Bản quyền hình ảnh Getty
Images Image captionThủ tướng Peter Pellegrini của Slovakia hôm 2/5/2018
có chuyến công du một ngày tới Đức, với vụ 'bắt cóc ở Berlin' nằm cao trong
nghị trình thảo luận giữa ông với Thủ tướng Đức, Angela Merkel
Đóng kênh chia sẻ
Liên quan tới cáo buộc 'bắt cóc Trịnh Xuân Thanh',
lãnh đạo cao nhất của chính phủ Slovakia nay nói rằng Việt Nam đã "lợi
dụng lòng hiếu khách" của họ.
Nhân cuộc Đối Thoại Nhân Quyền
Liên Hiệp Châu Âu-Việt Nam lần thứ sáu diễn ra hôm qua 08/12/2016 tại
Bruxelles, phái đoàn châu Âu đã nêu bật nhiều trường hợp của những người đang
bị chính quyền Hà Nội giam giữ vì bất đồng chính kiến. Bruxelles cho rằng những
người này cần phải được trả tự do.
Trong bản thông cáo báo chí công
bố sau cuộc họp, Liên Hiệp Châu Âu cho biết đã nêu với phía Việt Nam các vụ
sách nhiễu và giam giữ ngày càng nhiều những người đấu tranh bảo vệ nhân quyền
ở Việt Nam.
Vào ngày 24 tháng 2 năm 1848, Các Mác (Karl Marx) và Ph. Ăngghen (F. Engels) công bố bản Tuyên Ngôn Cộng Sản với lời mở đầu “Một bóng ma đang ám ảnh Châu Âu: Bóng ma chủ nghĩa cộng sản”. Hơn một thế kỷ bóng ma này nhờ chiến tranh, bạo lực và tuyên truyền đã trở thành lực thống trị ở nhiều nước và gây bao tác hại cho nhân loại. Nhưng rồi tại châu Âu vào cuối thế kỷ 20, bóng ma cộng sản đã bị cơn bão dân chủ-tự do trừ khử hoàn toàn. Bây giờ bóng ma đó chỉ còn sống thoi thóp vất vưởng ở vài quốc gia như Việt Nam, Bắc hàn, Lào, Trung cộng và Cu Ba…
Các
tổ chức nhân quyền trên khắp thế giới hôm thứ Năm kêu gọi chính phủ Việt Nam
phóng thích Luật sư Nguyễn Văn Đài và bà Lê Thu Hà, hai nhà hoạt động vừa bị
bắt giữ hồi tháng trước.
Trong
một thông cáo chung, 26 tổ chức từ châu Âu, Mỹ và Đông Nam Á cũng kêu gọi cộng
đồng quốc tế gia tăng áp lực lên chính quyền Việt Nam về hai trường hợp trên.
Liên hiệp quốc, Liên hiệp Châu Âu, và Mỹ đồng loạt lên án Việt Nam vi
phạm nhân quyền trong vụ bắt giữ một luật sư bất đồng chính kiến được quốc tế
biết tiếng
Đôi khi cần so sánh những
gì không thể so sánh. Dù chỉ để đánh thức những lương tri bị gây mê. Giữa năm
1933 và 1940, nhiều triệu người tị nạn thoát khỏi Đức, Ba Lan, các nước Bắc Âu,
chạy trốn chủ nghĩa quốc xã, vấp phải các biên giới bị đóng chặt. Họ tên là Nathan, Samuel hay Rachel. Chẳng hạn Nathan,
đoán trước được tình hình, đã chạy trốn khỏi Đức ngay từ mùa hè năm 1933, năm
tháng sau khi Hitler lên cầm quyền. Ông muốn sang Hoa Kỳ : nhập cảnh bị từ
chối. Thử sang Tây Ban Nha, cũng bị từ chối. Do một chút tình cờ, ông lọt vào
Pháp, không được đón nhận nhưng cũng không bị xua đuổi. Chỉ đến năm 1938 chính
phủ Daladier, do quốc hội của mặt trận bình dân bầu lên, mới nộp cho Đức những
người Do Thái tìm cách chạy sang Pháp. Nathan thoát được chế độ Vichy[1],
bằng cách gia nhập hàng ngũ – thưa thớt - của Kháng chiến, bên cạnh những người
cộng hòa Tây Ban Nha, sống sót từ nội chiến. Nathan có sáu anh chị em, tất cả đều
bị tàn sát trong các trại tập trung phát xít và mẹ ông chết đói trong khu ổ chuột
Varsovie. Sáu triệu nạn nhân của nạn diệt chủng Do Thái (Shoah) không gây nên –
ngoài cộng đồng Do Thái – một xúc động lớn nào, cho đến khi có vụ xử án (tên
cai ngục phát xít) Adolf Eichemann ở Jérusalem năm 1961.
Hình ảnh thi thể hai em bé người Syria trôi dạt vào bờ biển phía tây nam Thổ Nhĩ Kỳ đã được đăng và bình luận trên mọi phương tiện truyền thông toàn cầu. Nó như một cú sốc, một cái tát đau nhói vào lương tâm của nhân loại. Tờ The Guardian đã tóm tắt “Tất cả sự ghê tởm của thảm kịch nhân loại đang diễn ra dọc theo bờ biển châu Âu”.
Việt nam đang đàm phán với các nhà chế tạo châu Âu và Hoa Kỳ để trang bị hiện đại hóa không lực vốn từ trước tới nay lệ thuộc vào Nga.REUTERS/Lee Jae-Won/Files
Trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng tỏ thái độ hung
hăng trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông, Việt Nam đã kín đáo đàm phán với
nhiều nhà cung cấp Châu Âu và Hoa Kỳ để đặt mua thêm phương tiện, từ chiến đấu
cơ, máy bay tuần tra biển, cho đến phi cơ không người lái không vũ trang. Hãng
tin Anh Reuters đã tiết lộ thông tin này vào hôm nay, 05/06/2015, trong một bài
điều tra đặc biệt.
Lúc 15:45’ chiều nay, 26/3/2015, lực lượng an ninh CSVN đã bất ngờ ập đến bắt cóc blogger Phạm Đoan Trang khi cô đang đi cùng gia đình tử tù Nguyễn Văn Chưởng đến gặp đại sứ quán Mỹ và Liên minh Châu Âu.
Như mọi người đều biết, từ đầu thế kỉ XIX ở các nước Châu Âu và Mỹ đã diễn ra phong trào xâm chiếm thuộc địa nhằm vơ vét tài nguyên phục vụ cho cuộc cách mạng sản xuất và các nước Châu Á trở thành miếng mồi béo bở của các nước Âu-Mỹ. Do đó, đến giữa thế kỉ XIX cũng giống như hầu hết các nước Châu Á khác, cả Trung Quốc và Nhật Bản đều đang đứng trước nguy cơ trở thành thuộc địa của thực dân Âu-Mĩ. Mặt khác, triều Thanh ở Trung Quốc và Tokugawa ở Nhật Bản sau một thời gian khá dài thành công trong việc xây dựng chế độ phong kiến và phát triển kinh tế thì cho đến giữa thế kỉ 19, cả hai triều đại này bắt đầu đi vào con đường suy vong. Trước sự suy tàn của chế độ phong kiến cũng như nguy cơ đất nước trở thành thuộc địa của thực dân Âu-Mĩ, ở cả hai nước đã diễn ra cuộc cách mạng nhằm thay đổi đất nước. Tuy nhiên, do lực lượng và phương thức tiến hành cuộc cách mạng ở mỗi nước khác nhau nên kết quả thu được cũng khác nhau. Đó là, một Trung Quốc vẫn trở thành nước nửa thuộc địa nửa phong kiến và một Nhật Bản trở thành cường quốc ở Châu Á. Do vậy, bài này sẽ tìm hiểu về cuộc cách mạng ở hai nước và so sánh hệ quả của nó.
Hãng tin Mỹ UPI, ngày 14/05/2014 có bài phân tích của Jeff
Moore về hành động của Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào vùng biển
của Việt Nam, tựa : “Kịch bản chiếu tướng nguy hiểm đang diễn ra ở Biển Đông”.
Tác giả nhìn nhận sự kiện này, cùng với việc Nga sáp nhập Crimée, như
một chiến lược gọng kìm của Trung Quốc và Nga chống lại ảnh hưởng của
Mỹ, vì theo Bắc Kinh, Hoa Kỳ đang suy yếu, khó có thể đối phó cùng một
lúc với một cuộc chiến trên hai mặt trận. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
Việc Trung Quốc triển khai dàn khoan biển nước sâu 981 ở bờ
biển Việt Nam vào đầu tháng Năm vừa là một sự leo thang nguy hiểm trong
lúc tình hình Biển Đông đang căng thẳng. Khả năng va chạm hàng hải giữa
Trung Quốc và Việt Nam không còn chỉ ở mức có thể xẩy ra nữa, kể từ vụ
xung đột ở đảo Gạc Ma (Johnson Reef) năm 1988 làm khoảng 70 thủy thủ
Việt Nam thiệt mạng. Nhiều người ở Washington đánh giá hành động của Bắc
Kinh là không đáng lo ngại, thế nhưng, trong suy tính của Trung Quốc,
thì sự khiêu khích này bắt nguồn từ lô gich chiến lược.
Điều gì đã xẩy ra ?
Bắc Kinh khẳng định rằng, trên cơ sở nghiên cứu lịch sử, Biển Đông và
tất cả các nguồn tài nguyên trong đó thuộc về Trung Quốc. Gần đây, Bắc
Kinh lớn tiếng đưa ra các đòi hỏi lãnh thổ dựa trên bản đồ 9 đường gián
đoạn và Trung Quốc đã triển khai tàu đánh cá, tàu cảnh sát biển và tàu
hải quân ra để khẳng định đòi hỏi này.
Việt Nam cho rằng khu vực đó là của mình mà Việt Nam gọi là Biển Đông
và khu vực này thuộc vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Cả Việt Nam và
Philippines phản đối mạnh mẽ các hành động của Trung Quốc, còn
Indonesia, Brunei và Malaysia thì cũng có phản ứng tương tự, tuy có kín
đáo hơn.
Trung Quốc biết là việc triển khai giàn khoan dầu 981 có thể làm cho
Việt Nam tức giận, do vậy, họ điều khoảng 80 tàu đi bảo vệ. Việt Nam
chống lại và đã điều động 29 tàu tuần duyên và hải quân, trong số này,
nhiều tàu bị các tàu Trung Quốc đâm và phun vòi rồng tấn công.
Tất cả những điều này có nghĩa gì ?
Trước tiên, nhìn từ góc độ chiến lược chung, Bắc Kinh hành động phối
hợp với đồng minh mới của họ là Nga. Trong ba năm qua, hai bên đã xây
dựng liên minh chiến lược, cho dù còn lỏng lẻo, để chống lại ảnh hưởng
của Mỹ. Vào lúc Nga chiếm Crimée và làm cho chiến trường Tây Âu ù tai
với các máy bay ném bom chiến lược, thì Trung Quốc cũng hành động tương
tự ở phía đông. Đó là một động thái xiết gọng kìm, với cuộc chiến phi
đối xứng, được tính toán kỹ lưỡng, sử dụng tối thiểu lực lượng và thủ
đoạn, chưa đến mức để gây ra phản ứng quân sự của Mỹ, nhưng cũng đủ để
Nga và Trung Quốc đi xa hơn trong các mục tiêu của mình. Điều này phần
nào được khuyến khích do chính quyền Obama đã mất đi khả năng đối phó
với một cuộc chiến trên hai mặt trận. Trung Quốc và Nga đã buộc Hoa Kỳ
phải dàn trải các mối quan tâm và nguồn lực. Trong “Tam Thập Lục kế”
truyền thống, người Trung Quốc gọi đây là kế « Hỗn thủy mạc ngư – Đục nước bắt cá – Lợi dụng tình thế, hành động đạt mục đích ».
Thứ hai, Trung Quốc nhìn thấy Hoa Kỳ, với tư cách là cường quốc thế
giới, đang trong quá trình rút lui chiến lược nhanh chóng. Trung Quốc
nhận ra cốt lõi các thất bại của Mỹ về an ninh quốc gia, như trong hồ sơ
Irak (ra đi quá sớm), Afghanistan (chiến lược chống nổi dậy quá khó để
thực hiện), Libya (tình trạng tồi tệ sau thời kỳ « lãnh đạo từ phía sau, giật dây ở hậu trường
») và Yemen (Al Qaeda có căn cứ mới bất chấp các vụ tấn công liên tiếp
bằng máy bay không người lái). Bắc Kinh nghĩ rằng Washington không thể
hiểu nổi Pakistan, « anh em cừu địch » của Hoa Kỳ và gần như là
đồng minh của Bắc Kinh. Trung Quốc cũng đánh giá rằng chính sách dấn
thân vào Trung Đông của Tổng thống Obama ở Trung Đông trong bài diễn văn
Cairo 2009 đã thất bại vì khủng bố thánh chiến Hồi giáo gia tăng và tất
cả các cuộc cách mạng Mùa Xuân Ả Rập không mang lại kết quả như ý muốn.
Do vậy, ở trong khu vực Châu Á, cần phải chiếm lấy Biển Đông. Người
Trung Quốc gọi kế này là « Cách ngạn quan hỏa – Đứng trên bờ xem lửa cháy trên sông » - có nghĩa là cứ để yên cho kẻ địch tự rối loạn, kiệt quệ về quân sự, sau đó, ra tay hành động.
Thứ ba, liên quan đến chiến lược khu vực, cho dù Trung Quốc nhìn thấy
Hoa Kỳ đang ngày càng yếu đi, nhưng họ cũng lo ngại về chuyến công du
Châu Á của Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel, để « thêm da đắp thịt »
cho chiến lược xoay trục sang Châu Á, với các thỏa thuận quốc phòng và
hỗ trợ an ninh. Các thỏa thuận này bao gồm cả việc đẩy mạnh các cuộc tập
trận quân sự thường niên với các đồng minh Đông Nam Á như Philippines :
Cuộc tập trận Balikatan (Vai kề vai) đã bắt đầu ngày 05/05 vừa qua. Do
vậy, các hành động khiêu khích của Trung Quốc là nhằm lách vào bên trong
« chiến lược tổng lực dấn thân cùng khu vực » truyền thống của Hoa Kỳ, với một « cú đấm thẳng trong cuộc chiến phi đối xứng
». Nếu hành động nhanh bây giờ, Trung Quốc nghĩ rằng sẽ khiến cho Mỹ
gặp nhiều khó khăn hơn trong việc giúp đỡ các đồng minh ASEAN về sau
này.
Thứ tư, Trung Quốc lo ngại Việt Nam đang mạnh lên. Kinh tế Việt Nam
phát triển. Hà Nội đang nâng cấp quân đội và hải quân để bảo vệ bờ biển -
Biển Đông – nơi đóng vai trò trung tâm đối với ngành hàng hải, ngư dân
và lĩnh vực năng lượng của Việt Nam. Chính quyền Hà Nội cũng biết rằng
toàn bộ đất nước của họ có thể bị xâm lược và tấn công từ phía bờ biển
vào.
Với các ý tưởng về an ninh quốc gia, Trung Quốc mong muốn có một Việt
Nam ngoan ngoãn và vâng lời theo truyền thống Khổng Tử và Vương triều
Trung Quốc. Họ nhắc lại cuộc xâm lăng trừng phạt vào miền bắc Việt Nam
trong lúc Hà Nội có đội quân đứng hàng thứ tư trên thế giới. Việt Nam đã
nhượng một ít lãnh thổ và mỗi bên có khoảng 30 ngàn người bị thiệt mạng
trong gần một tháng chiến sự. Do vậy, theo quan điểm của Bắc Kinh, làm
giảm sức mạnh đang chớm nở của Việt Nam là trò chơi thông minh.
Vậy tình hình ở Biển Đông sẽ đi tới đâu ? Dường như tình hình sẽ tồi
tệ hơn. Không bên nào chịu lùi bước. Vả lại, Trung Quốc đang có những
động thái tương tự trong các đòi hỏi chủ quyền biển đảo với Nhật Bản.
Trừ phi những cái đầu trầm tĩnh ở Bắc Kinh thắng thế, những rối loạn này
có thể dẫn đến một sự sai lầm khủng khiếp.
Một nước Việt Nam bị dồn vào chân tường sẽ phản ứng dữ dội hơn là Bắc
Kinh lầm tưởng. Các nước ASEAN, vốn liên minh lỏng lẻo với nhau, sẽ
buộc phải đoàn kết trước các hành động của Trung Quốc và điều này đi
ngược lại các mục tiêu của Bắc Kinh. Nhật Bản đang bị chèn ép và tiến
hành tái vũ trang. Còn Hoa Kỳ chưa hẳn là quá suy yếu và bị tổn thương
đến mức Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương và hải quân Mỹ không còn khả năng
hành động.
Bắc Kinh dường như bị mù quáng về « sự trỗi dậy Trung Hoa »,
về sự tự hào dân tộc hào nhoáng và thành công kinh tế vang dội. Do vậy,
Trung Quốc đang gặp nguy hiểm khi không tuân thủ ngạn ngữ của chính họ :
« Lên nhà rút thang », có nghĩa là Trung Quốc đang trên đường
tự cô lập mình về mặt quân sự, khi hành động một cách vội vã. Chỉ có các
chiến lược gia sáng suốt của Trung Quốc có thể giúp làm giảm nhiệt tình
hình đang rất nóng bỏng này.