CON TRAI TRUNG TƯỚNG TRẦN ĐỘ KỂ VỀ ĐÁM TANG CHA 16 NĂM TRƯỚC
Trần Thắng: "Lên đọc lời cảm ơn. Tôi đọc bản soạn sẵn đã đưa Ban lễ tang duyệt. Gần về cuối, hình ảnh tập giấy A4 thay sổ tang, hình ảnh người lính ném mấy bức trướng vào góc phòng, hình ảnh đòi thu giữ sổ tang và nhiều chi tiết đau lòng khác làm tôi nghẹn giọng. Vẫn cầm tờ giấy như đang đọc nội dung có sẵn, tôi nói to, chậm, rõ: “…gia đình và dòng họ chúng tôi không chấp nhận bài điếu văn này…”."
Blog Trần Độ tác phẩm
Hà Nội sắp vào thu, một mùa “vu lan báo hiếu” sắp đến. Tôi lại nhớ tới những ngày này của 15 năm trước.
Sau Tết Nhâm Ngọ (2002), Cha tôi – Trần Độ trở bệnh nặng.
Hà Nội sắp vào thu, một mùa “vu lan báo hiếu” sắp đến. Tôi lại nhớ tới những ngày này của 15 năm trước.
Sau Tết Nhâm Ngọ (2002), Cha tôi – Trần Độ trở bệnh nặng.
|
Cha tôi lại vào bệnh viện Hữu Nghị với chẩn đoán ung thư bàng quang. Nằm ít
lâu, sức khoẻ ông xuống rõ do suy hô hấp, tháng 5/2002 ông phải đưa ống xông
vào để thở và nằm ở phòng cấp cứu. Mặc dù nằm một chỗ, không nói được, đi tiểu
qua ống dẫn nhưng ông vẫn tỉnh táo. Ông rất vui khi có người thân, bạn bè tới
thăm. Không nói được nhưng ông ra hiệu hoặc bút đàm với mọi người. Giữa tháng
7/2002, ông ra hiệu cho tôi về lấy di chúc của ông ra đọc và thực hiện các việc
ông dặn. Trong di chúc ông viết: xin được hoả thiêu và hài cốt đưa về nằm bên mẹ
ở nghĩa trang làng Thư Điền, xã Tây Giang, huyện Tiền Hải.
Vào 14g 10p ngày 9/8/2002 (tức 1 tháng 7 năm Nhâm Ngọ) Cha tôi trút hơi thở cuối cùng tại phòng cấp cứu, bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội.
Vào 14g 10p ngày 9/8/2002 (tức 1 tháng 7 năm Nhâm Ngọ) Cha tôi trút hơi thở cuối cùng tại phòng cấp cứu, bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội.
Ngày hôm sau, Văn phòng Quốc hội họp với
gia đình bàn về lễ tang cho ông. Các vấn đề lễ tang, hoả táng, đưa hài cốt về
quê… được thống nhất. Lời điếu của Ban tổ chức lễ tang, và lời cảm ơn của gia
đình sẽ được soạn trước và đưa hai bên thống nhất. Gia đình đề nghị có 4, 5 quyển
sổ tang để mọi người chia buồn, Văn phòng Quốc hội đồng ý. Đám tang được lùi lại
5 ngày vì… Quốc hội đang họp.
Ngày 11/8, anh Hùng phó Ban lễ tang mang tới nhà cho tôi xem lời điếu. Trong đó có một đoạn khoảng chục dòng tôi yêu cầu bỏ vì nó “không thích hợp” và trái đạo lý “nghĩa tử nghĩa tận” của ông bà ta. Tối đó anh Hùng đưa tôi bản sửa, chỉ còn lại hơn một dòng “không thích hợp” và tôi cương quyết đòi bỏ. Anh Hùng nói: Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư cho ý kiến là không bỏ, nhưng tại lễ tang sẽ đọc rất nhỏ hoặc tạm tắt tăng âm… Tôi nói: Tuỳ các ông, nhưng nếu xảy ra chuyện gì gia đình không chịu trách nhiệm. Còn lời cám ơn của gia đình tôi đã soạn và đánh máy. Anh Hùng xem và không có ý kiến gì.
Sáng 14/8/2002, gia đình, họ hàng, thân bằng quyến thuộc của Cha tôi đã có mặt rất sớm ở nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông.
Cảm nhận đầu tiên là vấn đề an ninh: không hiểu sao công an, bộ đội, người đứng chỉ trỏ… rất đông. Cảm nhận tiếp theo là: không khí rất căng thẳng như có gì đó chống đối nhau. Cảm nhận nữa là: tại sao việc kiểm soát vòng hoa tang, băng tang, các bức trướng… lại nghiêm ngặt đến vậy? Nhiều vòng hoa phải thay băng tang hoặc sửa câu chữ, nhiều bức trướng bị thu giữ…
Tôi và mọi người tang phục chỉnh tề bước vào nhà tang lễ. Đập thẳng vào mắt tôi là dòng chữ “Lễ tang ông Trần Độ” trên một tấm bảng lớn phủ kín dòng chữ “Vô cùng thương tiếc…” lâu nay vẫn gắn trên tường. Đi tới bàn ghi sổ tang tôi thấy trên 5 bàn có 5 tập giấy trắng khổ A4. Tôi hỏi cán bộ Ban lễ tang: Sổ tang đâu? Anh ta nói: Sau đám tang sẽ đóng thành sổ. Tôi nói: Đã thống nhất sổ tang là sổ tang, ban tổ chức không có gia đình sẽ đưa tới. Một lúc sau, 5 quyển sổ tang đã đóng được đưa vào thay cho 5 tập giấy rời.
Ngày 11/8, anh Hùng phó Ban lễ tang mang tới nhà cho tôi xem lời điếu. Trong đó có một đoạn khoảng chục dòng tôi yêu cầu bỏ vì nó “không thích hợp” và trái đạo lý “nghĩa tử nghĩa tận” của ông bà ta. Tối đó anh Hùng đưa tôi bản sửa, chỉ còn lại hơn một dòng “không thích hợp” và tôi cương quyết đòi bỏ. Anh Hùng nói: Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư cho ý kiến là không bỏ, nhưng tại lễ tang sẽ đọc rất nhỏ hoặc tạm tắt tăng âm… Tôi nói: Tuỳ các ông, nhưng nếu xảy ra chuyện gì gia đình không chịu trách nhiệm. Còn lời cám ơn của gia đình tôi đã soạn và đánh máy. Anh Hùng xem và không có ý kiến gì.
Sáng 14/8/2002, gia đình, họ hàng, thân bằng quyến thuộc của Cha tôi đã có mặt rất sớm ở nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông.
Cảm nhận đầu tiên là vấn đề an ninh: không hiểu sao công an, bộ đội, người đứng chỉ trỏ… rất đông. Cảm nhận tiếp theo là: không khí rất căng thẳng như có gì đó chống đối nhau. Cảm nhận nữa là: tại sao việc kiểm soát vòng hoa tang, băng tang, các bức trướng… lại nghiêm ngặt đến vậy? Nhiều vòng hoa phải thay băng tang hoặc sửa câu chữ, nhiều bức trướng bị thu giữ…
Tôi và mọi người tang phục chỉnh tề bước vào nhà tang lễ. Đập thẳng vào mắt tôi là dòng chữ “Lễ tang ông Trần Độ” trên một tấm bảng lớn phủ kín dòng chữ “Vô cùng thương tiếc…” lâu nay vẫn gắn trên tường. Đi tới bàn ghi sổ tang tôi thấy trên 5 bàn có 5 tập giấy trắng khổ A4. Tôi hỏi cán bộ Ban lễ tang: Sổ tang đâu? Anh ta nói: Sau đám tang sẽ đóng thành sổ. Tôi nói: Đã thống nhất sổ tang là sổ tang, ban tổ chức không có gia đình sẽ đưa tới. Một lúc sau, 5 quyển sổ tang đã đóng được đưa vào thay cho 5 tập giấy rời.
Đám
tang được cử hành, các đoàn, các nhóm, các cá nhân lần lượt vào viếng. Băng
tang hầu hết không có chữ “vô cùng thương tiếc” hoặc “Trung tướng Trần Độ”.
Xen kẽ là các bức trướng:
- “Nhân văn danh tướng. Trung dũng vẹn toàn”;
- “Công thần không làm phách
Danh toại chẳng cầu nhàn
Bút thần vung mấy độ
Ðáng mặt đại nghĩa quân”
- “Vì đại nghĩa nhân chân, thân mấy độ trần thân
Tướng dẫu không nguyên giáp, hồn vẫn vẹn tình dân”.
- “Vô tình vị tất chân hào kiệt
Hữu độ phương vi đại trượng phu”…
Theo sau là các cụ già, các cựu chiến binh, các nhân sĩ… Họ mang trướng theo hoặc giấu trong người. Khi tới gần quan tài họ giương lên hoặc phủ lên áo quan. Cả phòng tang lễ im phăng phắc, không khí căng thẳng dần.
Khi các cụ đi khỏi, có vị nói với mấy cậu lính gì đó. Hai cậu lính chạy lên, thu mấy bức trướng, cuộn lại và ném vào góc phòng. Tôi gằn giọng: các cháu đâu? Lập tức cháu Đan, cháu Tuấn… lao lên góc phòng, mang tất cả các bức trướng sắp xếp lại như cũ. Không một tiếng động nào, không một hành động nào xảy ra trong lúc đó, nhưng ngột ngạt đến tức thở.
Xen kẽ là các bức trướng:
- “Nhân văn danh tướng. Trung dũng vẹn toàn”;
- “Công thần không làm phách
Danh toại chẳng cầu nhàn
Bút thần vung mấy độ
Ðáng mặt đại nghĩa quân”
- “Vì đại nghĩa nhân chân, thân mấy độ trần thân
Tướng dẫu không nguyên giáp, hồn vẫn vẹn tình dân”.
- “Vô tình vị tất chân hào kiệt
Hữu độ phương vi đại trượng phu”…
Theo sau là các cụ già, các cựu chiến binh, các nhân sĩ… Họ mang trướng theo hoặc giấu trong người. Khi tới gần quan tài họ giương lên hoặc phủ lên áo quan. Cả phòng tang lễ im phăng phắc, không khí căng thẳng dần.
Khi các cụ đi khỏi, có vị nói với mấy cậu lính gì đó. Hai cậu lính chạy lên, thu mấy bức trướng, cuộn lại và ném vào góc phòng. Tôi gằn giọng: các cháu đâu? Lập tức cháu Đan, cháu Tuấn… lao lên góc phòng, mang tất cả các bức trướng sắp xếp lại như cũ. Không một tiếng động nào, không một hành động nào xảy ra trong lúc đó, nhưng ngột ngạt đến tức thở.
.
Các
đoàn viếng đã gần xong. Bỗng anh Nghiêm Hà đến bên tôi nói: Ban tổ chức định
thu giữ mấy quyển sổ tang, anh ra xem sao? Tôi đi đến thì thấy một anh đang gom
giữ mấy quyển sổ tang. Tôi nói: anh để tôi xem. Mở một quyển tôi thấy có những
trang bị xé nham nhở. Tôi hiểu ngay họ muốn gì. Tôi lấy lại 5 quyển sổ tang và
chợt nhìn thấy em Lãng (chồng em Hạnh), một bác sĩ quân y đã qua các chiến trường.
Tôi nói lớn: Lãng! Em giữ 5 quyển sổ này không cho ai lấy. Em có làm được
không? Lãng cũng nói lớn như đang nhận lệnh: Rõ, em làm được.
Tôi vội về vị trí để làm lễ truy điệu. Ông Vũ Mão đọc lời điếu. Ông đọc to, rõ toàn văn lời điếu kể cả câu mà theo anh Hùng nói hôm trước là sẽ đọc nhỏ nhất có thể.
Hội trường im lặng, có tiếng ho, tiếng khóc ấm ức cứ lớn dần.
Tôi lên đọc lời cảm ơn. Tôi đọc bản soạn sẵn đã đưa Ban lễ tang duyệt. Gần về cuối, hình ảnh tập giấy A4 thay sổ tang, hình ảnh người lính ném mấy bức trướng vào góc phòng, hình ảnh đòi thu giữ sổ tang và nhiều chi tiết đau lòng khác làm tôi nghẹn giọng. Vẫn cầm tờ giấy như đang đọc nội dung có sẵn, tôi nói to, chậm, rõ: “…gia đình và dòng họ chúng tôi không chấp nhận bài điếu văn này…”.
Lập tức tiếng tôi chìm trong tiếng vỗ tay, tiếng hô vang của mọi người dự tang lễ. Lúc đó tôi không cảm nhận hết không khí của buổi lễ, tôi cố gắng làm tròn bổn phận của mình, nhưng trong tôi mọi thứ như vỡ vụn. Thật không ngờ tôi phải tham gia một đám tang… rất buồn như vậy.
Tôi vội về vị trí để làm lễ truy điệu. Ông Vũ Mão đọc lời điếu. Ông đọc to, rõ toàn văn lời điếu kể cả câu mà theo anh Hùng nói hôm trước là sẽ đọc nhỏ nhất có thể.
Hội trường im lặng, có tiếng ho, tiếng khóc ấm ức cứ lớn dần.
Tôi lên đọc lời cảm ơn. Tôi đọc bản soạn sẵn đã đưa Ban lễ tang duyệt. Gần về cuối, hình ảnh tập giấy A4 thay sổ tang, hình ảnh người lính ném mấy bức trướng vào góc phòng, hình ảnh đòi thu giữ sổ tang và nhiều chi tiết đau lòng khác làm tôi nghẹn giọng. Vẫn cầm tờ giấy như đang đọc nội dung có sẵn, tôi nói to, chậm, rõ: “…gia đình và dòng họ chúng tôi không chấp nhận bài điếu văn này…”.
Lập tức tiếng tôi chìm trong tiếng vỗ tay, tiếng hô vang của mọi người dự tang lễ. Lúc đó tôi không cảm nhận hết không khí của buổi lễ, tôi cố gắng làm tròn bổn phận của mình, nhưng trong tôi mọi thứ như vỡ vụn. Thật không ngờ tôi phải tham gia một đám tang… rất buồn như vậy.
Hà Nội, tháng 8/2017
Trần
Thắng
https://xuandienhannom.blogspot.com/2017/08/con-trai-tuong-tran-o-ke-ve-am-tang-cha.html?spref=fb
"ĐẢNG" - BÀI THƠ CUỐI CÙNG CỦA TƯỚNG TRẦN ĐỘ
Lời dẫn của Ngọc
Thu:
Nhân dịp Đảng CSVN vừa bước qua sinh nhật lần thứ 86, xin được giới thiệu cùng quý độc giả bài thơ ĐẢNG của tướng Trần Độ, là một trong những bài thơ cuối cùng của ông Trần Độ. Bài thơ này chỉ được lưu truyền trong giới quân ngũ, nên có lẽ nhiều người chưa có dịp đọc.
Về tác giả, tướng Trần Độ tên thật là Tạ Ngọc Phách, sinh năm 1923 trong một gia đình công chức ở tỉnh Thái Bình. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1940, khi mới 17 tuổi. Ông từng là ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa 3, 4, 5, 6, cũng như từng giữ các chức vụ như Phó Chủ tịch Quốc hội khóa 7, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị (1974-1976)… Cấp bậc cao nhất của ông trong Quân đội Nhân dân VN là trung tướng.
Ông Trần Độ đã từng kêu gọi ĐCS từ bỏ chế độ độc tài như sau: “Đảng Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc đảng, toàn trị, khôi phục vai trò, vị trí vốn có của Quốc hội, Chính phủ. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến pháp. Đó là phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do ngôn luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử ứng cử tự do, từ bỏ quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng, trừ bỏ ‘hiệp thương’ mà thực chất là gò ép”.
Hai hồi ký mà ông để lại là Hồi ký Trần Độ, được viết từ trong giai đoạn từ năm 1955-1996 và Nhật Ký Rồng Rắn, được viết vào những năm cuối đời. Trong cuốn Nhật Ký Rồng Rắn, ông Trần Độ đã nêu những câu hỏi quan trọng: “Cuộc cách mạng ở Việt Nam, rút cục đã xoá được cái gì, đập tan được cái gì, lập nên được cái gì, xây dựng được cái gì?”, “Một Đảng lãnh đạo có dân chủ được không?” và “Bây giờ phải làm gì?” Cuốn hồi ký này đã không được xuất bản, mà con bị công an tịch thu, nhưng bản thảo của nó đã được phổ biến trên mạng.
Tướng Trần Độ là người đã suốt đời theo đảng và là một công thần của chế độ. Khi nhận ra những sai lầm của đảng, ông đã lên tiếng kêu gọi đảng sửa đổi, thậm chí kêu gọi đảng thay đổi hệ thống chính trị, nên gần cuối đời, ông đã bị chính cái Đảng này khai trừ ra khỏi Đảng. Khi ông Trần Độ qua đời, cái đảng này cũng đã không tha cho ông, họ cử ông Vũ Mạo, đại diện Văn phòng Quốc hội, đến đọc điếu văn kể tội ông! (xem lại bài của nhà văn Hoàng Tiến ở cuối bài này, tường thuật lại đám tang của tướng Trần Độ)
Trong bài thơ ĐẢNG có mấy câu như sau: Đau thắt lòng! Tôi cất tiếng Đảng ơi!/ Sao lại thế: “Mùa thu Tháng Tám”/ Vinh dự, tự hào: “Đảng viên Cách mạng”/ Ngày qua ngày! Nhục nhã thế này ư?”.Kính mời quý độc giả đọc bài thơ ĐẢNG của tướng Trần Độ để hiểu thêm nỗi niềm của một vị tướng công thần của chế độ:
ĐẢNG
Trần Độ
Tôi vào bộ đội, năm mười sáu tuổi
Chia tay gia đình, bố mẹ, các em
Đôi chân cứng, rong ruổi mọi miền
Lửa chiến tranh, cháy tuổi xuân năm tháng
Nhớ mãi ngày, khi tôi vào Đảng
Nắm tay thề: “Với Tổ Quốc, Non Sông”.
Bên cây súng đi đến ngày chiến thắng.
Mái tóc xanh, đã chuyển màu bạc trắng.
*
Thân già nua, cùng gối mỏi, chân chùng
Nhưng lương tâm, trí tuệ cứ bồn chồn
Lòng trăn trở, vấn vương, day dứt
Cao hơn hết, tôi ngẫm suy về Đảng
Như người cha, chỗ dựa của lòng tin.
*
Đi theo Đảng, đâu phải Mác – Lê nin?
Mà chính là Tình yêu Tổ Quốc
Đến với Đảng để làm điều nhân đức
Cùng lương tâm, cống hiến cho đời.
*
Nhưng, hôm nay, đầy méo mó, cạn vơi
Thì ắt hẳn, ngày mai tràn cay đắng.
Thời gian trôi, như bóng câu qua cửa
Đảng cứ tàn dần chân lý trong tôi.
*
Đau thắt lòng! Tôi cất tiếng Đảng ơi!
Sao lại thế: “Mùa thu Tháng Tám”
Vinh dự, tự hào: “Đảng viên Cách mạng”
Ngày qua ngày! Nhục nhã thế này ư
*
Sách mấy ngàn trang, chữ mấy triệu từ
Rao giảng rất hay, việc làm thì nháo
Khi trích Lê nin, “xúc phạm lời Bác”
Nên thực thi, không thuyết phục được nhân tâm.
*
Nhớ ngày xưa, Đảng phải gắn với dân!
Như cá phải rúc, chui vào nước!
Đảng đề cao Nhân dân là trên hết
Nói hộ dân và nghĩ cũng hộ dân.
*
Mọi người dân, tìm chỗ để đặt chân
Đều phải bước them chân của Đảng!
Còn hôm nay, vẫn “vì Dân trong sáng”!
“Quyền lợi nhóm”, giọng lưỡi “Lý Thông”
*
Nhớ tuyên ngôn, buổi đầu Cách mạng
Đảng không tham quyền chức nghênh ngang
Cách mạng thành công, cáo lão về làng
Vui thú điền viên, thung dung câu cá.
*
Hãy nhìn trông, không có ai về cả
Cố bám quyền, giành mũ áo cao sang
Bày đặt ăn chia, tài lộc khang trang
Chẳng dại gì về quê cha đất tổ.
*
Từ huyện, xã, quận, phường, thành phố
Đảng chiếm một bên, Nhà nước một bên
Bí thư thành ủy, Chủ tịch ủy ban
Hai guồng máy, đè đầu dân đau khổ.
*
Đây Sở Ngoại thương, kia Ban Kinh tế
Nội chính bên này, bên nọ Công an
Sống đàng hoàng, bao dinh sở khang trang
Một cổ hai tròng, người dân tội nghiệp
*
Đảng dậy răn: Giữ tấm lòng liêm khiết
Sao đút túi liền những triệu đô la
Tiền nước ngoài họ tranh thủ chúng ta
Người “ăn mảnh” là Tổng bí thư của Đảng!
*
Để mị dân, Đảng tăng cường lao động
Chức vu vơ, trừu tượng “chủ nhân ông”
Làm chủ ngu ngơ, nhà máy ruộng đồng
Đảng nắm chặt tiền và quyền sinh sát.
*
Thân “ngọc ngà” phải về với đất
Đảng chiếm giữ riêng Mai Dịch cho mình.
Rồi cho xây Hoàn Vũ rất môi sinh
Riêng với Đảng, không ai thiêu cả
*
Nơi đô thành, chạy dọc ngang đường phố
Đặt tên đường, Đảng giành giật phần mình.
Đây đường Lê Duẩn, kia đường Trường Chinh
Đường to đẹp Đảng giành phần dự trữ
*
Các tỉnh huyện, ổn định cùng lịch sử
Đảng hội vài ba điểm vào nhau
Cuộc “đoàn viên” chưa “ân ái” bao lâu
Rồi vẫn Đảng truyền ra lệnh tách.
Quá tùy tiện, Đảng làm theo sở thích
“Khắc khắc, nhập nhập” như trò chơi
Cuối cùng chỉ khổ sở Dân thôi
Còn ý Đảng, vẫn luôn luôn là đúng.
*
Ghế Đảng trị, quyết giữ cho bằng được
Đảng khóa xiềng vào Dân chủ, Tự do
Từ miền quê cho tới thành đô
Cấm ngôn luận, cấm tự do báo chí.
*
Đảng chúa ghét các nhà nghệ sĩ
Nhàn cư ngồi thóc mách lăng nhăng
Ai dũng cảm, đòi hỏi lẽ công bằng
Đảng biến tướng, “chính chuyên” bằng nhiều cách.
*
Về bàu cử Đảng tạo khuôn bằng sắt
Rất “tự do”, rất “dân chủ, khách quan”
Nhân danh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Duyệt danh sách, đưa người ra ứng cử.
*
Thế là “nguyên khí hiền tài” xứ sở
Đảng loại bỏ đi, rất “khéo”, rất “tình”.
Các đại biểu đều đồng chí của mình
Chẳng ai dám chỉ danh, xung khắc.
*
Quốc hội diễn trò, điều trần vấn đáp
Như chuyện xưa “Bài thơ Con cóc”
“Con cóc nhảy ra, con cóc nhảy vô”
Bầy cơ hội, cùng ra sức điểm tô!
*
Sáng đúng chiều sai, mai lại đúng!
Chống chân lý bằng lưỡi lê họng súng.
Đảng trượt theo vết xe đổ ngày xưa
Chuyện nghĩa tình chỉ “sớm nắng chiều mưa”.
Từ “Đồng chí” là mỹ từ vô nghĩa!
Đảng thấu không, dòng đời đang mai mỉa
Đảng lộng hành, đạp Dân Chủ dưới chân.
*
Nhớ một thời Đảng chiến đấu vì Dân.
Dân tộc đã nghiêng mình kính trọng.
Rồi gặp được khi như diều bay bổng
Đảng ngất ngây trong tiếng ngợi ca.
Hàng trăm tờ báo, vài triệu cái loa
Điệp khúc, điệp ca: Công ơn của Đảng.
*
Đảng say mê, dối lừa không nhàm chán
Xóa sao được, những tội lỗi gây nên!
Đạo lý Việt Nam “máu chảy ruột mềm”
Cải cách địa điền, người, cửa nhà tan tác
Dù Đảng đã chia vài ba miếng đất
Suốt mấy năm nghèo vẫn hoàn nghèo.
*
Nhóm “Nhân Văn” hỏi tội đáng bao nhiêu?
Đảng đày đọa bao cuộc đời chí sỹ.
Bao trí thức bắt giam thời chống Mỹ
Gán ghép “chống Đảng” tội tày trời
Lửa chiến tranh dẫu đã tắt lâu rồi
Sao ác tâm, cảnh nồi da nấu thịt!!!
*
Hai đảng bạn, đồng hành bao thân thiết
Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ Việt Nam
Vai sát kề vai, suốt mấy chục năm
Gắn bó thế! Hà cớ chi loại bỏ?!
“Chanh kiệt nước rồi, vứt luôn cái vỏ”
Bạn bè thủy chung, sao nỡ phản thùng!?
Nỗi đoạn trường càng lộn xộn lung tung
Sợ hậu họa, Đảng xuống tay, chấm hết….
*
Đêm đã khuya, trước khi dừng bút
Xin dùng câu của Gớt tặng cho đời
“Lý luận nào, rồi cũng xám bạn ơi,
Còn cây đời, vẫn xanh tươi mãi mãi”.
Xin được xếp vần thơ, dừng lại
Vài dòng chân, tôi gửi tặng cho đời
Thơ của tôi như tia nắng ban mai
Cộm mắt ai, nhưng không hề độc hại.
*
Ta biết ơn, khi Đảng còn vĩ đại
Còn hôm nay, cuộc đổi chác bán mua
Đừng biến mình thàng những chúa những vua
Mà thống trị dân đen, như thuở trước.
Đảng ngụy ngôn: “Có công giành Độc Lập”
Chức, Quyền, Tiền dân đã trả Đảng rồi
Nơi cung đình, đâu phải chợ trời
Dân hết nợ, Đảng cứ ngồi, cứ hưởng
Để trần gian, lại công hầu khanh tướng
Đảng một bên, Dân chịu nhục một bên.
*
Những luận cứu: Các Mác và Lê nin
Giờ xa lạ với Con Hồng Cháu Lạc!
So với Đảng, có súng bom bạo lực
Vần thơ tôi là vẫn điệu lương tâm
Tố Như ơi! Tôi sẽ đợi trăm năm
Rồi chân lý sáng ngời vào lịch sử!
*
Đảng của ngày xưa, Đảng là bất tử
Còn tương lai!? Phút mặc niệm, bắt đầu!
Trần Độ
Nguồn: Ba Sàm