi Phan Khắc Từ làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký, và đôi
nét về tờ CG&DT, nơi ông đang giữ vai trò TBT.
Còn
những câu chuyện về vợ con của LM Phan Khắc Từ là ai? Vợ Phan Khắc Từ đã nói gì
tại GX Vườn Xoài nhân "Ngày gia đình Việt Nam,
28.06.1010". Và Phan Khắc Từ đã chiếm đoạt 250 cây vàng, là tài
sản của GX Vườn Xoài, do bán căn toạ lạc tại 359/41 Lê văn Sĩ P.2,Q3 Sài Gòn,
do gia đình bà cụ Tú dâng cúng cho GX Vườn Xoài như thế nào..vv. xin
hẹn dịp sau.
(còn
nữa)
Chú thích:
(2): (http://giaophanthanhhoa.net/giao-luat/giao-luat-va-viec-giao-si-tham-gia-vao-chinh-tri-12521.html).