Marcus Mietzner
Người dịch: Nguyễn Quang A
Marcus Mietzner |
Marcus Mietzner là phó giáo sư ở Trường châu Á và Thái Bình
Dương tại Đại học Quốc gia Australia. Cuốn sách mới nhất của ông là Money, Power, and Ideology:
Political Parties in Post-Authoritarian Indonesia (2013).
T |
Joko Widodo |
Cuối cùng, Prabowo
đã thua Joko Widodo (được
gọi thân mật là “Jokowi”), thị trưởng thủ đô Jakarta, với một tỷ lệ 53,1 trên 46,9
phần trăm. Ngay cả sau khi thất bại của ông
đã rõ ràng, Prabowo đã tiếp
tục thách thức của ông bằng cách công bố những tính toán nhanh bị thao túng
hiển nhiên cho thấy ông ta đang thắng, và bằng cách thử can thiệp vào việc xếp
thành bảng chính thức tại cơ sở. Bất chấp các thủ đoạn này, Ủy ban Tổng tuyển
cử đã tuyên bố Jokowi thắng cuộc vào ngày 22 tháng Bảy, mở đường cho lễ
nhậm chức của ông trong tháng Mười. Tuy nhiên, cuộc bầu cử đã tiết lộ
tính dễ bị tổn thương tiếp tục của nền dân chủ non trẻ của Indonesia và đã làm nổi bật sức mạnh của các lực
lượng chống dân chủ của nước này – bên trong cả elite lẫn toàn bộ cử tri
nói chung. Khả năng của Prabowo để thu hút
gần nửa dân cư với một chương trình nghị sự dân túy và dân tộc chủ nghĩa cực
đoan gợi ý rằng nền dân chủ Indonesia cần sự tăng cường thêm – một nhiệm vụ bây
giờ rơi trên vai Jokowi.
Các lựa chọn thay thế nổi bật đối mặt các cử tri Indonesia
trong cuộc bầu cử tháng Bảy năm 2014 và kết cục bầu cử nói gì với chúng ta
về tình trạng của nền dân chủ Indonesia?
Dựa trên những phỏng vấn với các diễn viên
chủ chốt, tiểu luận này nhấn mạnh rằng cuộc bầu cử đã không chỉ là một cuộc
tranh đua giữa hai ứng viên, mà cũng là giữa những quan niệm hoàn toàn trái
ngược nhau về quyền lực và những tầm nhìn cho tương lai của Indonesia. Như thảo luận sau đây cho thấy,
những sự bất đồng này đã được phản ánh trong ba đối kháng xảy ra trong thời
gian các cuộc bầu cử: thứ nhất, sự tình nguyện cơ sở đối lại (versus, vs.) hoạt động chính trị đầu não đầu sỏ; thứ hai,
sự chừng mực kỹ trị vs. chính sách mị
dân dân túy; và thứ ba, sự ủng hộ các cuộc
bầu cử dân chủ vs. sự lên án chúng là
“phi-Indonesia” và quá tốn kém. Cái gì đã làm cho nền dân chủ Indonesia có thể sống sót qua thách thức của Prabowo,
và khả năng của chính thể hậu-Suharto sẽ
ổn định trong những năm tới là thế nào?
Nền Dân chủ của Yudhoyono: 2004 đến 2014
Prabowo Subianto |
Cả thách thức dân túy của Prabowo lẫn sự nổi
lên của đối thủ của ông ta, Jokowi, đều không thể hiểu được ngoài bối
cảnh của nhiệm kỳ tổng thống của Susilo
Bambang Yudhoyono (2004–14). Các
chiến dịch dân túy chống lại hiện trạng status quo
xảy ra điển hình trong các chính thể gặp nỗi thống khổ của các khủng hoảng
chính trị và kinh tế.1
Điều này có thể gợi ý rằng tính hiệu
quả của thách thức của Prabowo đã gắn với sự thất bại thực hoặc được cảm nhận
của nền dân chủ Indonesia để thỏa mãn các công dân của nó. Thế nhưng nền dân
chủ Indonesia đã không có vẻ bị khủng hoảng dưới thời Yudhoyono. Về
chính trị, Yudhoyono đã xoay xở để ổn
định hóa hệ thống rối loạn trước đây, chấm
dứt các xung đột chung có từ lâu đời (giữa chúng, cuộc chiến tranh ba mươi năm
ở Aceh), và trông coi sự củng
cố của các định chế mới, như Tòa án Hiến pháp. Sự thỏa mãn đối với nền dân chủ
đã cao trong cuối các năm 200 và đầu các năm 2010 (83 phần trăm trong tháng Bảy 2014),2 và
tỷ lệ người đi bỏ phiếu đã trên 70 phần trăm trong các cuộc bầu cử quốc gia
suốt thời kỳ hậu-Suharto. Điều này tương phản sắc nét với tình hình ở
các nước khác đã trải qua sự tiếp quản dân túy: ở Venezuela, chẳng hạn, tỷ lệ người đi bỏ phiếu đã sụt xuống 62 phần
trăm trong năm 1998, khi Hugo Chávez
được bầu lần đầu tiên, và các định chế chính phủ đã được xem một cách rộng rãi
là không hiệu quả và suy sụp.
Về kinh tế, Indonesia đã thịnh vượng dưới thời Yudhoyono. Thu nhập bình quân đầu người của
Indonesia đã tăng gấp ba giữa 2004 và
2012 (từ US$1.161 lên $3.557), và
tầng lớp trung lưu đã mở rộng nhanh chóng. Indonesia bây giờ khoe khoang về 74 triệu người trung lưu và người tiêu dùng giàu có, một nhóm người tăng 8 đến 9 triệu người mỗi năm.3 Tăng trưởng
kinh tế hầu hết đã trên 5 phần trăm trong nhiệm kỳ của Yudhoyono, với Indonesia đạt địa vị của một nền
kinh tế một ngàn tỷ dollar trong năm 2014.
Lần nữa, tình hình đã rất khác ở Venezuela
trước sự tiếp quản của Chávez – ở đó,
thu nhập đầu người đã giảm một nửa trong bảy năm trước thắng lợi năm 1998 của
ông ta.
Bất chấp sự ổn định nói chung của chính thể
và nền kinh tế, sự bất mãn đáng kể với Yudhoyono (và chính trị elite nói chung) đã đang lên men. Diễn giải tối thiểu chủ nghĩa của Yudhoyono
về củng cố dân chủ (tức là, sự ưa thích của ông cho ổn định hóa status quo hơn là thúc đẩy
những cải cách thêm) đã tạo ra một cảm giác
về sự ngưng trệ chính trị xã hội, đặc biệt trong nhiệm kỳ hai của ông (2009–14). Trong thực tế, Yudhoyono bị giới hạn nhiệm kỳ đã không khởi động
một sáng kiến chính sách đáng kể duy nhất nào trong nhiệm kỳ hai (và cuối cùng)
của ông, làm thất vọng những người bỏ phiếu đã bầu lại ông trong một thắng lợi
long trời lở đất năm 2009. Kết quả là, sự mến mộ dân chúng của tổng thống đã
suy sụp – giảm từ 75 phần trăm trong tháng Mười Một 2009 xuống 47 phần trăm
tháng Sáu 2011 và 30 phần trăm vào tháng Năm 2013.4
Nó đã chỉ phục hồi chút ít trong năm
2014 khi các cử tri chuyển sự chú ý của họ sang các ứng viên ganh đua để kế vị
ông.
Yudhoyono đã bị phê phán đặc
biệt vì sự thất bại của ông để chế ngự tham nhũng. Trên thực tế, Đảng Dân chủ (PD) của
ông đã trở thành biểu tượng của sự câu kết và thói bao che dung túng tràn lan
gây tai họa cho Indonesia.
Chủ tịch đảng Anas Urbaningrum
đã bị buộc tội năm 2013 và
muộn hơn đã bị bắt, cũng như người được ưa thích một thời để kế vị ông, bộ
trưởng bộ thể thao và thanh niên Andi Mallarangeng.
Hai bộ trưởng khác của PD cũng đã dính
đến các vụ tai tiếng tham nhũng, với con trai của một trong hai người đã bị bắt
trong tháng Sáu 2014. Con trai tổng
thống và tổng thư ký của đảng, Edhie
Baskoro Yudhoyono, đã được nhắc đến trong nhiều vụ xử tham nhũng, tuy
không lời buộc tội nào được đưa ra chống lại ông. Những người Indonesia cũng đã
chau lông mày vào danh sách các ứng viên lập pháp 2014 của PD, mà bao gồm không ít hơn mười lăm thành viên gia
đình Yudhoyono.
Nhưng phần lớn sự vỡ mộng với chính phủ Yudhoyono
đã liên quan đến chính sách kinh tế và xã hội. Mặc dù tình trạng chung của nền
kinh tế đã lành mạnh dưới thời Yudhoyono, và các số thống kê nghèo khổ và thất nghiệp đã có
vẻ ấn tượng (giữa 2004 và 2013, tỷ lệ nghèo đã giảm từ 16,7 xuống 11,4 phần
trăm, và thất nghiệp đã giảm từ 9,9 xuống 5,9 phần trăm), 43 phần trăm người
Indonesia vẫn sống dưới $2 một ngày.5 Nhiều
trong số những người nghèo cảm thấy họ đã không được lợi từ sự tăng trưởng kinh
tế của đất nước. Hầu hết các kinh tế gia thống nhất, lưu ý rằng phần lớn “cơn
bột phát” của Indonesia đã được gây ra
bởi khu vực hàng hóa thâm dụng vốn, chứ không bởi chế tác thâm dụng lao động.
Nói cách khác, phần lớn tăng trưởng đã làm cho người giàu giàu hơn, trong khi
tạo ra ít ích lợi cho các giai cấp dưới. Gây ấn tượng mạnh, hệ số Gini, cho biết mức bất bình đẳng trong xã hội (0 biểu
thị sự bình đẳng hoàn toàn của phân bố thu nhập; 1 biểu thị sự bất bình đẳng
hoàn toàn), đã đạt mức cao kỷ lục 0,413
trong năm 2013. Như thế, trong khi Indonesia của Yudhoyono đã không bày tỏ các đặc điểm thông thường
của một chính thể suy tàn, đã có đủ nguồn bất mãn cho những kẻ thách thức dân
túy để khai thác.
Cả hai ứng viên kế vị Yudhoyono đã
sử dụng sự bực tức dồn nén của những người Indonesia cho thế lợi của họ, nhưng
theo cách rất khác nhau. Về phần mình, Prabowo
đã giới thiệu mình như một người dân túy mạnh
mẽ cổ điển, quở trách sự yếu kém và tham nhũng của giai cấp chính trị Indonesia.
Cho rằng tài nguyên của đất nước đã bị bán rẻ cho những người nước ngoài, ông
đã hứa bảo vệ sự giàu có của quốc gia và khôi phục sự kiêu hãnh của nó. Vay
mượn từ các kịch bản của Chávez và người Thái hùng mạnh Thaksin Shinawatra,
Prabowo đã kêu gọi người nghèo, đưa ra cho họ một catalog chi tiết về sự giúp
đỡ. Ông thậm chí đã tiếp quản một tổ chức nông dân trong năm 2004 – một nước đi
được thiết kế để che dấu địa vị như một triệu phú mà chiến dịch tranh cử của
ông được cấp tiền bởi em ông, Hashim Djojohadikusumo,
một trùm tư bản. Trên thực tế, cả Prabowo và Hashim đã là những kẻ tìm kiếm
đặc lợi nguyên mẫu, có được của cải thông qua các mối quan hệ và các danh mục
đầu tư tài nguyên thiên nhiên.6 Prabowo đã không chỉ là một người xa lạ với
nghèo khổ mà ông hứa khắc phục; ông cũng đã tham gia vào chính việc khai thác
tài nguyên thiên nhiên mà ông phê phán kịch liệt đến vậy.
Phóng chiếu một hình ảnh mạnh mẽ xuất phát
chủ yếu từ lịch sử của ông với tư cách một chủ huy các Lực lượng Đặc biệt dưới
chế độ Trật tự Mới của Suharto, Prabowo đã lôi cuốn các mảng cử tri bảo thủ. Nhưng
sự nghiệp quân sự của ông là một tài sản nợ chính trị cũng nhiều như một tài sản có. Trong năm 1997 và 1998,
đơn vị của Prabowo đã bắt cóc ít nhất 22 nhà
hoạt động chống chế độ, 13 người trong số đó đã chẳng bao giờ tái xuất hiện.
Prabowo được cho là phải chịu trách nhiệm về các sự kiện này và bị sa thải khỏi
quân đội tháng Tám 1998. Sau đó ông đã đi lưu vong ở Jordan trước khi trở về Indonesia năm 2001
để khởi động sự nghiệp chính trị của ông.
Trong năm 2004, ông đã không thành công tìm
kiếm sự đề cử làm ứng viên tổng thống của Golkar, bộ máy bầu cử trước
kia của Suharto, sau việc đó ông đã lập đảng
riêng của mình, Gerindra. Trong năm 2009, Prabowo đã là ứng viên phó tổng thống của Megawati Sukarnoputri, nhưng Yudhoyono đã đánh bại cặp này trong một chiến thắng vang
dội. Các vụ bắt cóc đã đè nặng tất cả các cuộc vận động hậu-Suharto của Prabowo,
nhưng đã đóng một vai trò đặc biệt trong huy động các nhóm xã hội dân sự chống
lại việc đề cử ông năm 2014. Thế mà
một số thăm dò dư luận đã gợi ý không chỉ rằng một số đáng kể những người Indonesia đã không biết hoặc không quan tâm đến
quá khứ của Prabowo, mà cả rằng một số đã thậm chí ủng hộ ông bởi vì việc đó.7 Có lẽ, họ đã coi những vi phạm nhân quyền của ông
như một dấu hiệu của sự cứng rắn và sự hiến dâng cương quyết cho nhà nước.
Về chính trị, Prabowo đã đưa
ra đề nghị quay lại một chính thể trong đó sự lãnh đạo tổng thống sẽ phá vỡ sự
không ăn khớp của các lợi ích mà nền dân chủ đã gây ra. Trong nhiều bài phát
biểu và tuyên bố, ông đã đề xuất phục hồi phiên bản gốc của Hiến pháp 1945 đã
được dùng như nền tảng của các chế độ của cả Suharto và tiền nhiệm của ông Sukarno (tổng thống sáng lập của Indonesia).8 Kể
từ 1998, hiến pháp đã được sửa đổi bốn
lần, để đưa ra các cuộc bầu cử trực tiếp tổng thống, một quốc hội mạnh hơn, một
hiến chương nhân quyền, và một hệ thống kiểm soát và đối trọng mới. Việc quay
lại Hiến pháp 1945 sẽ có nghĩa là hủy tất cả các cải cách hậu-Suharto này và khôi phục khung khổ độc đoán trước. Prabowo đã
không biện hộ chương trình nghị sự này: Ông đã tuyên bố rằng các cuộc
bầu cử trực tiếp là một ý tưởng Tây phương không không phù hợp với Indonesia và,
hơn nữa, rằng, chúng quá tốn kém và gây ra tham nhũng.9
Tuy vậy, trái ngược với các cuộc vận động
dân túy thành công của Chávez và Thaksin,
Prabowo đã làm phiền việc thu hút các cử tri mục tiêu của ông, những người nghèo
nông thôn. Một cách nghịch lý, Prabowo
đã được nhiều sự ủng hộ từ các cử tri giàu có, đô thị, và được giáo dục tốt. Một thăm dò cử tri vừa bỏ phiếu đã tiết lộ rằng
Prabowo đã lết sau Jokowi, 39 so
với 47 phần trăm, giữa những các cử tri chỉ có trình độ tiểu học, nhưng Jokowi
đã dẫn đầu, 46 so với 34 phần
trăm, giữa những người tốt nghiệp đại học, một nhóm nhỏ hơn rất nhiều.10 Tương
tự, Prabowo lết sau Jokowi với 37 so với 47 phần trăm giữa các
cử tri có thu nhập thấp (dưới $100 một
tháng), nhưng đã vượt Jokowi với 45
so với 39 phần trăm những người có thu nhập cao hơn (trên $200 hàng tháng). Prabowo cũng đã lết sau ở vùng nông thôn, 38 so với 47 phần
trăm, trong khi dẫn trước ở các thành
phố 42 so với 40 phần
trăm. Các cuộc thăm dò đã cho thấy rằng các cử tri tầng lớp trên đã ủng hộ Prabowo bởi vì họ coi ông như
người có kinh nghiệm, tự tin, và tinh tế hơn so với Jokowi không viển vông và
khá thô, và sức lôi cuốn của ông giữa quần chúng nông thôn đã chọc tức
nhiều người thành thị. Chung cuộc, tuy vậy, sự ủng hộ Prabowo giữa các công dân giàu có của Indonesia đã không đủ để bù cho sự
thiếu hụt của ông giữa các giai cấp thấp hơn.
Những người Indonesia nghèo ở nông thôn đã
cảm thấy được Jokowi lôi cuốn một cách tự nhiên, ngăn cản những cố
gắng của Prabowo để tranh thủ các cử tri đó.
Không giống Prabowo, Jokowi đã gới thiệu mình như một người dân
túy – nhưng thuộc một loại rất khác. Trái
ngược với hầu hết các nhà dân túy thường, ông đã không chê bai sự suy đồi chung
của nhà nước và xã hội; ông đã không thử đóng vai người nghèo chống lại người
giàu; và ông đã không kích động chống lại những ảnh hưởng nước ngoài. Thay vào
đó chủ nghĩa dân túy của Jokowi đã là
thực dụng, ôn hòa, và dung nạp. Ông đã có khả năng huy động các giai cấp thấp
hơn mà không sử dụng vốn tiết mục điển hình của lối nói hoa mỹ dân túy “cứng
rắn” chủ yếu bởi vì nguồn gốc và cách sống khiên tốn của ông. Sinh năm
1961 ở Solo, Jokowi đã xây dựng một doanh nghiệp nhỏ về đồ nội thất
trước khi tranh cử chức thị trưởng của thành phố quê ông năm 2005. Nhanh
chóng có được uy tín vì việc giải quyết vấn đề và sự hiến dâng để cung cấp dịch
vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục đáng tin cậy, Jokowi đã thắng dễ dàng cuộc bầu cử lại trong năm 2010. Tuy vậy, cũng quan trọng như các
thành tựu của mình ông đã cẩn trọng nuôi dưỡng hình ảnh cá nhân của ông: Mặc đồ
rẻ tiền và nói theo cách bình thường, không tao nhã, Jokowi đã trông và nghe giống
một người Indonesia trung lưu thấp trung bình, khiến ông có vẻ giống
người tương phản với các chính trị gia elite Indonesia
điển hình.11
Với vóc dáng tầm quốc gia của ông tăng lên
sau 2010, Jokowi được sự chú ý
của các lãnh tụ đảng của Indonesia. Mặc dù Jokowi về danh
nghĩa đã là một đảng viên của Đảng Dân chủ Chiến đấu Indonesia (PDI-P) đa
nguyên và dân tộc chủ nghĩa của Megawati, ông đã ít quan tâm đến hoạt động của
đảng. Nhưng trong năm 2012, Megawati đã
biệt phái Jokowi ra tranh cử trong các cuộc bầu cử thống đốc Jakarta chống lại một người đương chức có vẻ vô
địch. Lý thú là, Prabowo và Hashim
đã ủng hộ sự đề cử Jokowi – một nước đi họ đã thấy hối tiếc. Phát
triển một cuộc vận động cơ sở và phương tiện xã hội hiệu quả, Jokowi đã đi tiếp một cách bất ngờ để thắng
cuộc bầu cử. Thắng lợi này đã là bước đột phá lớn của ông như một ngôi sao
truyền thông quốc gia – từ đó trở đi, ông đã là một người ngồi lỳ đều đặn trên TV và các site
tin tức trên Internet. Media cũng đã
giúp ông quảng bá các thành tựu của ông với tư cách thống đốc mới của thủ đô:
Trong vòng mấy tuần sau khi nhậm chức, ông đã khởi động một sơ đồ chăm sóc sức
khỏe mở cửa bệnh viện của Jakarta cho người
nghèo; ông đã đưa ra một chương trình học bổng mới cho các học sinh từ
các gia đình có thu nhập thấp; ông đã ưu tiên hệ thống giao thông nhanh đại
chúng đã bị chậm trễ từ lâu. Vào đầu 2013,
Jokowi đã đột ngột dẫn đầu các cuộc thăm dò
dư luận về các ứng viên tổng thống khả dĩ, và tuy ban đầu Megawati đã có vẻ lưỡng lự, bà đã trao cho ông sự đề cử của đảng bà trong tháng Ba 2014.
Nhưng mặc dù Jokowi đã có
được những mức chưa từng thấy về sự nổi tiếng cá nhân, ông đã không trình bày
được một chiến lược hay tầm nhìn chính trị rõ ràng cho pha tiếp theo của sự dân
chủ hóa Indonesia. Khi được các nhà báo hỏi, Jokowi đã khẳng định sự ủng hộ
mạnh mẽ cho khung khổ dân chủ hiện tồn của Indonesia, hứa làm cho nó hiệu quả
hơn. Nhưng ông đã thường bày tỏ sự ngạc nhiên khi bị đặt câu hỏi này, chỉ ra
các nhiệm kỳ của ông ở Solo và Jakarta như
bằng chứng của lòng tin của ông vào tính công khai, minh bạch, và sự công bằng
dân chủ.
Tin chắc rằng việc này sẽ là đủ để gây ảnh
hưởng các cử tri, ông đã tự kiềm chế không xây dựng một chương trình nghị sự
dân chủ mạch lạc để phản lại tầm nhìn dân túy và tân độc đoán của Prabowo. Thay
vào đó, ông đã tập trung vào nuôi dưỡng hình ảnh của mình như một người khiêm
tốn của nhân dân, tổ chức cuộc vận động của ông như một loạt các cuộc viếng
thăm các chợ và các quán ăn ven đường. Trong khi đi diễn thuyết khắp nơi cho các ứng viên lập pháp
của PDI-P trong tháng Tư 2014, ông đã từ chối để đề cập chút nào đến các vấn đề
cương lĩnh, và chỉ từ từ phát triển một cương lĩnh cho cuộc vận động tranh cử
tổng thống trong tháng Sáu và tháng Bảy. Sự mến mộ của dân chúng đối với ông do
đó đã tụt: Trong tháng Mười Hai 2013,
ông đã đướng trước Prabowo 39 điểm phần
trăm (62 so với 23 phần
trăm); và tiếp theo, sự dẫn đầu
của Jokowi đã thu hẹp chỉ còn 16 điểm (52 so với
36 phần
trăm); và vào tháng Sáu, ông và Probowo đã suýt soát ở 46 với 45 phần trăm,
một cách tương ứng.12
Jokowi, có vẻ, đã hướng tới thất bại, cùng với nền dân chủ mà những người Indonesia đã xây dựng từ 1998.
Việc Jokowi cuối
cùng đã thắng thế – và nền dân chủ Indonesia đã sống sót – phần lớn là do những
diễn tiến trong ba lĩnh vực then chốt của sự tranh cãi dân chủ: 1) sự căng
thẳng hình mẫu giữa sự huy động
cơ sở do công dân dẫn dắt và chính trị bộ máy đầu sỏ; 2) sự cạnh tranh giữa sự điều độ
và tính chiến đấu dân túy; và 3)
sự đàm luận về tầm quan trọng của các cuộc
bầu cử cho nhà nước quốc gia Indonesia.
Chính trị Bộ máy vs. Hành động Tình nguyện Cơ sở
Một trong những thảo luận quan trọng nhất
giữa các nhà khoa học chính trị tập trung vào Indonesia trong thập niên vừa qua đã liên quan tới vai trò
của những kẻ đầu sỏ trong hoạt động chính trị dân chủ.13 Trong khi một số học giả đã khẳng định rằng những
kẻ đầu sỏ đang kiểm soát các định chế và các thủ tục dân chủ của Indonesia (bằng
việc có khả năng tài trợ hay kiểm soát trực tiếp các bộ máy chính trị bảo vệ
các lợi ích của họ), các học giả khác – kể cả tác giả này – đã mô tả
hoạt động chính trị hậu độc đoán như một cuộc tranh cãi đang tiếp tục và thường
là cân bằng ngang nhau giữa các lực lượng đầu sỏ và không đầu sỏ.14 Có thể cho rằng, sự cân bằng này lần nữa đã biểu lộ
trong các cuộc bầu cử 2014, với chiến
dịch của Prabowo dựa vào chính trị bộ
máy đầu sỏ, trong khi cuộc vận động của Jokowi phần lớn đã phụ thuộc vào những
người tình nguyện cơ sở. Và cuối cùng, bộ máy bầu cử được tài trợ tốt
của Prabowo đã thất bại, song chỉ với một sự
chênh lệch nhỏ.
Hệ thống bầu cử tổng thống trực tiếp của Indonesia,
được đưa vào năm 2004, đã tạo ra một môi trường trong đó chính trị bộ máy được dẫn
dắt bằng tiền là một phần quan trọng của cạnh tranh bầu cử. Để có đủ tư cách
cho việc bỏ phiếu, các ứng viên tổng thống phải có được sự ủng hộ của các đảng
hay của liên minh các đảng đã nhận được hơn 20 phần trăm số ghế hoặc 25 phần trăm phiếu bầu trong các cuộc bầu cử quốc
hội trước đó. Được thiết kế để hạn chế số các ứng viên và để cho tổng thống sắp
nhậm chức một cơ sở quyền lực ở quốc hội, quy định này đã trao cho các bộ máy
đảng một vai trò then chốt trong các cuộc vận động bầu tổng thống. Prabowo,
về phần mình, đã kết hợp một liên minh bảy
đảng chính trị lại với nhau, kể cả bốn đảng với các bộ máy được thử thách:
Golkar; PKS (Đảng Công lý Thịnh vượng) Islamist, có một
mạng lưới mạnh các nhà hoạt động trung thành; đảng Gerindra của riêng Prabowo;
và đảng PD của Yudhoyono. Bản thân
tổng thống ban đầu đã trung lập, nhưng đã tiếp
Prabowo tại dinh thự riêng của ông vài ngày trước bầu cử – một nước đi được diễn giải rộng rãi như sự xác
nhận của Yudhoyono cho Prabowo.
Đúng như cơ sở hạ tầng hiện tồn của các đảng
là quan trọng, các nhà lãnh đạo đầu sỏ tài trợ cho chúng cũng quan trọng. Những
người này đã gồm chủ tịch Golkar, Abdurizal Bakrie,
một ông trùm tư bản với tài sản $2,45 tỷ nhưng cũng có nợ đáng kể;15
em trai của Prabowo và nhà bảo trợ
đảng Gerindra, Hashim Djojohadikusumo có tài sản ước tính $700 triệu; bản thân Prabowo, người đã khai
tài sản khoảng $160 triệu
cho Ủy ban Bầu cử; và ứng viên phó tổng thống của ông, Hatta Radjasa, chủ
tịch Đảng Ủy nhiệm Quốc gia (PAN), người đã khai tài sản chỉ $3 triệu, nhưng được cho một cách rộng rãi
là có sự ủng hộ của Muhammad Riza Chalid một nhà buôn dầu giàu có. Ngoài các đầu sỏ đảng này ra, Prabowo đã tìm
thêm sự ủng hộ của Hary Tanoesoedibjo, một ông trùm tư bản có gốc Hoa người
có tài sản thuần $1,4 tỷ và – quan trọng – đã sở hữu ba đài TV với thị phần khoảng 40 phần trăm. Nhìn tổng thể, thì bộ máy của Prabowo đã được tra dầu mỡ tốt, như được minh chứng
bởi tính chuyên nghiệp của những quảng cáo trên media của nó và tốc độ
mà tiền đã đến các thành phần địa phương của bộ máy.
Công việc của các bộ máy chính trị của Prabowo (cả được vận hành
bởi các đảng lẫn hoạt động bên ngoài các đảng) đã tỏ ra là công cụ đắc lực cho các cố gắng huy
động cử tri của ông. Thí dụ, các đảng bộ và các nhà hành động khác ủng hộ Prabowo
đã tổ chức các cuộc meeting của các lãnh đạo
địa phương có ảnh hưởng; đã phân phát tiền cho các trưởng thôn hay các
nhóm tôn giáo, sắc tộc, và xã hội; và đã hứa phân phát các lợi ích phúc lợi và
các dự án nếu Prabowo thắng. Tính hiệu quả của chiến dịch này đã đặc biệt dễ
thấy giữa những người ủng hộ của các đảng khác nhau tụ hợp trong liên minh Prabowo. Trong khi vào lúc đầu chiến dịch, nhiều cảm tình
viên của các đảng thuộc liên minh Prabowo
đã tuyên bố ý định của họ để bỏ phiếu cho Jokowi, theo thời gian phần lớn đã cúi mình theo mong muốn
của ban lãnh đạo của họ: Ngay trước ngày bầu cử, 81 phần trăm các cử tri
PKS đã cam kết ủng hộ Prabowo (tăng
từ 53 phần trăm hai tuần trước), như 56
phần trăm cử tri Golkar đã hứa (tăng từ 43 phần trăm), 50 phần
trăm cử tri PD (tăng từ 37 phần trăm), và 90 phần
trăm cử tri Gerindra.16
Nhưng dẫu bộ máy của Prabowo có hiệu quả đến
đâu, đã có những giới hạn về tầm với của nó. Những người hành động ở địa phương
của Prabowo đã thú nhận
rằng các lãnh tụ cộng đồng và các cử tri mà họ có khả năng huy động đã thiếu
nhiệt tình. Một phụ nữ có nhiệm vụ phân phát tiền cho các giáo sĩ Muslim ở Madiun,
Đông Java, đã thú nhận rằng “nếu giả
như họ đã không nhận được khuyến khích, tất cả họ đã bỏ phiếu cho Jokowi.”17 Tương tự, người thăm dò ý kiến chính của Prabowo ở
Đông Java đã dự đoán đúng, “Prabowo có thể dẫn đầu trong thăm dò dư luận, nhưng các cử tri của Jokowi
tận tâm hơn – và họ sẽ tập hợp mạnh mẽ vào ngày bỏ phiếu.”18 Quả thực, tỷ lệ đi bỏ phiếu tương đối thấp 69,6 phần
trăm ngụ ý rằng nhiều công dân hứa bỏ phiếu cho Prabowo rốt cuộc đã ở nhà. Một
nhân tố then chốt trong quyết định của cử tri để không bỏ phiếu đã là sự bất
lực của bộ máy của Prabowo để tiến hành mua phiếu một cách có hệ thống.
Tuy ứng viên đã có thể có đủ sức để phân phát các số tiền nhỏ cho các lãnh đạo
xã hội – và đã có những báo cáo riêng biệt về mua phiếu bàu – ngay cả các két
tiền đầu sỏ của Probowo hợp lại đã không được
nhồi đủ để đưa tiền cho mỗi trong số 194 triệu cử tri
của Indonesia. Việc này, tất
nhiên, đã khác hoàn toàn với các cuộc bầu cử quốc hội, khi hơn 230.000 ứng viên đã cạnh tranh vì các lá phiếu,
nhiều trong số họ bằng cách phân phát tiền mặt (xem tiểu luận của Edward Aspinall
ở pp. 96–110 [trong cùng số Journal of Democracy]).
Ngược lại, Jokowi đã
giao chiến dịch của mình cho những người tình nguyện cơ sở nhiều hơn cho các
chính trị gia bộ máy. Chắc chắn, việc này đã không hoàn toàn do lựa chọn. Bốn
đảng chính trị ủng hộ việc đề cử Jokowi: PDI-P; Đảng Thức tỉnh Quốc gia (PKB), một đảng Muslim theo chủ nghĩa truyền thống; NasDem (đứng đầu bởi ông trùm media Surya Paloh, có tài
sản được ước tính $100 triệu); và
Hanura, đứng đầu bởi Wiranto, một cựu tư lệnh lực lượng vũ trang
và đối thủ của Prabowo. Thêm vào bốn
đảng này, ứng viên phó tổng thống của Jokowi
là một cựu phó tổng thống giàu có và một nhân vật của Golkar, Jusuf Kalla.
Nhưng bộ máy đảng của PDI-P – giả sử là động
cơ chính của cuộc vận động – đã không hoạt động trơn tru. Trước hết, một phái
mạnh bên trong ban lãnh đạo trung ương của đảng, kể cả con gái của Megawati, Puan Maharani,
đã coi Jokowi như một người mới đến
không xứng đáng sự ủng hộ của PDI-P và
vì thế đã làm chậm việc giải ngân các quỹ vận động từ nhiều nhà tài trợ lớn của
đảng. Kết quả là, các đảng bộ địa phương đã gặp rắc rối để tiến hành các hoạt
động có hệ thống. Hơn nữa, nhiều lãnh đạo địa phương của PDI-P đã bị
thất vọng bởi sự bất lực của Jokowi để tăng
thành tích của đảng trong các cuộc bầu cử quốc hội (nó đã chỉ được 19 phần trăm số phiếu), và như thế đã cảm thấy không
có nghĩa vụ làm việc cho ông.
Thay cho một bộ máy đảng có thể làm việc, Jokowi đã
dựa nhiều vào một mạng lưới được điều phối lỏng lẻo của các tình nguyện viên.
Những người này gồm các nhà chuyên nghiệp trẻ quảng cáo ông trên mạng truyền
thông xã hội; các sinh viên tổ chức các mạng hỗ trợ; các nhà hoạt động
vươn tới các cộng đồng của họ; và các nhân vật tôn giáo Muslim và non-Muslim.
Trong khi hầu hết những người tình nguyện này đã làm việc một cách độc lập, đã
có hai tổ chức thử thực thi một mức điều phối tối thiểu: Ban thư ký Quốc gia
cho Jokowi (Seknas Jokowi) và
Pro-Jo. Jokowi đã xem chúng như các trụ
cột chính của chiến dịch của mình và đã thường đến thăm các văn phòng địa
phương của chúng trước các đảng bộ PDI-P.
Hơn nữa, Jokowi đã là ứng cử viên tổng thống đầu
tiên trong lịch sử Indonesia để khởi động
một nỗ lực huy động quỹ đáng kể dựa trên cộng đồng. Trong một lời ám chỉ tinh
tế cho PDI-P rằng ông đã biết các khoản quỹ cho ông đã bị giữ lại, Jokowi đã kêu gọi những người ủng hộ mình tặng tiền cho cuộc vận động của ông.
Bình thường trong các nền dân chủ được củng cố hơn, việc này đã là mới ở
Indonesia, nơi các cuộc vận động
thường được tài trợ bởi những kẻ đầu sỏ, các nhóm lợi ích, và bản thân các ứng
viên. Trong đợt vận động, Jokowi đã
gom được ít nhất $3,8 triệu từ hơn 40.000 nhà tài trợ cá nhân được báo cáo
chính thức, so với khoảng $200.000 mà Prabowo đã nhận được từ 47 nhà tài trợ cá nhân.19
Thắng lợi 2014 của chiến dịch do tình nguyện viên cơ
sở dẫn dắt của Jokowi, tuy vậy, không là dấu
hiệu rằng sự chấm dứt của chính trị bộ máy đầu sỏ ở Indonesia là gần.
Chính bộ máy được bôi trơn bằng tiền của Prabowo
đã là cái biến ông ta từ một kẻ bên ngoài, mà hầu hết nhà quan sát đã cho là
không thể bầu được, thành một ứng viên tổng thống đối thủ hết sức cạnh tranh.
Tương tự, ngay cả cuộc vận động của Jokowi đã không thể vận hành mà không có sự
ủng hộ của các nhà hảo tâm và các chính trị gia giàu có đã cung cấp ngân quỹ
khẩn cấp khi PDI-P không chi tiền được
phân bổ cho bầu cử. Các chuyến đi vận động của Jokowi khắp quần đảo mênh mông,
việc in các áo ngắn tay và các biểu ngữ vận động, việc thuê các phương tiện vận
động – tất cả đã cần đến sự ủng hộ của các nhà tài trợ. Việc này không biến
Jokowi thành một “công cụ của bọn đầu
sỏ,” như kẻ đầu sỏ Prabowo đã gợi ý một cách khá phi lý sau thi
thua cuộc bầu cử, nhưng nó chỉ ra tầm quan trọng liên tục của tiền và hoạt động
chính trị bộ máy có tổ chức ở Indonesia
hậu-Suharto.
Chủ
nghĩa Dân túy gây Chia rẽ vs. sự Điều độ
Một lĩnh vực tranh cãi khác trong các nền
dân chủ – đặc biệt trong các xã hội hậu độc đoán – thả tính chiến đấu dân túy
ra chống lại sự điều độ chính trị. Các nền dân chủ đang hoạt động cần thích
nghi và tổng hợp những quan điểm đa dạng khác nhau nhằm duy trì tính hợp pháp
của chúng, trong khi các nhà dân túy cực đoan than vãn cách tiếp cận này như
một dấu hiệu của sự yếu kém, thỏa hiệp, và sự lãnh đạo không hiệu quả. Nhiều sự
đảo ngược dân chủ, như thế, bắt đầu với ý kiến dân túy có được ưu thế trên các
quan điểm thực dụng, đa nguyên.20 Ở Indonesia hậu-Suharto, mọi thổng thống đã đều tránh lối nói cực đoan hoặc
gây chia rẽ. Thay vào đó, tất cả họ đều thử đưa ra một hình ảnh về một Indonesia
ôn hòa, dung nạp, và cởi mở, cả cho công chúng trong nước của họ và cho
thế giới bên ngoài. Trong khi bức tranh này
đã luôn hơi gây lạc lối – đặc biệt dưới thời Yudhoyono, khi các nhóm Islamic
chiến đấu đã công khai kích động chống các thiểu số tôn giáo – nó đã là lối nói
hoa mỹ chính thức của chính trị dòng chủ lưu.
Prabowo đã thách thức sự đồng thuận điều độ này theo
nhiều cách. Để bắt đầu, ông đã khẳng
định rằng các chính trị gia dòng chủ lưu của Indonesia đã cho phép các lực
lượng bên ngoài bóc lột đất nước, từ chối tính vĩ đại quốc gia mà một thời đã
và vẫn xứng đáng. Prabowo đã
thúc đẩy quan điểm dân túy này với không chỉ lời nói của ông mà cả diện mạo của
ông. Ông đã mặc giống tổng thống sáng lập Sukarno
– nguyên thủ quốc gia duy nhất trong lịch sử đất nước đã làm theo một lối nói
khoa trương chiến đấu và đối đầu trong việc theo đuổi các mục tiêu của mình. Prabowo
đã bắt chước những cử chỉ và những điểm thắt nút của Sukarno, sử dụng một microphone cổ để nhấn mạnh những sự giống
nhau. Nhưng ông đã đi còn xa hơn Sukarno, gắn chiến dịch của ông với những
hình ảnh của các cuộc chiến tranh chống thực dân trong thế kỷ thứ mười chín. Trong tháng Ba, Prabowo đã xuất hiện
trong sân vận động chính của Jakarta mặc một
bộ đồ chiến tranh giả của người Java, bổ sung bằng một dao găm truyền thống.
Cưỡi một trong những con ngựa đắt tiền của mình, ông đã duyệt một cuộc diễu
hành của dân quân, các đội nhạc diễu hành, các đội bảo vệ riêng của ông. Sự
kiện đã lên đỉnh cao trong một bài phát biểu nóng nảy quở trách bâng quơ (không
nêu tên) những kẻ nói dối, những kẻ tham nhũng, và những kẻ yếu ớt, cũng như
những cường quốc nước ngoài mà được cho là đang thử cản ông trở thành tổng
thống.
Prabowo đã không chỉ huy
động các bản năng chống đế quốc có gốc rễ trong nỗi luyến tiếc quá khứ của Indonesia về cuộc đấu tranh cách mạng của những năm
1940, mà ông cũng đảm bảo sự ủng hộ của các nhóm Islamic bảo thủ và chiến đấu. Ba đảng Islamic bảo thủ nhất
của Indonesia (PKS, Đảng Phát triển Thống nhất, và Đảng Trăng Lưỡi
liềm) đã ủng hộ chiến dịch của Prabowo,
như Mặt trận Những người bảo vệ Islamic chiến đấu đã ủng hộ. Cũng ủng hộ
ông đã là Jafar Umar Thalib, người
đứng đầu Các Chiến sĩ Thánh Chiến bây giờ không tồn tại nữa, một nhóm đã tiến
hành thánh chiến (jihad) chống-Kitô ở các Đảo Maluku trong cuối các năm 1990. Qua mạng lưới này của các đảng và các nhóm Islamist, những lời đồn đại đã
lan truyền rằng Jokowi là một người Hoa Singapore và một Kitô hữu – một cuộc tấn công có
tiềm năng chí tử trong một quốc gia với dân cư Muslim lớn nhất trên thế
giới. Trên bề mặt, sự cống hiến của các Islamist
cho sự nghiệp của Prabowo đã gây ngạc nhiên:
bản thân Prabowo đã không là
một Muslim sùng đạo, và Hashim và các thành viên khác của gia đình là các Kitô hữu.
Nhưng Prabowo đã sử dụng rồi
mảng Islamist của chính trị Indonesia như một công cụ trong các cuộc
xung đột trong quân đội năm 1998, và đã đơn thuần kích hoạt lại các mối quan hệ đó
trong cuộc chạy đua đến các cuộc bầu cử 2014.
Ngược lại, Jokowi đã
đại diện cho dòng chủ lưu ý thức hệ mà đã tạo hình Indonesia dân chủ từ 1998. Ông
nói chung đã tán thành status quo
dân chủ, chỉ đề xuất một “cuộc cách mạng tinh thần” để nâng chất lượng của nền
dân chủ lên mức tiếp theo; ông đã bác bỏ xu hướng riêng biệt Islamic, tuy ông đã luôn luôn giới thiệu
mình như một Muslim sùng đạo; và đã kiềm chế tiến hành những tranh luận đối kháng
với các đối thủ chính trị của mình, bất chấp các cuộc tấn công mà chiến dịch
của Prabowo đã giáng vào ông. Jokowi cũng
đã từ chối để hoàn toàn chấp nhận lập trường rất được dân ưa chuộng của Prabowo về chủ nghĩa dân tộc kinh tế – tức là sự
cần thiết để bảo vệ các thị trường địa phương khỏi mối đe dọa của toàn cầu hóa.
Bị Prabowo hỏi tại một trong những cuộc tranh luận được truyền hình, Indonesia phải làm gì về những hợp đồng với
các công ty khai khoáng gây bất lợi cho quốc gia, Jokowi đã cho câu trả lời làm
nổi bật quan điểm ôn hòa và thực dụng của ông: các hợp đồng này bị ràng buộc
pháp lý, ông nói, và Indonesia
phải tôn trọng chúng cho đến khi chúng hết
hạn. Trong quá trình thương lượng gia hạn hợp đồng, ông tiếp tục, Indonesia
khi đó có thể khăng khăng đòi các điều kiện tốt hơn. Phá vỡ các hợp đồng hiện
tồn, Jokowi xác nhận, có thể dẫn đến kiện cáo quốc tế và chính phủ tốn
thất hàng tỷ dollar. Sự tương phản với lối nói khoa trương tham chiến
của Prabowo đã không thể là rõ hơn.
Có vẻ, một đa số mỏng manh của các cử tri đã coi chủ nghĩa thực
dụng không đối đầu của Jokowi như lựa chọn an
toàn hơn cho Indonesia. Trong khi sự phô diễn dân tộc chủ nghĩa khoe
khoang cốt để gây ấn tượng, các bài diễn thuyết, và các cuộc tấn đông đối thủ
của Prabo đã gây ấn tượng cho nhiều người Indonesia,
nó ngăn cản còn nhiều người hơn. Các cử tri nữ,
đặc biệt, đã cho biết sớm rằng họ sẽ không bỏ phiếu cho ông. Các cuộc thăm dò
trước bầu cử đã nhất quán cho thấy Prabowo dẫn
trước Jokowi một chút giữa
những người đàn ông nhưng lết sau ông giữa các phụ nữ với khoảng 8 điểm phần
trăm.
Hơn nữa, Prabowo đã đánh giá quá cao mức độ bất mãn
của cử tri với chính thể hiện tồn. Tuy cử tri đã bất mãn với thành tích của Yudhoyono, họ đã không thấy cần thay đổi triệt để
chế độ. Được hỏi trong tháng Tư 2014 họ nghĩ gì về tình trạng của nền kinh tế,
chẳng hạn, 39 phần trăm người trả lời nói rằng nó đã được
cải thiện trong năm vừa qua; 36 phần trăm nói
nó vẫn thế; và chỉ 23 phần trăm nghĩ rằng nó đã tồi đi.21 Rõ ràng những sự quả quyết dữ dội của Prabowo rằng
nền kinh tế Indonesia đã rách rưới và hiện trạng chính trị là không thể
chịu đựng được đã không đủ thuyết phục để gây ảnh hưởng đến đa số cử tri. Tuy
vậy, chúng đã đẩy một ứng viên được lòng dân của dòng chủ lưu ôn hòa đến bờ của
sự thất bại.
Dân chủ Bầu cử vs. Chủ nghĩa Độc đoán
Trận then chốt thứ ba trong cuộc bầu cử này
đã là giữa sự ủng hộ các cuộc bầu cử cạnh tranh như phương tiện chính cho sự
đại diện dân chủ và sự bôi nhọ chúng bởi những người chủ trương một chủ nghĩa
tập thể được định nghĩa mập mờ. Trong các xã hội chuyển đổi, các cuộc bầu cử
dân chủ bị tấn công theo hai cách: Thứ nhất, chúng dễ bị tổn thương với các nhà
chuyên quyền bầu cử những người muốn thao túng các cuộc bầu cử trong khi dùng
chúng như một nguồn của tính chính đáng;22 và thứ hai, chúng bị
đe dọa bởi tư duy phản dân chủ từ chối các cuộc bầu cử cạnh tranh về nguyên tắc
– như ở Thái Lan, chẳng hạn, nơi quân đội, các chính trị gia bảo hoàng, và một
bộ phận của giai cấp tư sản đã kích động chống các cuộc bầu cử sau khi liên tục
thua.
Năm 2014,
Prabowo đã đề xuất một chương trình nghị sự thù địch công khai với khung khổ bầu
cử hiện tồn của Indonesia. Ông cũng đã thử can thiệp vào quá trình bầu cử, ngay
cả khi ông đã thua rồi. Prabowo
đã tuyên bố bằng lời lẽ chung rằng ông muốn Indonesia
quay lại Hiến pháp 1945, ý nói bỏ các
cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp. Đây là một
lập trường ông đã giữ nhiều năm nhưng đã không thảo luận nó rộng rãi công khai.
Vào cuối chiến dịch, tuy vậy, Prabowo
đã nói cụ thể hơn quan điểm của ông về các cuộc bầu cử cả địa phương lẫn quốc
gia. Trong một bài phát biểu ngày 28 tháng Sáu, Prabowo đã tuyên bố rằng các
cuộc bầu cử trực tiếp là sự nhập khẩu Tây phương không mong muốn, giống như tật
hút thuốc lá. Ông đã nói rằng các nhà lãnh đạo nhà nước phải được lựa chọn bởi
các định chế lập pháp nửa-được bầu, như đã đòi hỏi trong hiến pháp sáng lập.
(Quả thực, Suharto đã được bầu lại sáu lần bởi một cơ quan lập pháp một phần
được chỉ định và một phần được bầu qua một quá trình bị thao túng.) Các
bình luận này đã thu hút các dòng đầu (trên báo), và Prabowo đã cảm thấy cần làm rõ. Vào ngày 30
tháng Sáu, trước một cử tọa chủ yếu gồm các nhà ngoại giao và nhà báo nước
ngoài, Prabowo đã bác bỏ ý kiến rằng ông là một nhà chuyên quyền.
Nhưng về vấn đề bầu cử trực tiếp, ông đã tuyên bố lại sự phản đối của ông, lần
này dùng một lý lẽ khác: chúng quá tốn kém và phải thay bằng một quá trình “rẻ
hơn.”
Prabowo cũng đã thử áp dụng
các phương pháp cổ điển của chủ nghĩa độc đoán bầu cử để thắng cuộc đua với Jokowi.
Ông không chỉ đã dùng các bộ và các chính quyền địa phương dưới sự kiểm soát
của các đối tác liên minh của ông để huy động các cử tri, mà ông cũng tuyên bố
giả dối thắng lợi dựa trên việc đếm nhanh phiếu bị thao túng truyền đi trên các
đài TV ủng hộ Prabowo. Đếm nhanh được
thiết kế một cách khoa học, đếm (ở) các trạm bỏ phiếu được chọn, nếu được làm
đúng, có thể dự đoán kết quả tổng thể với mức chính xác cao. Cho mỗi cuộc bầu
cử quốc gia ở Indonesia từ 2004 đếm
nhanh đã chính xác, và trong 2014 tất
cả các đếm nhanh được tiến hành bởi các viện thăm dò có uy tín cho thấy rằng Jokowi
đã thắng. Nhưng Prabowo đã sử dụng bốn tổ chức hoặc được sở hữu hay được tài
trợ bởi các liên minh của ông để “tạo ra” các đếm nhanh chứng tỏ ông là kẻ
thắng. Rồi sau đó, đội của ông đã thử
can thiệp vào việc đếm chính thức. Trong một số trường hợp, những người ủng hộ Prabowo
đã xoay xở để thay bằng tay các biểu mẫu ghi kết quả ở nhiều mức hành chính. Căn cứ vào sự phổ biến của những sự thao tác như
vậy trong các cuộc bầu cử trước (kể cả
các cuộc bầu cử quốc hội tháng Tư), chiến
dịch Prabowo đã có mọi lý do để tin rằng công việc bằng tay của
họ sẽ không bị phát hiện.
Jokowi, mặt khác, đã là
người tin mạnh vào các quá trình bầu cử cạnh tranh. Thực ra, ông có được sự
thăng tiến nhờ chúng. Không giống hầu hết các
chính trị gia elite khác ở Indonesia,
sự nổi bật của Jokowi đã không xuất phát từ
lai lịch quân đội, sự giàu có cá nhân, hay các mối quan hệ quan liêu.
Đúng hơn, chính là các thắng lợi bầu cử của ông ở Solo và Jakarta đã
đẩy ông lên tầm lỗi lạc quốc gia. Tuy bảo vệ nền dân chủ bầu cử đã không là một
cơ sở tường minh của chiến dịch của Jokowi, ông đã công khai ủng hộ nó. Khi Prabowo
hỏi Jokowi
trong một tranh luận được truyền hình, liệu
ông có chia sẻ quan điểm rằng các cuộc bầu cử địa phương trực tiếp là quá tốn
kém và gây ra tham nhũng, Jokowi đã trả lời rằng các cuộc bầu cử này là phần quan
trọng của nền dân chủ Indonesia và phải được duy trì. Về mặt chi phí, ông đề
xuất tổ chức các cuộc bầu cử địa phương đồng thời hơn là riêng lẻ, chấp nhận một gợi ý mà các chuyên gia bầu cử đã đưa
ra từ lâu. Trong phỏng vấn muộn hơn với báo chí nước ngoài, Jokowi cũng
đã bác bỏ đề xuất của Prabowo để bỏ các cuộc bầu cử trực tiếp tổng thống qua
việc quay lại Hiến pháp 1945.
Mỉa mai thay, chính sự đe dọa trực tiếp của Prabowo đối với nền dân chủ bầu cử mà đã làm cho
các cuộc bầu cử tổng thống 2014 minh bạch nhất trong lịch sử đất nước. Việc đếm phiếu cho các cuộc bầu cử 2004 và 2009 đã được
tiến hành chủ yếu trong các phiên kín bởi các quan chức bầu cử, và bởi vì Yudhoyono
đã thắng với chênh lệch rộng, sự quan tâm đến một sự đếm chính xác đã là thấp.
Việc đếm phiếu 2014, ngược lại, đã bị
xem xét kỹ lưỡng bởi báo chí và các công dân quan tâm. Trong một nước đi chưa có tiền lệ, Ủy ban Bầu cử đã tải toàn bộ các
biểu kê, từ tất cả các mức hành chính, lên website của nó, cho phép bất kỳ ai kiểm tra xem liệu các con số đã
được ghi đúng và được báo cáo lên cấp tiếp theo hay không. Quan trọng nhất, một
mạng lưới của bảy trăm người tình nguyện độc lập (nhóm chính đã được biết đến
như “Bảo vệ Bầu cử”) đã được thành lập để tạo ra một sự đếm phiếu song song
online, cộng các con số và cập nhật chúng đều đặn lên website của nó. Những người
tình nguyện này đã phơi bày ra hàng ngàn lỗi lầm của các quan chức bầu cử và
gây áp lực lên Ủy Ban Bầu cử để sửa chúng. Như thế, nếu đội Prabowo đã có những kế hoạch để thay đổi việc lập
bảng chính thức, chúng bị cản trở bởi những cố gắng phi thường của sự giám sát
công dân.
Dân chủ Sống sót
Dù thách thức dân túy của Prabowo đối với nền dân chủ Indonesia cuối cùng đã
thất bại, nó đã nêu ra một số câu hỏi đáng nghiên cứu học thuật sâu hơn. Cốt
yếu nhất, ở mức độ nào các cử tri Prabowo
đã hiểu sự lựa chọn của họ như một lá phiếu chống lại hiện trạng dân chủ? Prabowo đã lặp đi lặp lại gọi mình là một
“nhà dân chủ,” cho rằng các mưu toan để vẽ chân dung ông như một “nhà độc tài”
đã có động cơ chính trị. Như thế nhiều trong số những người ủng hộ ông có thể
đã tin rằng Prabowo – bất chấp đã dứt khoát
kêu gọi một “đồng thuận mới” để thay thế hệ thống bầu cử trực tiếp – sẽ không
làm hại nền tảng của nền dân chủ. Những người khác có thể đã tin nền dân chủ
của Indonesia đủ mạnh để chịu được bất cứ mưu toan nào để sửa chữa nó. Quả
thực, quan điểm này đã được nói lên thường
xuyên, cả ở Indonesia và nước ngoài. Sự thất bại của Prabowo có nghĩa rằng chúng ta chỉ có thể suy đoán
về các hành động nào ông đã có thể làm với tư cách tổng thống, và liệu bất cứ
cuộc tấn công nào lên nền dân chủ Indonesia có thể đã thành công hay không.
Trong bối cảnh này, là hữu ích để ngó đến
thành phần cử tri của Prabowo. Trong phần
lớn nhiệm kỳ hai của Yudhoyono,
Prabowo đã có sự ủng hộ lõi khoảng 17
đến 20
phần trăm phiếu bầu. Có thể cho rằng,
các cử tri Prabowo “cứng” này đã ủng
hộ hoàn bộ chương trình nghị sự dân túy của ông: miêu tả về hệ thống hiện thời
như không thể sửa chữa được; tấn công các quốc gia nước ngoài khai thác tài
nguyên thiên nhiên của Indonesia; hình ảnh người quân phiệt mạnh tay của
Prabowo; và nỗi luyến tiếc thời đại Suharto. Nhưng, giữa tháng Ba và tháng
Bảy 2014, Probowo đã thêm vào khoảng 27 đến 30 phần
trăm cử tri như những người mới được tuyển vào cơ sở của ông. Những người ủng
hộ này tốt nhất có thể được mô tả như các cử tri “mềm” của Prabowo: các
công dân đã bị thất vọng bởi sự thất bại của Jokowi
để đưa ra một cương lĩnh rõ ràng hoặc những người đã nghĩ rằng Indonesia cần một
nhà lãnh đạo cứng rắn hơn Jokowi ăn nói nhỏ nhẹ. Không chắc rằng tất cả các cử
tri này – một nhóm chắc chắn bao gồm một số trong 83 phần trăm công
dân hài lòng với nền dân chủ Indonesia – đã nghĩ rằng họ đã quyết định bỏ nền
dân chủ khi bỏ phiếu cho Prabowo.
Có thể cho rằng, một số trong những người ủng hộ “mềm” của Prabowo đã
chuyển sang ủng hộ Jokowi khi triển vọng của một nhiệm kỳ Prabowo làm tổng thống ngày càng trở nên hiện thực – số người ủng hộ Jokowi trong thăm dò dư luận đã phục hồi 2 đến 3 phần trăm trong tuần cuối của chiến dịch.
Nền dân chủ Indonesia, như thế, đã sống sót
vì ba lý do chính. Thứ nhất, các điều kiện chính trị và kinh tế chung đã không
thích hợp cho một sự tiếp quản dân túy thành công: Bất chấp sự bất mãn đáng kể,
chính thể và nền kinh tế đã ổn định, và hầu hết nhân dân đã hài lòng với cách
chính phủ và hệ thống dân chủ vận hành. Lối
nói khoa trương cực đoan của Prabowo như thế đã cường điệu, gây khó chịu cho
các cử tri ôn hòa, nhất là phụ nữ. Thứ hai, Jokowi đã chào
mời một phiên bản nhẹ hơn của chủ nghĩa dân túy cho các cử tri mong mỏi sự thay
đổi nào đó, nhưng không phải thay đổi cơ bản. Với tư cách ứng viên tổng thống
có triển vọng thành công đầu tiên trong lịch sử Indonesia không bắt nguồn từ elite
quy ước của đất nước, Jokowi đã thể hiện khát vọng của các cử tri thường để được
cai trị bởi người của chính họ. Vì thế, đa số cử tri Indonesia đã sẵn sàng lượng thứ cho Jokowi vì một
chiến dịch lờ đờ. Cuối cùng, đã có sự ủng hộ đủ mạnh cho các cuộc bầu cử với tư
cách nền tảng của nền dân chủ để làm hỏng các mưu toan của Prabowo nhằm hủy bỏ và lừa đảo chúng. Bằng cách tạo ra các mạng lưới công dân để bảo vệ
thắng lợi bầu cử của Jokowi khỏi các mưu toan rành rành để thao túng, nền dân
chủ Indonesia đã hoàn thành quá trình bầu cử một cách thành công.
Tất cả tin tốt lành này, tuy vậy, không được
làm chúng ta sao nhãng không chú ý đến sự thực rằng các cử tri hậu-Suharto đã suýt
nữa chọn một tổng thống hứa tiến hành thí nghiệm cực đoan và nguy hiểm để khôi
phục trật tự trước dân chủ của Indonesia. Nền
dân chủ Indonesia vẫn còn dễ bị tổn thương, và vẫn như vậy trong các năm sắp
tới.
GHI CHÚ
1. Kenneth M.
Roberts, “Social Correlates of Party
System Demise and Populist Resurgence in Venezuela,” Latin American Politics and Society 45 (September 2003): 35–57.
2. Indikator Politik Indonesia (IPI), “Hasil Exit Poll Pemilu Presiden RI 2014 Rabu, 9 Juli 2014,” 5.
3. Vaishali Rastogi
et al.,
“Indonesia’s Rising Middle-Class and Affluent
Consumers: Asia’s Next Big Opportunity,” bcg.perspectives, 5 March 2013.
4. Marcus Mietzner,
“Indonesia: Democratic Consolidation
and Stagnation
Under Yudhoyono, 2004–2014,” trong William Case, ed.,
Handbook of Southeast Asian Politics
(London: Routledge, sắp ra).
5. World Bank, “Poverty Headcount Ratio at $2 a Day (PPP) (% of Population),” n.d., http://data.worldbank.org/indicator/SI.POV.2DAY.
6. Simon Montlake,
“Hashim Djojohadikusumo Returns
to Indonesia
After a Post-Suharto Exile,” Forbes Asia,
18 January 2010.
7. This information was provided by IPI director Burhanuddin Muhtadi.
8. “Ini Pernyataan
Prabowo Soal Nasionalisasi Aset dan
Kembali ke UUD 1945,” Detik News,
7 May 2014.
9. “Prabowo Sebut Indonesia Produk Barat yang Susah Diperbaiki,” Kompas, 29 June 2014.
10. IPI, “Hasil Exit Poll Pemilu Presiden,” 21–22
11. Marcus Mietzner, “Jokowi: Rise of a Polite Populist,”
Inside Indonesia 116 (April–
June 2014).
12. Saiful Mujani
Research and Consulting (SMRC), “Survei
Nasional Pemilihan Presiden, 30 Juni–3 Juli
2014,” 13; and SMRC, “Koalisi
untuk Calon Presiden, Elite vs.
Massa Pemilih Partai, Temuan Survei: 20–24 April 2014,” 4 May 2014, 31.
13. Michele Ford
and Tom
Pepinsky, eds., Beyond Oligarchy: Wealth, Power, and Contemporary Indonesian Politics (Ithaca: Cornell
University Southeast Asia Program Publications, 2014).
14. Edward Aspinall,
“The Triumph of Capital? Class
Politics and Indonesian Democ- ratisation,” Journal of Contemporary Asia 43 (May 2013): 226–42.
15. Các số liệu của cải của các ông trùm tư bản Indonesia
đến từ các nguồn đa dạng, chủ yếu là các xếp hạng giàu có được sử dụng
rộng rãi (như Forbes) và các báo cáo của các
úng viên cho Ủy ban Bầu cử.
16. Indo Barometer, “Aspirasi Publik Tentang Capres, Cawapres, dan Tiga Skenario 9 Juli 2014,” 34; and Indo Barometer,
“The Final Round: Siapakah Pemenang Pilpres 9 Juli 2014?” 24.
17. Tác giả
phỏng vấn, Madiun, 28 June 2014.
18. Tác giả
phỏng vấn, Surabaya,
27 June 2014.
19. Xem website
của Ủy ban Bầu cử Quốc gia: www.kpu.go.id.
20. Steven Levitsky and James Loxton, “Populism and Competitive Authoritarianism
in the Andes,” Democratization 20 (January 2013): 107–36.
21. IPI, “Hasil Exit Poll Pemilu Legislatif 2014,” 33.
22. Andreas Schedler,
Electoral Authoritarianism: The Dynamics of
Unfree Competition (Boulder,
Colo.: Lynne Rienner, 2006).
* How Jokowi Won and Democracy Survied, Journal of Democracy, October 2014, Vol. 25, No. 4, pp. 111-125;
người dịch Nguyễn Quang A