Nguyễn Đình Cống
MỞ ĐẦU BẢN TÓM TẮT
MỞ ĐẦU BẢN TÓM TẮT
Tóm tắt này dựa vào bản dịch của TS Nguyễn
Quang A, công bố trên mạng và bản dịch của Nguyễn Thị Kim Chi được NXB Trẻ phát hành sách giấy (2017).
Thất bại và Thành công là 2 mặt của 1
vấn đề. Biết được nguyên nhân cơ bản của
thất bại thì đồng thời cũng làm rõ cái đó của thành công. Tìm đúng nguyên nhân cơ bản sự thành bại của các quốc
gia là không hề dễ. Các định kiến về học thuyết, về chủ nghĩa và phẩm chất tầm
thường của người nghiên cứu làm che
khuất, hạn chế tầm nhìn và suy nghĩ của họ,
làm cho họ khi phân tích sự thất bại chỉ tim được vài nguyên nhân trực
tiếp, vụn vặt rồi đổ lỗi cho thế lực thù địch và khách quan mà không thể tìm
đến nguyên nhân cơ bản.
Xã hội Việt Nam đã trải qua một số thành công và thất bại. Mỗi lần đại hội Đảng đều có đánh giá và chỉ ra nguyên nhân của mọi tai họa là sự thoái hóa, biến chất, sự tự diễn biến, tự chuyển hóa của một số đông cán bộ các cấp các ngành. Đánh giá như vậy là không thấy nguyên nhân cơ bản, hay có thấy mà cố tình che khuất, cố tình không dám nói ra.
Sách
“ TẠI SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI” (
Why Nations Fail ) được xuất bản năm 2012 tại Mỹ, đã tạo nên tiếng vang lớn
trên toàn thế giới. Tiêu đề phụ của cuốn sách là: “Nguồn gốc của quyền lực, sự thịnh vượng, và
nghèo khó”. Đó là kết quả nghiên cứu trên 15 năm của hai nhà khoa
học lớn về kinh tế : Daron
Acemoglu và Jemes
A. Robinson. Sách được nhiều học giả, nhiều bạn đọc đánh giá rất cao. Nó cung
cấp nhiều thông tin, nhiều phân tích và so sánh, làm phong phú nhận thức, làm
cho suy nghĩ thêm sâu sắc và có những chuyển biến tích cực. Tuy biết sách quý,
số đông rất muốn đọc, nhưng không dễ gì
tìm được sách, tìm được rồi cũng không có nhiều thời gian hoặc thiếu kiên nhẫn
để đọc hết ( vì dài quá). Tôi xin tóm tắt hỗ trợ các vị. Riêng với các nhà
nghiên cứu, các học giả, cần và đã đọc toàn bộ, không chỉ một mà nhiều lần, tôi
sẽ vô cũng biết ơn khi được các vị phản biện bản tóm tắt này.
Sách “ Tại sao các quốc gia thất bại” gồm Lời nói đầu
và 15 chương. Tôi tiếp cận được 2 bản tiếng Việt. Đó là bản dịch của Nguyễn Quang A và của Nguyễn Thị
Kim Chi . Sau 2 nguồn trên đã có khá nhiều bài viết và thuyết trình về vấn đề
cuốn sách bàn đến. Cũng đã có một vài bản tóm tắt và giới thiệu nội dung. Như
vậy tôi không phải là người đầu tiên tóm tắt và giới thiệu, chỉ là tôi làm theo
cách của mình. Tóm tắt bằng cách trình bày ngắn gọn nội dung từng chương, chép
lại một số câu được lựa chọn, ngoài ra có thể thêm vài lời dẫn giải..
Mục lục các chương
1-Gần thế mà vẫn rất khác
nhau
2- Các lý thuyết không hoạt
động
3-Tạo ra thịnh vượng và
nghèo khó
4-Những khác biệt nhỏ và
bước ngoặt
5-Tôi đã thấy tương lai và
nó hoạt động
6-Trôi dạt ra xa
7-Điểm ngoặt
8-Không trên lãnh thổ của
chúng tôi
9-Sự phát triển đảo ngược
10-Sự truyền bá thịnh vượng
11-Vòng thiện
12- Vòng đảo ngược
13-Vì sao các quốc gia thất
bại ngày nay
14-Phá vỡ khuôn đúc
15-Hiểu sự thịnh vượng và
nghèo khó
Bản tóm tắt 15 chương được
chia đăng thành 8 đoạn. Cuối cùng tôi có bài PHẢN BIỆN, nêu ra một vài bất đồng
ý kiến với nghiên cứu và kết luận của Daron
Acemoglu và Jemes
A. Robinson .
LỜI GIỚI THIỆU
Cuốn sách tìm câu trả lời cho câu một hỏi đơn giản
nhưng đã làm cho nhiều học giả đau đầu trong nhiều thế kỷ qua: vì sao một số
quốc gia giàu và nhiều quốc gia nghèo?
Ðã có nhiều lý thuyết (giả thuyết) tìm cách giải đáp
cho câu hỏi này hay giải thích hiện tượng bất bình đẳng thế giới nhức nhối đó.
Có các giả thuyết về địa lý, văn hóa, sự thiếu hiểu biết của các nhà lãnh đạo
quốc gia, nhưng các lý thuyết này đều không trả lời được một cách thỏa đáng cho
câu hỏi đơn giản nêu trên.
Acemoglu và Robinson đưa ra giả thuyết về các thể chế
(Institution) là cái quyết định chứ không phải địa lý, văn hóa, hay sự thiếu
hiểu biết. Theo các ông, có 2 loại thể chế ( TC) quan trọng
là TC chính trị và TC kinh tế. Mỗi TC có 2 trạng thái cơ bản là : Inclusion
(dung hợp, bao gồm hoặc bao dung) và
Extractive (chiếm đoạt, khai thác hoặc bòn rút).
TC chính trị dung hợp thể hiện bởi nhà nước pháp trị,
chính thể dân chủ với đa nguyên và tam quyền phân lập. TC chính trị chiếm đoạt
là kiểu toàn trị độc tài, quan liêu, thống trị của cá nhân hoặc của một đảng duy nhất.
TC kinh tế dung hợp, mọi thành phần trong xã hội tham
gia vào các hoạt động kinh tế, có cơ hội phát huy khả năng và cống hiến, quyền
lực được chia sẻ rộng rãi. TC kinh tế chiếm đoạt tập trung quyền lực vào một số
ít người hoặc nhóm lợi ích. Các nhóm này
nắm phần lớn tài sản QG và khai thác tài nguyên của đất nước (Bản dịch
của NQA dùng TC Bao gồm và TC Khai thác )
Các trạng thái kết hợp thành 4 dạng. Dạng 1 gồm các QG
có chính trị dung hợp, kinh tế chiếm đoạt. Dạng 2 có chính trị chiếm đoạt ,
kinh tế chiếm đoạt. Dạng 3 có chính tri chiếm đoạt, kinh tế dung hợp. Dạng 4-
chính trị dung hợp, kinh tế dung hợp.
Dạng 4 gồm các QG thành công, phát triển theo vòng
xoáy ốc đi lên. Dạng 2- các QG luẩn quẩn
trong đói nghèo, lạc hậu. Dạng 1 và 3 thường biến động, có khả năng vươn lên 4
hoặc rớt về 2.
Phần tiếp theo của lý thuyết là động học của sự thay đổi thể chế. Các
tác giả nhấn mạnh đến tầm quan trọng của: các xung đột (conflict) luôn xảy ra
trong xã hội. Các xung đột dẫn đến sự
trôi dạt thể chế, tại các bước ngoặt do những khác biệt nhỏ và sự tùy thuộc
ngẫu nhiên chúng rẽ nhánh theo những con đường rất khác nhau và tạo ra sự phân
kỳ thể chế.
Muốn cho quốc gia không thất bại và giàu có thì phải tìm mọi cách
để xây dựng các thể chế chính trị dung hợp. Không có công thức sẵn có cho việc
này. Tuy vậy có nhiều việc có thể tạo thuận lợi, có thể thúc đẩy cho việc hình
thành các thể chế chính trị như vậy. Trao quyền (empowerment) cho nhân dân, hay
cho các mảng rộng của xã hội là hết sức quan trọng để cho một quá trình như vậy
có thể hình thành hay mang lại kết quả. Xây dựng nền pháp trị thực sự, với
những ràng buộc lên các chính trị gia, buộc họ phải có trách nhiệm giải trình
và khó lạm dụng quyền lực. Người dân biết quyền của mình và đòi một cách tích
cực các quyền hiến định đó và tham gia vào các tổ chức chính trị. Cần một nền
báo chí tự do và quyền tự do ngôn luận. Và như thế cần có một xã hội dân sự
lành mạnh và sự tham dự tích cực của các công dân. Ðấy là cách làm giàu bền
vững nhất không chỉ cho chính mình mà cho cả con cháu nhiều đời sau.
LỜI NÓI ÐẦU
Cuốn sách này là về những khác biệt khổng lồ về thu nhập và mức
sống mà tách biệt các nước giàu trên thế giới, như Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, và
Ðức, khỏi các nước nghèo, như các nước ở châu Phi hạ-Sahara, Trung Mỹ và Nam Á.
Gốc rễ của sự bất mãn tại một số nước là ở sự nghèo khó của chúng.
Vì sao Ai Cập nghèo hơn Hoa Kỳ nhiều đến vậy? Những
ràng buộc nào kéo những người Ai Cập khỏi việc trở nên phát đạt hơn? Sự nghèo
của Ai Cập có là bất biến, hay có thể được xóa bỏ? Ðối với những người Ai Cập,
những cái, mà đã néo giữ họ lại, bao gồm một nhà nước không hiệu quả và thối
nát và một xã hội nơi họ không thể sử dụng tài năng, khát vọng và sự khéo léo
của mình và sự giáo dục mà họ có thể có được. Nhưng họ cũng nhận ra gốc rễ của
các vấn đề này là có nguồn gốc chính trị. Tất cả những cản trở kinh tế mà họ
đối mặt bắt nguồn từ cách mà quyền lực chính trị được sử dụng và bị độc chiếm
bởi một elite hẹp. Ðấy, họ hiểu, là cái đầu tiên phải thay đổi.
Chúng ta sẽ chứng tỏ rằng các nước nghèo là vì chính
xác cùng lý do mà Ai Cập nghèo. Trong cuốn sách này chúng ta sẽ nghiên cứu các
hình mẫu tái tạo ra sao theo thời gian
và vì sao đôi khi chúng thay đổi như chúng đã thay đổi ở Anh năm 1688 và ở Pháp
với cách mạng 1789. Việc này sẽ giúp chúng ta hiểu liệu tình hình ở Ai Cập đã
thay đổi hiện nay và liệu cuộc cách mạng đã lật đổ Mubarak sẽ có dẫn đến một
tập mới của các thể chế có khả năng mang lại sự thịnh vượng cho những người Ai
Cập bình thường hay không. Chúng ta sẽ thấy rằng một phong trào đấu tranh rộng
rãi trong xã hội đã là một phần then chốt của cái đã xảy ra trong những biến
đổi chính trị khác này. Nếu chúng ta hiểu khi nào và vì sao những sự chuyển đổi
như thế xảy ra, chúng ta sẽ ở vị thế tốt hơn để đánh giá khi nào các phong trào
như vậy thất bại ( như chúng đã thường thất bại trong quá khứ) và khi nào có
thể hy vọng rằng chúng sẽ thành công và cải thiện cuộc sống của hàng triệu
người.
CHƯƠNG 1-
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU
NỀN KINH TẾ CỦA RIO GRANDE
Thành phố Nogales
bị cắt đôi bởi một hàng rào. Phía Bắc là Arizona,( thuộc Mỹ). Thu nhập
của hộ gia đình trung bình khoảng 30.000 USD một năm.Phía nam là Sonora ( thuộc
Mexico), chỉ cách vài mét, là khá khác, thu nhập của hộ gia đình trung bình ở
đó bằng khoảng một phần ba ở Arizona.
Làm sao mà hai nửa của cùng một thành phố lại khác nhau đến vậy?
Không có sự khác biệt nào về địa lý, khí hậu. Nguồn gốc của người dân ở cả hai
bên biên giới là khá giống nhau. Khác nhau chỉ vì thể chế.
SỰ THÀNH LẬP BUENOS AIRES
Năm 1516, người Tây Ban Nha, đã vào phía Ðông của Nam
Mỹ. Vùng này nguyên chỉ trồng sắn và ngô. Người Tây Ban Nha đã chinh phục người
bản địa, xây dựng nên Buenos Aires, “Paris của Nam Mỹ”.
TỪ CAJAMARCA
Việc chinh phục
những người da đỏ Aztec bằng quân sự đã hoàn tất vào năm 1521. Chiến lược thực
dân hóa của Tây Ban Nha đã rất hiệu quả. Chiến lược và các thể chế chinh phục
được hoàn thiện ở Mexico đã được chấp nhận một cách háo hức ở những nơi khác
trong Ðế chế Tây Ban Nha
Khắp thế giới thuộc địa
Tây Ban Nha ở châu Mỹ, các thể chế và các cấu trúc xã hội tương tự đã nổi lên.
Sau giai đoạn ban đầu của sự cướp bóc, và sự thèm khát vàng bạc, những người
Tây Ban Nha đã tạo ra một mạng lưới các thể chế được trù tính để khai thác người
dân bản địa.
ÐẾN JAMESTOWN.
Người
Anh đến Tân thế giới chậm hơn. Họ
đã chọn Bắc Mỹ không phải vì nó hấp dẫn, mà bởi vì đó là tất cả cái sẵn có còn
lại. Các phần “đáng mong muốn” của châu Mỹ, nơi dồi dào những người bản địa để
khai thác và nơi có các mỏ vàng và bạc, đã bị chiếm mất rồi. Người Anh đã nhận
các phần còn thừa, họ lập nên các thuộc địa.
Vào các năm 1720, tất cả mười ba thuộc địa của cái sẽ
trở thành Hoa Kỳ đã có các cấu trúc chính phủ giống nhau. Trong mọi trường hợp
đã có một thống đốc, và một hội đồng dựa vào quyền bầu cử của những người đàn
ông chủ tài sản. Chúng chưa phải là các nền dân chủ, nhưng các quyền chính trị
đã là rất rộng so với các xã hội đương thời ở nơi khác. Chính các hội đồng này
và các nhà lãnh đạo của chúng là cái đã hợp lại để hình thành Quốc hội Lục địa
Ðầu tiên (First Continental Congress) vào năm 1774, khúc dạo đầu cho sự độc lập
của Hoa Kỳ. Các hội đồng đã tin họ có quyền để quyết định cả tư cách thành viên
riêng của họ lẫn quyền đánh thuế. Ðiều này, như chúng ta biết, gây ra các vấn
đề đối với chính phủ thuộc địa Anh.
CÂU CHUYỆN VỀ HAI HIẾN PHÁP.
Không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà Hoa Kỳ, chứ không phải
Mexico, đã thông qua và thực thi một hiến pháp tán thành các nguyên tắc dân
chủ, tạo ra các hạn chế về việc sử dụng quyền lực chính trị, và phân phối quyền
lực đó một cách rộng rãi trong xã hội. Văn kiện mà các đại biểu đã ngồi xuống
để viết ở Philadelphia năm 1787 đã là kết quả của một quá trình dài được khởi
đầu bằng sự hình thành của Ðại Hội đồng ở Jamestown năm 1619.
Sự tương phản giữa quá trình lập hiến xảy ra vào thời
độc lập của Hoa Kỳ và quá trình xảy ra sau đó một chút ở Mexico lộ rõ hẳn ra.
Sự sụp đổ của nhà nước Tây Ban Nha với sự xâm lược của Napoleon đã tạo ra một
khủng hoảng hiến pháp trên khắp Mỹ Latin thuộc địa. Hệ quả là, elite Mexico đã
xem xét Hiến pháp Cádiz, đã mở đường cho sự tham gia của nhân dân, Năm 1815,
khi đế chế Âu châu của Napoleon sụp đổ, Vua Ferdinand VII quay lại nắm quyền và
Hiến pháp Cádiz đã bị bãi bỏ.
CÓ MỘT Ý TƯỞNG, KHỞI ĐỘNG
MỘT HÃNG VÀ NHẬN ĐƯỢC MỘT KHOẢN VAY
Cách mạng Công nghiệp đã bắt đầu ở nước Anh, lớn mạnh
ở Mỹ nhờ các ý tưởng sáng chế. Ðiều nổi bật ở Hoa Kỳ là, những người được cấp bằng sáng chế đến
từ mọi loại xuất thân, Nhiều người đã kiếm được bộn
tiền hay trở nên giàu có dựa vào các bằng sáng chế của mình. Có thể bán sáng
chế hoặc lập công ty để thực hiện nó.Ngân hàng sẽ tiếp sức bằng nguồn vốn cho
vay. Mục đích của ngân hàng là lợi nhuận. Ở Mexico và ở Hoa Kỳ các ngân hàng
theo các thể chế khác nhau .Ở hoa Kỳ cạnh tranh công khai và khốc liệt làm cho
kinh tế phát triển nhanh chóng. Ở Mexico, không có cạnh tranh giữa các ngân
hàng, họ cấp tín dụng cho người có đặc quyền và người đã giàu rồi, những người
sẽ sử dụng sự tiếp cận của họ để tăng sự kìm kẹp đối với các khu vực khác nhau
của nền kinh tế. Hình thức, mà ngành ngân hàng Mexico đã lấy trong các thế kỷ
mười chín và hai mươi, đã là kết quả trực tiếp của các thể chế chính trị sau
độc lập của nước này.
Không giống ở Mexico, ở Hoa Kỳ các công dân đã có thể
kìm hãm và giải thoát khỏi các chính trị gia, những người lạm dụng chức vụ của
mình để làm giàu cho mình hay tạo ra các độc quyền cho các cánh hẩu của mình.
Kết quả là, các độc quyền ngân hàng đã sụp đổ. Sự phân bố rộng các quyền chính
trị ở Hoa Kỳ, đặc biệt khi so sánh với Mexico, đã đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng
đến tài chính và các khoản vay. Ðiều này, đến lượt nó, lại đảm bảo rằng những
người có các ý tưởng và các sáng chế có thể được hưởng lợi từ chúng.
SỰ THAY ĐỔI PHỤ THUỘC VÀO
CON ĐƯỜNG
Thế giới đã thay đổi trong các năm 1870 và 1880. Mỹ Latin đã không là ngoại lệ
Sự dai dẳng kéo dài vào thế kỷ
hai mươi của một hình mẫu thể chế đặc thù không thân thiện với tăng trưởng ở
Mexico và Mỹ Latin được minh họa rõ bởi sự thực rằng, hệt như trong thế kỷ mười
chín, hình mẫu đã gây ra trì trệ kinh tế và bất ổn chính trị, các cuộc nội
chiến và đảo chính, khi các phe nhóm tranh giành nhau vì các lợi ích quyền lực.
Cuộc Cách mạng Mexic được tiếp theo bởi các cuộc cách mạng khác ở Bolivia năm
1952, ở Cuba năm 1959, và Nicaragua năm 1979. Trong lúc đó, các cuộc nội chiến
kéo dài đã nổ ra ở Columbia, El Salvador, Guatemala, và Peru. Sự chiếm đoạt hay
sự đe dọa chiếm đoạt tài sản vẫn tiếp tục mau lẹ, với các cuộc cải cách nông
nghiệp hàng loạt (hay các cuộc cải cách được thử) ở Bolivia, Brazil, Chile,
Columbia, Guatemala, Peru, và Venezuela. Các cuộc cách mạng, những sự chiếm
đoạt và bất ổn chính trị đã đến cùng với các chính phủ quân sự và các chế độ
độc tài thuộc nhiều loại. Tuy cũng đã có một sự trôi dạt từ từ hướng về các
quyền chính trị rộng lớn hơn, nhưng chỉ đến các năm 1990 thì hầu hết các nước
Mỹ Latin mới trở thành các nền dân chủ, và thậm chí khi đó chúng vẫn sa lầy
trong bất ổn.
KIẾM
MỘT HAY HAI TỶ
Những hệ lụy kéo dài của tổ chức
xã hội thuộc địa, và của các di sản của các xã hội đó, định hình những sự khác
biệt hiện đại giữa Mỹ và Mexico. Sự tương phản giữa Bill Gates (Mỹ) và Carlos
Salim ( Mexico) đã trở thành hai người giàu nhất thế giới thế nào –Sự thăng
tiến của Bill Gates ai cũng biết, nhưng địa vị của Gates với tư cách người giàu
nhất thế giới và nhà sáng lập của một trong những công ty đối mới sáng tạo nhất
về mặt công nghệ đã không ngăn cản Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đệ trình các vụ kiện dân
sự chống lại Công ty Microsoft ngày 8-5-1998, cho rằng Microsoft đã lạm dụng
sức mạnh độc quyền.
Ở Mexico, Carlos Salim đã không
kiếm tiền bằng đổi mới sáng tạo. Lúc đầu ông ta đã trội hơn về các giao dịch
chứng khoán, và về mua và tân trang các hãng không có lời. Phi vụ lớn nhất
của ông ta đã là việc thôn tính
Telmex, công ty viễn thông độc quyền của Mexico được tư nhân nhóa năm 1990. Cho
dù Carlos Salim đã không đặt giá cao nhất, ông đã thắng thầu. Thay cho việc trả
tiền ngay cho các cố phiếu, Salim đã dàn xếp được việc thanh toán chậm, sử dụng
cổ tức của bản thân Telmex để trả cho cổ phiếu. Cái từng là độc quyền nhà nước
nay đã trở thành độc quyền của Salim, và nó đã sinh lợi khổng lồ.
Các thể chế kinh tế, mà đã biến
Carlos Salim thành người là ông ta, là rất khác với các thể chế ở Hoa Kỳ. Nếu
bạn là một doanh nhân khởi nghiệp ở Mexico, các rào cản gia nhập đóng một vai
trò quyết định tại mọi giai đoạn của sự nghiệp của bạn. Các rào cản này bao gồm
các giấy phép đắt tiền mà bạn phải kiếm được, tệ quan liêu mà bạn phải vượt
qua, các chính trị gia và những người đang ở trong ngành đứng cản đường bạn, và
sự khó khăn để kiếm được tài trợ từ một khu vực tài chính mà thường móc ngoặc
với những người đang trong ngành mà bạn thử cạnh tranh với. Các rào cản này
hoặc có thể là không thể vượt qua được, ngăn không cho bạn vào các lĩnh vực
sinh lợi, hay là chiến hữu lớn nhất của bạn, giữ không cho các đối thủ cạnh
tranh của bạn đến gần. Sự khác biệt giữa hai kịch bản, tất nhiên, là, bạn biết
ai và có thể ảnh hưởng đến ai – và phải, bạn có thể đút lót ai. Carlos Slim,
một người có tài, có tham vọng, từ một nền tảng tương đối khiêm tốn của những
người nhập cư Liban, đã là một bậc thầy về nhận được các hợp đồng độc quyền;
ông đã tìm được cách để độc chiếm thị trường viễn thông béo bở ở Mexico, và sau
đó mở rộng tầm với của ông ra phần còn lại của Mỹ Latin.
Slim đã kiếm được tiền trong nền
kinh tế Mexic phần nhiều nhờ các mối quan hệ chính trị của ông. Khi đánh bạo
sang Hoa Kỳ kinh doanh, ông đã không thành công. Khi Slim phải chịu các thể chế
của Hoa Kỳ, các chiến thuật thông dụng của ông để kiếm tiền đã không có kết
quả.
HƯỚNG
TỚI MỘT LÝ THUYẾT VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG THẾ GIỚI
Chúng ta sống
trong một thế giới bất bình đẳng. Những sự khác biệt giữa các quốc gia là gống
như những khác biệt giữa hai phần của Nogales (Arizona-Bắc và Sonora- Nam, cách
nhau một hàng rào), và chỉ trên quy mô lớn hơn. Tính bất bình đẳng này không chỉ
có các hậu quả đối với cuộc sống của từng con người trong các nước nghèo; nó
cũng gây ra nỗi bất bình và oán giận với những hậu quả chính trị khổng lồ ở Hoa
Kỳ và những nơi khác. Hiểu vì sao những
khác biệt này tồn tại và cái gì gây ra chúng là tiêu điểm của chúng ta trong cuốn
sách này.
Lý do mà Arizona, giàu hơn nhiều
so với Sonora, là đơn giản; chính bởi vì các thể chế rất khác nhau ở hai bên
biên giới, mà các thể chế đó tạo ra những khuyến khích rất khác nhau cho cư dân
của Arizona, đối lại Sonora. Hoa Kỳ ngày nay cũng giàu hơn Mexico hay Peru rất
nhiều bởi vì cách các thể chế kinh tế và chính trị của nó định hình các khuyến
khích của các doanh nghiệp, các cá nhân, và các chính trị gia. Các thể chế kinh
tế định hình các khuyến khích kinh tế. Chính quá trình chính trị là cái xác
định các thể chế kinh tế nào mà nhân dân sống dưới, và chính các thể chế chính
trị là cái xác định quá trình này hoạt động ra sao. Các thể chế chính trị bao
gồm quyền lực và năng lực của nhà nước để điều tiết và cai trị xã hội.
Vì các thể chế ảnh hưởng đến ứng
xử và các khuyến khích trong cuộc sống thực, chúng tạo ra sự thành công hay sự
thất bại của các quốc gia. Tài năng cá nhân là quan trọng ở mọi mức của xã hội,
nhưng ngay cả cái đó cũng cần một khung thể chế để biến nó thành một lực tích
cực.
Cuốn sách này sẽ chứng tỏ rằng
các thể chế kinh tế là cốt yếu cho việc xác định liệu một nước là nghèo hay
giàu, chính trị và các thể chế chính trị là cái quyết định một nước có các thể
chế kinh tế nào. Lý thuyết của chúng ta về sự bất bình đẳng thế giới cho thấy
các thể chế chính trị và kinh tế tương tác với nhau thế nào trong việc gây ra
sự nghèo khổ và sự thịnh vượng, Tuy các thể chế là chìa khóa cho các khác biệt
giữa hai phần của Nogales và giữa Hoa Kỳ và Mexico, điều đó không có nghĩa rằng
sẽ có sự đồng thuận ở Mexico để thay đổi các thể chế. Không có sự tất yếu nào
đối với một xã hội để phát triển các thể chế tốt nhất cho tăng trưởng kinh tế
hay cho phúc lợi của các công dân của nó, bởi vì các thể chế khác có thể thậm
chí còn tốt hơn cho những người kiểm soát chính trị và các thể chế chính trị.
Những kẻ có quyền thế lớn và những người còn lại của xã hội thường không đồng ý
về tập nào của các thể chế nên giữ nguyên và tập nào phải thay đổi Bởi vì không
có sự đồng thuận như vậy, việc xã hội kết thúc với các quy tắc nào được quyết
định bởi chính trị: ai có quyền lực và quyền lực này có thể được sử dụng thế
nào. Carlos Slim có quyền lực để có được cái ông ta muốn. Quyền lực của Bill
Gates bị hạn chế hơn rất nhiều. Ðó là vì sao lý thuyết của chúng ta không chỉ
là về kinh tế học mà cũng về chính trị học. Nó là về các tác động của các thể
chế lên thành công hay thất bại của các quốc gia – như thế là kinh tế học về
nghèo khó và thịnh vượng; nó cũng là về các thể chế được xác định và thay đổi
thế nào theo thời gian, và chúng thất bại ra sao để thay đổi ngay cả khi chúng
tạo ra sự nghèo khó và khốn khổ cho hàng triệu người – như thế là chính trị học
về nghèo khó và thịnh vượng. ( còn tiếp)