Uyên Thao
|
Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại làng Câu Tử Ngoại, xã Hợp Thành, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ông gia nhập làng báo sau khi theo đội Thanh Niên Xung Phong vào
tiếp quản Hà Nội tháng 10-1954 với vai trò phóng viên cho tờ Tiền Phong. Thời
gian này, ông ký bút danh Tân Sắc và bắt đầu sáng tác văn nghệ, dù có lệnh cấm
nhà báo viết văn nên phải viết chui tức ký bút danh khác. Cái lệnh kỳ quái này
không cản được Bùi Ngọc Tấn sáng tác và ông đã gửi một truyện ngắn — Chị Trúc — dự thi giải văn nghệ của báo
Văn Nghệ. Truyện của ông được Tô Hoài khen hay nhưng không được in và tất nhiên
không được chấm giải, vì bị cho là nói đến những mất mát của chiến tranh “hơi quá liều lượng.” Tất nhiên sau đó
Bùi Ngọc Tấn phải điều chỉnh cách viết để có thể tiếp tục góp mặt trong sinh
hoạt văn nghệ nhưng đã cố giữ khoảng cách với “hàng ngũ nhà văn cung đình.”
Cuối năm 1959, ông chuyển về Hải Phòng làm biên tập viên báo Hải
Phòng Kiến Thiết, đồng thời tiếp tục viết văn và đã có một số tác phẩm được
xuất bản. Về khoảng thời gian này, trong một lần trả lời phỏng vấn, ông đã tâm
sự “chuyển về thành phố quê hương Hải
Phòng với ước mong thâm nhập công nông để viết được tác phẩm của đời mình.”
Chưa kịp viết tác phẩm ấy thì tháng 11-1968,
Bùi Ngọc Tấn bị tống vào tù với tội danh “tuyên
truyền phản cách mạng” trong vụ án “nhóm
xét lại chống Đảng, làm tay sai cho nước ngoài” có mặt các bạn ông như nhà
văn Vũ Thư Hiên, nhà điện ảnh Huy Vân, nhà báo Vũ Huy Cương, nhà báo Kỳ Vân...
dù Bùi Ngọc Tấn chưa bao giờ là đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam và không hề
biết cái tội mình bị quy kết kia mặt ngang mũi dọc ra sao. Từ đây, khúc ngoặt
cuộc đời Bùi Ngọc Tấn mở ra với bước khởi đầu là 5 năm sống trong các trại tù
mang mỹ danh “trại tập trung cải tạo.”
Đầu tháng 4-1973, đúng 2 tháng 7 ngày sau khi Hiệp Định chấm dứt
chiến tranh Việt Nam ký kết tại Paris, Bùi Ngọc Tấn được ra khỏi nhà tù. Tuy
nhiên, những ngày sống ngoài nhà tù lại u ám ghê hãi hơn cả cảnh sống giữa
những bức vách nhà tù — như ông ghi lại:
“Trong những năm tháng hậu tù thất nghiệp đi
bốc vác, kéo xe bò… thoi thóp kinh hoàng ấy, tôi có làm một cuộc khảo sát đời
sống: Ra đầu phố những giờ đi làm và tan tầm, nhìn những người đạp xe qua Ngã
Sáu và phát hiện một điều: Tất cả những người trên đường không một ai cười.
Giống nhau. Xam xám. Đăm chiêu. Đồng phục quần áo. Đồng phục mặt người ……
Khi tôi kêu lên: “Các ông ấy bần cùng hóa nhân dân ghê quá”,
Nguyên Bình nghiêm mặt bảo tôi: “Cuộc sống này gần với cuộc sống loài vật. Đâu
phải cuộc sống con người.”
Thực tế không dừng
tại đó.
Giữa cảnh đọa đầy đẩy con
người xuống ngang loài vật ấy, Bùi Ngọc Tấn lại chỉ được xếp vào hạng phó người — chính xác hơn là thua cả
loài vật. Cùng với những cực nhọc lam lũ do bị vây hãm bởi nhu cầu cơm áo trong
thân phận phó người sống bên lề xã
hội phải lao vào đủ loại việc mưu sinh khổ ải nhếch nhác là mạng lưới công an
mật vụ luôn vây bọc từng giờ từng phút. Bùi Ngọc Tấn không ngừng bị cách ly, bị
theo dõi, bị kiểm tra, bị dọa nạt… dưới nhiều hình thức khiến không tránh khỏi
mối ám ảnh luôn bị đeo bám bởi một “người
vô hình” : “… Ai cũng có một người vô
hình để mà trình bày, để mà sợ sệt và thầm cãi lại. Người vô hình luôn bên cạnh
mỗi người như hình với bóng, cả trong giấc ngủ …
Tôi thấy rợn hết cả người khi nghĩ đã có mấy
thế hệ theo dõi tôi, săn đuổi tôi, vu cáo tôi. Họ đã già đi. Đã về nghỉ, hưu
trí an nhàn. Nhiều người đã chết. Một thế hệ khác tiếp tục việc theo dõi. Rồi
một thế hệ tiếp theo nữa. Đời này sang đời khác.
Tất cả đều là Gia-ve. Những Gia-ve với lòng dạ
đen tối, không phải tìm sự thật mà chỉ nhăm nhăm hãm hại người lương thiện…”
Cuộc sống không còn là cuộc sống mà
chỉ là sự tồn tại.
Ý nghĩa duy nhất về sự tồn tại của
bản thân với Bùi Ngọc Tấn thời kỳ này là “sống
vì những đứa con.” Nhưng mục đích này cũng không dễ theo đuổi vì toàn bộ
gia đình thân thuộc của lớp phó người
đều phải gánh chung thân phận phó người.
Những đứa trẻ ngây thơ vô tội kể cả đứa chỉ mở mắt chào đời khi người cha đã bị
đưa vào tù vẫn bị ngăn trở mọi sinh hoạt, kể cả việc cắp sách tới trường …
khiến luôn thúc đẩy những cơn tự dằn vặt rồi bùng sôi phẫn nộ : …Tôi càng thấm thía tội lỗi làm bố của mình.
Chỉ vì tôi. Chỉ vì tôi nên con tôi có thể thất học… Người tôi sôi lên. Hỡi bọn
chó đểu kia. Chúng mày làm gì tao thì làm, bỏ tù lại tao cũng được. Nhưng đừng
triệt hạ con tao!!”
May mắn duy nhất
với Bùi Ngọc Tấn là không thể từ bỏ cây bút, dù cầm bút là chuyện thiên nan vạn
nan. Vì thế kiếp sống phó người đã
hiện thành những trang sách để cuối cùng góp mặt với cái tên Chuyện Kể Năm 2000. Đây là tác phẩm được
Bùi Ngọc Tấn khởi viết từ cuối năm 1990 sau hơn 20 năm rời xa chữ nghĩa và tiếp
tục hoàn chỉnh gần 10 năm cho tới khi có cơ hội ấn hành vào đầu năm 2000. Thế
nhưng ngay khi vừa in xong, tác phẩm đã bị gom lại ghiền nát, ngâm thành bột “như thi hành án một tội phạm tử hình với
khâu cuối cùng là bác sĩ khám nghiệm tử thi và chôn cất.” Riêng tác giả
chưa kịp hưởng “niềm vui trúng số” vì
tác phẩm được chào đời đã phải nai nịt và ngụy trang mỗi khi ra đường vào thời
điểm đó: “… Mũ Nin-da, thứ mũ có lưỡi
trai, trùm kín đầu kín tai kín mặt, xuống tận cổ, chỉ để hở hai con mắt. Rất
lợi hại... Trùm vào ấm đã hẳn, người ta lại còn không biết mình là ai. Chưa kể
nó bảo vệ mặt tránh được những ca át-xít… Cái cảm giác có đuôi ngày nào trước
khi bị bắt năm 1968 lại phả hơi lạnh, hơi bẩn sau gáy.”
Hậu Chuyện Kể Năm 2000 ghi lại nhiều diễn biến quanh tác phẩm Chuyện Kể Năm 2000 từ các đoạn đường hoàn thành tới khi tác phẩm
chào đời và những ngày kế tiếp. Tựa đề đầu tiên của Hậu Chuyện Kể Năm 2000 là Thời
Biến Đổi Gien được Hoàng Hưng diễn giải là “Một thời đại ghê gớm trên quê hương chúng ta mà cái “gien” NGƯỜI đã bị
biến đổi đến thảm hại!”
Đó là thời đại
quét sạch mọi quyền sống căn bản của con người buộc toàn thể xã hội luôn cúi
đầu quỳ gối tôn thờ những kẻ thủ đoạt quyền lực — thời đại mà hết thẩy người
dân không được phép có một hành vi, một ý nghĩ nào khác ngoài việc tự biến
thành công cụ phục vụ ý đồ của kẻ thủ đoạt quyền lực được coi là tín ngưỡng tối
cao độc nhất vô nhị. hưng những dòng hồi ức Hậu
Chuyện Kể Năm 2000 cho thấy mọi thủ đoạn bất nhân, mọi chủ trương tàn ác
không hoàn toàn đáp ứng đúng tham vọng của kẻ thủ đoạt quyền lực. Qua những
điều gần như vụn vặt nhỏ nhoi nhất trong cuộc sống, tình người vẫn luôn vươn
lên bằng mọi cách thuộc mọi lúc và ở mọi nơi.
Vợ con người tù
tới thăm mộ chồng không dám cất tiếng khóc vì đã có lệnh cấm khóc, nhưng không
lệnh nào có thể cấm được nỗi đau dâng lên trong trái tim họ. Cũng không có lệnh
nào hỗ trợ nổi cho các luận điệu dối trá nói trắng thành đen để buộc mọi người
phải đặt trọn niềm tin vào những điều vu cáo.
Sự câm lặng của
người vợ và những đứa con trước mộ chồng, mộ cha cũng như những cái gật đầu của
đám đông trước các luận điệu dối trá chỉ biểu tỏ một tâm thế chịu đựng nhất
thời trong khi sức sống của tình người hướng về thương yêu, hướng về sự thật
luôn kiên trì tồn tại với độ nóng có thể còn vượt mức độ bình thường.
Chính vì thế, cuốn sách bị kết án tử hình, bị ghiền thành bột đã
lập tức phát tán khắp nơi qua mọi hình thức và được truyền tay từ người này
sang người khác với số lượng khó thể ước đoán. Thêm nữa, những dòng hồi ức Hậu Chuyện Kể Năm 2000 đã ghi rõ tên
tuổi từng người liên hệ tới mọi chuyện kể. Điều này không chỉ diễn tả tấm lòng
tôn vinh sự thật mà còn cho thấy thái độ bất chấp mọi chủ trương trấn áp, mọi
thủ đoạn bạo hành — thái độ bất khuất của ý chí kiên trì sự sống đúng nghĩa.
Năm 2012 tại Paris vào dịp Festival Livre Et Mer trao tặng giải
thưởng cho tác phẩm Biển Và Chim Bói Cá
của Bùi Ngọc Tấn, nhà văn kiêm kịch sĩ Francois Bourgeon đã phát biểu : “… Từ khi lập ra giải thưởng này, tác phẩm
của Bùi Ngọc Tấn đã hoàn toàn làm chúng tôi thoả mãn. Tác giả là người Việt
Nam. Bùi Ngọc Tấn tặng cho chúng ta một cuốn tiểu thuyết nhân văn… Bùi Ngọc Tấn
biết cái giá của tự do. Tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn là một tác phẩm không thể
quên. Thậm chí có lẽ là… một tác phẩm làm cho ta tốt hơn.”
Dù chỉ nêu nhận định về tác phẩm Biển Và Chim Bói Cá, nhưng Francois
Bourgeon đã cho thấy cái nhìn bao quát về thế giới chữ nghĩa của Bùi Ngọc Tấn
trong đó không thể vắng tác phẩm Hậu
Chuyện Kể Năm 2000. Và có thể nói kết luận của Francois Bourgeon về “một tác phẩm làm cho ta tốt hơn” càng
chính xác khi dành cho Hậu Chuyện Kể Năm
2000 tức Thời Biến Đổi Gien.
Bởi Hậu Chuyện Kể Năm 2000 không chỉ phác họa trung thực chân dung “ba kiếp sống” của những thế hệ nạn nhân
Việt Nam trong thời đại quyền lực độc tôn mặc tình tác ác mà đã cho thấy ý chí
bất khuất và sức sống phi thường của tình người qua vô số diễn biến cụ thể
trong cuộc sống thường ngày đang quằn quại dưới đủ mọi thủ đoạn bất nhân tàn
khốc. Những dòng hồi ức của Bùi Ngọc Tấn qua Hậu Chuyện Kể Năm 2000 đã dựng lên hình ảnh một chân trời yêu
thương đầm ấm với âm hưởng lời ca thúc đẩy những bước chân dũng cảm kiên trì
vươn tới chân trời ấy để “làm cho ta tốt
hơn” — như cảm nghĩ của Francois Bourgeon — hầu đạt tới cuộc sống tốt đẹp
hơn.
UYÊN THAO