LÝ
ĐĂNG THẠNH
Từ tháng 8-1945, cục diện Đông Dương nổi bật lên sự
kiện những người bản xứ đứng lên giành được chính quyền trong một thời gian
ngắn ngủi mong làm chủ vận mệnh của mình, nhưng cũng từ đó, xứ sở này do sự an
bài khắc nghiệt của Thượng đế, chìm hẳn trong những cuộc chiến tranh tàn khốc
nối tiếp nhau suốt nửa thế kỷ dài đăng đẳng. Đông Dương trở thành một hỏa ngục
nhớp nháp tanh tưởi và khét lẹt mùi máu tươi, bùn lầy, xác chết, là đấu trường
tranh giành ảnh hưởng và thể nghiệm sức mạnh của hai thế lực kình chống nhau
quyết liệt. Dân chúng Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng bị thời cuộc
lôi cuốn chia thành hai phe đặt dưới sự điều khiển của hai thế lực, một bên là
Nga Xô-Trung Cộng, một bên là Pháp rồi sau đó là Mỹ.
Trước năm 1945, hầu như ít có mấy ai trên thế giới
biết đến xứ sở Đông Dương và những vùng đất xa lạ Việt Nam, Lào, Cambodia.
Nhưng từ Đệ nhị thế chiến trở đi, những địa danh này là tiêu biểu cho chiến
tranh tàn sát, là những mưu mô sắp đặt, là những hy vọng loé lên rồi nhanh
chóng bị tan vỡ, là hỏa ngục, là lò sát sinh, là đói nghèo, tủi nhục, đau khổ
triền miên tột cùng và bao trùm lên tất cả, số phận xứ sở Đông Dương trở thành
những ván cờ phụ thuộc hoàn toàn vào sự điều khiển của bên ngoài, của thời
cuộc. Những mỹ từ độc lập, tự do, hạnh
phúc... chỉ là những cái bánh vẽ sống sượng, nhào nặn từ thây ma, máu
xương, mồ hôi, nước mắt hàng triệu dân lành.
Vào thời kỳ 1945-54, lực lượng bản xứ Đông Dương có
hai phái tranh đấu độc lập khác nhau. Phái cộng sản sử dụng việc tranh đấu
giành độc lập, cướp chính quyền để truyền bá chủ nghĩa cộng sản, được sự hậu
thuẫn và chỉ đạo của Liên Xô, Trung Cộng và phái quốc gia tranh đấu độc lập để
xây dựng đất nước theo mô hình các nước tư bản Âu Mỹ. Phái cộng sản buổi đầu
tranh đấu với Pháp bằng chính trị qua các hiệp định sơ bộ 6-3-1946, tạm
ước 14-7-1946, rồi đến thời kỳ dùng võ
lực 1946-54. Phái quốc gia tranh đấu với Pháp bằng chính trị và thỏa hiệp, qua
các hiệp định từ 1948 đến 1953. Cuối năm 1954, cả hai phái đều thành công nhưng
đất nước cũng lâm vào tình trạng chia cắt không thống nhất, vì miền Bắc do cộng
sản kiểm soát, trong khi miền Nam do lực lượng quốc gia kiểm soát.
I- Thời kỳ chế độ quân quản Pháp (1945-46)
1- Quân
Pháp khôi phục quyền kiểm soát Đông Dương
Thời kỳ chế độ quân quản Pháp diễn ra từ ngày
13-9-1945 đến 30-5-1946.
Từ 6-9-1945, quân Pháp chính thức theo chân quân Anh
trở lại miền Nam Đông Dương, rồi đến 23-9-1945 tấn công các lực lượng đối kháng
Việt Nam mong độc chiếm Đông Dương, tái lập bộ máy cai trị quân sự tại các địa
phương.
Đến đầu tháng 2-1946, đại tướng Leclerc tuyên bố công
việc bình định miền Nam Việt Nam đã xong, vì chỉ trừ từ Đèo Cả đến Tourane
thuộc ranh vĩ tuyến 16, còn thì bao nhiêu tỉnh lỵ, phần lớn quận lỵ và các trục
giao thông từ Đèo Cả đến Cà Mau và phần lớn Cao nguyên Trung phần đều bị quân
Pháp chiếm đóng và lập lại dần các cơ quan hành chính.
Lúc đó ý định của Pháp là thành lập Liên bang Đông
Dương thuộc Liên hiệp Pháp gồm 5 nước cộng hòa tự trị: Bắc Việt, Trung Việt,
Nam Việt, Lào, Cambodia. Nhưng Bắc vĩ tuyến 16 đang do cộng sản Việt Minh và
quân Trung Hoa Tưởng Giới Thạch kiểm soát nên việc thành lập Cộng hòa Bắc Việt
và Trung Việt chưa thể thực hiện, Pháp liền ráo riết thành lập Cộng hòa Nam
Việt, Cộng hòa Cambodia, Cộng hòa Lào.
Ngày 16-10-1945, tướng Leclerc dẫn 5.000 quân chiếm
Phnom Penh, khôi phục lại Chính phủ hoàng gia Cambodia. Ngày 7-4-1946, Pháp và
Hoàng gia Cambodia ký hiệp định xác nhận Vương quốc Cambodia thuộc Liên hiệp
Pháp.
Tháng 3-1946, Pháp tổ chức hai cánh quân từ Việt Nam
sang tái chiếm Lào, đưa quốc vương Sisavang Vong trở lại ngôi cũ. Quốc vương
Lào tuyên bố chấp nhận nằm trong Liên hiệp Pháp.
Đầu năm 1946, song song với việc tìm cách trở lại Bắc
Việt, người Pháp xúc tiến thành lập Chính phủ Cộng hòa Nam Kỳ.
2- Sách
lược cai trị của Pháp thời kỳ 1945-46
Cuối năm 1945 khi trở lại Đông Dương, Pháp sử dụng lại
những thành phần cũ như quan lại, công chức, hương chức kỳ hào, cựu binh thuộc
địa, để nhanh chóng tái lập chính quyền thân Pháp chống Việt cộng và các lực
lượng kháng chiến khác. Những thành phần này từng bị Việt cộng nghi kỵ và trả
thù tàn bạo trong thời kỳ 1945-47, nên đã cộng tác đắc lực với Pháp chống cộng.
Pháp cũng khôi phục lại lực lượng quân đội bản xứ. Tuy
nhiên, do lúc đầu dễ dàng đánh bại quân Việt cộng (1945-46), nên lãnh đạo Pháp
chỉ sử dụng lực lượng chủ yếu là các đơn vị Pháp, mà không chủ trương tổ chức
một đội quân chính quy bản xứ. Pháp chỉ tập hợp lại các cựu binh thuộc địa và
tuyển thêm một số tân binh, lập ra các đơn vị Phụ lực quân, chuyên đảm những
nhiệm vụ phụ dịch.
Pháp tin tưởng binh đội của mình có thể chiến thắng
Việt cộng dễ dàng, nên chỉ chú trọng vấn đề chính trị với dân bản xứ bằng cách
thu phục bằng quyền lợi và đãi ngộ những nhân vật có uy thế. Pháp muốn tiếp tục
tạo nên một thế lực chính trị thân Pháp dưới hình thức chia để trị. Chẳng hạn
như Pháp muốn biến xứ Nam Kỳ thành một nước tự trị, bên cạnh Bắc Kỳ và Trung
Kỳ; biến miền Cao nguyên Trung Việt thành xứ Tây Kỳ, miền Móng Cáy thành xứ
Nùng, miền Lai Châu thành xứ Thái; trên đất Lào vẫn tồn tại các chính quyền
Luang Phrabang, Vientiane, Champasak riêng biệt.
Tại những vùng đất này, để tăng thêm màu sắc chính trị
địa phương với nhiều hứa hẹn ưu đãi quyền lợi, Pháp đã đặt ra những biểu trưng
riêng biệt nhằm tách rời các miền lãnh thổ. Hiệu kỳ của Nam Kỳ tồn tại không
lâu, nhưng hiệu kỳ các xứ Thái, Nùng tồn tại đến tận năm 1954. Hiệu kỳ xứ Thái
là lá cờ tam tài Pháp với ba màu đỏ, trắng, xanh, và một ngôi sao sáu cánh trên
phần nền trắng tiêu biểu cho sáu bộ lạc. Hiệu kỳ xứ Nùng là lá cờ tam tài và
trên phần nền trắng có chiếc thuyền buồm Trà Cổ để kỷ niệm người Nùng địa
phương đã theo quân Pháp chiếm xứ Trà Cổ, Cô Tô, Cát Bà năm xưa.
Từ cuối năm 1945, lực lượng kháng chiến chống Pháp gồm
nhiều lực lượng thuộc các đảng phái, tôn giáo khác nhau, cùng tham gia Chính
phủ liên hiệp kháng chiến. Tuy nhiên sau khi Việt cộng tiêu diệt các thành phần
đối lập để nắm quyền độc tôn đảng trị, thì lực lượng kháng chiến quốc gia phân
chia thành bốn xu hướng. Một số vẫn tiếp tục ở lại trong hàng ngũ Việt Minh vì
chưa thể thoát đi được. Một số di tản ra nước ngoài để tránh bị tiêu diệt và
tìm kiếm đường lối mới. Một số tiếp tục chống Pháp và chống Việt cộng nhưng
luôn ở vào tình thế cực kỳ nguy hiểm. Một số phải nương tựa vào Pháp để cùng chống kẻ thù nguy hiểm nhất là
Việt cộng.
3- Các
hội đồng chính trị ở ba phần Việt Nam
Ngày 4-2-1946, Hội đồng Tư vấn Nam Việt được thành
lập, gồm 12 ủy viên, trong đó có 4 người Pháp (Béziat, Bazé, Clogne, Gressier)
và 8 người Việt (Lê Văn Định, Nguyễn Tấn Cường, Nguyễn Thành Lập, Nguyễn Văn
Thạch, Nguyễn Văn Thinh, Nguyễn Văn Tỵ, Trần Tấn Phát, Trần Thiện Vàng), để
giúp cao ủy Pháp tại Đông Dương trong việc cai trị dân sự vùng Nam Việt. Ngày
12-2-1946, cao uỷ DArgenlieu phê chuẩn danh sách Hội đồng Tư vấn Nam Việt.
Sau khi đưa quân ra Bắc Đông Dương thay thế quân Tưởng
Giới Thạch, ngày 2-4-1946, cao ủy DArgenlieu ký nghị định chuẩn y danh sách Hội
đồng An dân Bắc Việt lâm thời (comité provisoire de gestion administrative et
d'action sociale) và đến 6-4-1946 là Hội đồng Chấp chánh lâm thời Trung Việt
(comité administratif provisoire). Mỗi Hội đồng cũng có 4 người Pháp và 8 người
Việt.
Hội đồng Chấp chánh Trung Việt gồm: Trần Văn Lý (chủ
tịch), Trần Thanh Đạt...
Hội đồng An dân Bắc Việt gồm: Hoàng Cơ Bình, luật sư
Lê Quang Luật, Trần Trung Dung...
4- Các
viên chức Pháp cai trị toàn Đông Dương
Bộ máy cai trị toàn Đông Dương lúc này (1945-1946)
theo chế độ quân quản, đứng đầu là cao ủy DArgenlieu và các tướng Leclerc,
Valluy, Pignon trong Bộ tư lệnh Quân lực Pháp tại Đông Dương, đại tá Jean
Cédille (ủy viên Cộng hòa Pháp tại Nam Việt), đại tá Jean Sainteny (ủy viên
Cộng hòa Pháp tại Bắc Việt) và các ủy viên Cộng hòa tại Trung Việt, Lào,
Cambodia.
Các cao
ủy (high commissioners) Pháp tại Đông Dương từ 1945 đến
1956 gồm có
- Georges Thierry d'Argenlieu (1889-1964): từ
31-10-1945 đến 1-4-1947.
- Émile Bollaert (1890-1978): từ 1-4-1947 đến
11-10-1948.
- Léon Pignon (1908-1976): từ 20-10-1948 đến
17-12-1950.
- Jean de
Lattre de Tassigny (1889-1952): từ 17-12-1950 đến 11-1-1952.
- Jean
Letourneau (1907-1986): từ 1-4-1952 đến 27-4-1953.
Từ
27-4-1953, khi chủ quyền các nước tại Đông Dương được khôi phục, thì người đại
diện Chính phủ Pháp tại Đông Dương gọi là tổng
uỷ viên (commissioners-general), với
- Jean
Letourneau : tiếp từ 27-4-1953 đến 28-7-1953.
-
Maurice Dejean (1899-1982): từ 28-7-1953 đến 10-4-1954.
- Paul
Ély (1897-1975): từ 10-4-1954 đến tháng 4-1955.
- Henri Hoppenot (1891-1977): từ tháng 4-1955 đến
21-7-1956.
5- Các
đảng phái chính trị ở Nam Việt đẩy mạnh hoạt động
Sau khi Pháp ký với Việt Minh hiệp định sơ bộ
6-3-1946, ngày 9-3-1946 Hội đồng Tư vấn Nam Việt ra tuyên bố không bị ràng buộc
bởi hiệp định sơ bộ và nhân dân miền Nam Việt Nam có quyền tự do lựa chọn qui
chế chính trị không cộng sản và bác bỏ sự cai trị của chính phủ Việt Nam dân
chủ cộng hòa với miền Nam Việt Nam. Lúc đó, ở Sài Gòn và Nam Việt Nam ngoài các
lực lượng kháng chiến Việt Minh, Hoà Hảo, Cao Đài, Đông Dương có những phái
chính trị công khai:
- Liên hiệp
những người Pháp bênh vực sự nghiệp Pháp ở Đông Dương (UDOFI): của giới
công tư chức Pháp chủ trương thành lập Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp
Pháp.
- Đảng Nam Việt
(Parti Cochinchinois): do Nguyễn Tấn Cường thành lập tháng 10-1945.
- Đảng Đông
Dương tự trị (Indochine Autonome): do Nguyễn Văn Tỵ thành lập tháng
10-1945.
- Đảng Việt Nam
phục hưng : do Ngô Đình Diệm và Nguyễn Đệ thành lập ngày 25-12-1942. Tháng
9-1945, Ngô Đình Diệm cùng một số đồng chí từ Sài Gòn ra Hà Nội liên lạc với
các lãnh tụ công giáo ở Bắc bộ, định thuyết phục Bảo Đại không hợp tác với Việt
cộng và tìm cách giải cứu Bảo Đại. Nhưng Diệm bị Việt cộng bắt giữ tháng đầu
tháng 12-1945 khi đang ở một vùng đạo thuộc miền thượng du gần biên giới
Việt-Hoa. Giám mục Lê Hữu Từ, linh mục Phạm Quang Hàm và đại biểu Quốc hội Ngô
Tử Hạ lập tức đến gặp Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp xin thả Diệm. Lãnh đạo Việt
cộng thấy trước đó đã bắt giết hai cha con Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân, nhưng
sau đó bị lực lượng Công giáo phản đối dữ dội, nên lần này muốn hòa hoãn để
tranh thủ sự ủng hộ của thế lực Công giáo và qua Công giáo kéo dài thời gian
hòa hoãn với Pháp trong khi chuẩn bị chiến tranh, đồng thời cho rằng Diệm đã
từng phản đối Pháp và không nguy hiểm, vì thế đến tháng 6-1946, Minh và Giáp ra
lệnh đưa Diệm về Hà Nội và thả ra.
- Giáo hội Cao
Đài : Tháng 8-1946, hộ pháp Cao Đài Phạm Công Tắc về nước sau năm năm bị
lưu đày ở Madagasca. Hộ pháp Phạm chủ trương hợp tác với Pháp chống cộng sản.
Ngày 12-11-1946, hộ pháp Phạm Công Tắc và tư lệnh Lực lượng võ trang Cao Đài
Trần Quang Vinh ủng hộ bác sĩ Lê Văn Hoạch làm thủ tướng Nam kỳ sau khi thủ
tướng Thinh bị ám sát.
- Giáo hội Phật
giáo Hòa Hảo.
- Mặt trận Bình
dân Nam Việt (FPC): vận động thành lập nước Cộng hòa Nam Việt có quyền tự
trị trong Liên bang Đông Dương giống như Bắc, Trung, Lào, Cambodia. Mặt trận do
Nguyễn Tấn Cường và bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, nguyên chủ tịch Đảng Dân chủ Đông
Dương, chủ tịch Cục Mễ cốc thành lập tháng 10-1945. Mặt trận có cơ quan ngôn
luận là báo Tiếng Gọi và báo Phục Hưng do ký giả Hiền Sĩ phụ trách.
- Phong trào
Bình dân Nam Việt (MPC): chủ trương thực hành một xã hội chủ nghĩa phi mác xít, chủ yếu đấu tranh cải thiện đời sống
dân chúng lao động và cải cách ruộng đất bằng hình thức truất hữu đại điền chủ
để hữu sản hóa nông dân, phát triển Cộng hòa Nam Việt trong khuôn khổ Liên bang
Đông Dương nhưng độc lập tách khỏi Liên hiệp Pháp.
- Mặt trận Quốc gia liên hiệp : gồm các
trí thức, giáo chức, ký giả... do Nguyễn Văn Sâm làm chủ tịch, có báo Đuốc Nhà
Nam làm cơ quan ngôn luận, đấu tranh trực diện với Pháp để đòi độc lập và thống
nhất cho Việt Nam, đồng thời chống lại cộng sản (nhưng sau đó nhiều thành viên
Mặt trận Quốc gia liên hiệp bị Việt Minh ám sát).
- v.v…
II- Thời kỳ các thủ tướng Nguyễn Văn Thinh, Phan Văn
Giáo, Nghiêm Xuân Thiện Ở BA MIỀN
1-
Thành lập Cộng hòa tự trị Nam Kỳ
Ngày 7-3-1946, Hội đồng Tư vấn Nam Việt họp phiên đầu
tiên, bàn việc chọn thủ tướng và thành lập Chánh phủ lâm thời. Ngày 26-3-1946,
Hội đồng tuyên bố thành lập Cộng hòa tự trị Nam Kỳ (République autonome de
Cochinchine) và cử bác sĩ Nguyễn Văn Thinh (1884-1946) làm thủ tướng.
2-
Chính trị Đông Dương mùa hè 1946
Từ cuối tháng 3-1946, Việt cộng ở Nam bộ được lệnh từ
trung ương ra sức chống lại ý đồ thành lập các cộng hòa liên hiệp. Trong hồi
ký, Trần Văn Giàu kể lại: Từ cuối
tháng 3-1946, ta (cộng sản Việt Minh) phát triển một đợt khủng bố đại qui mô, những người khủng bố không
nhiều lắm, nhưng lén lút có mặt bất ngờ nhiều nơi, cho nên mọi ý muốn ngã về
với Pháp đều tan biến mất. Ai hợp tác với Pháp bị ta gọi là Việt gian và coi
như người đó đã lãnh án tử hình rồi vậy. (...)
Ta tổ chức ám sát hai tên Hội đồng Tư vấn Nam
Việt là Trấn Tấn Phát và Nguyễn Văn Thạch, làm cho bọn tập tểnh làm tổng
trưởng, làm họi đồng phải co đầu rút cổ. (Trần
Văn Giàu - Địa chí văn hóa TP. HCM,
1987). Bộ trưởng Lê Văn Hoạch cũng bị Việt Minh phục kích ở ngã ba Trung Lương
(Mỹ Tho) nhưng may không chết. Ký giả Hiền Sĩ, chủ nhiệm báo Phục Hưng của Mặt
trận Bình dân, bị mật vụ cộng sản ám sát trước chợ Bến Thành.
Ngày 22-4-1946, Hội đồng An dân Bắc Việt cử Nghiêm
Xuân Thiện làm thủ tướng lâm thời Cộng hòa Bắc Việt. Ngày 24-4-1946, Hội đồng
Chấp chính Trung Việt cử Phan Văn Giáo làm thủ tướng lâm thời Cộng hòa Trung
Việt. Như vậy, cho đến tháng 4-1946, ý đồ thành lập Liên bang Đông Dương của
DArgenlieu đã hoàn thành bước đầu gồm có:
- Vương quốc Cambodia thành lập được Chính phủ hoàng
gia Vương quốc Cambodia, do quốc vương Norodom Shihanouk và thủ tướng Penn
Nouth đứng đầu, bên cạnh có Hội đồng Tư vấn Cambodia gồm 4 người Pháp, 8 người
Cambodia, do ủy viên chính trị cộng hòa Pháp đứng đầu.
- Vương quốc Lào thành lập được Chính phủ hoàng gia
Vương quốc Lào, do quốc vương Sisavong Vang và thủ tướng Kindavong đứng đầu,
bên cạnh có Hội đồng Tư vấn gồm 4 người Pháp, 8 người Lào, do ủy viên chính trị
cộng hòa Pháp đứng đầu.
- Cộng hòa Nam Việt (Nam Kỳ) thành lập được Chánh phủ
lâm thời, do thủ tướng lâm thời Nguyễn Văn Thinh đứng đầu, bên cạnh có Hội đồng
Tư vấn gồm 4 người Pháp, 8 người Việt, do ủy viên chính trị cộng hòa Pháp đứng
đầu.
- Cộng hòa Trung Việt thành lập được Chánh phủ lâm
thời, do thủ tướng lâm thời Phan Văn Giáo đứng đầu, bên cạnh có Hội đồng Chấp
chính lâm thời gồm 4 người Pháp, 8 người Việt, do ủy viên chính trị cộng hòa
Pháp đứng đầu.
- Cộng hòa Bắc Việt thành lập được Chính phủ lâm thời,
do thủ tướng lâm thời Nghiêm Xuân Thiện đứng đầu, bên cạnh có Hội đồng An dân
lâm thời gồm 4 người Pháp, 8 người Việt, do ủy viên chính trị cộng hòa Pháp
đứng đầu.
Lúc đó, để phản đối ý đồ cai trị độc quyền và hà khắc
của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 27-4-1946, ba chánh phủ Cộng hòa
Nam Việt, Bắc Việt họp tại Sài Gòn, ra tuyên bố không chấp nhận sự cai trị của
Chính phủ cộng sản Việt Nam dân chủ cộng hòa. Một số người quá khích trong Liên
đoàn UDFI và Mặt trận Bình dân Nam Việt còn tổ chức biểu tình ở Sài Gòn vào
tháng 6-1946 nêu khẩu hiệu: Xứ Nam
kỳ của người Nam kỳ, Nam Việt không chấp nhận độc tài cộng sản cai trị.
3- Chánh
phủ Cộng hòa Nam Kỳ - Nội các Nguyễn Văn Thinh
Từ 17-4-1946, hội nghị trù bị Đà Lạt giữa Chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hòa với Pháp đang bàn cãi chưa đi đến kết quả nào, thì
cao ủy DArgenlieu muốn phá vỡ sự thỏa hiệp với Việt Minh để nhanh chóng hoàn
thành việc thành lập Liên bang Đông Dưong theo mô hình Charles De Gaulle nên
tìm cách phá hội nghị. DArgenlieu hậu thuẫn cho đại tá Nguyễn Văn Xuân, phó thủ
tướng lãnh thổ Nam Việt dẫn đầu một phái đoàn nhân sĩ Việt Nam sang Paris ráo
riết vận động Pháp công nhận và hậu thuẫn.
Ngày 16-5-1946, Quốc hội Pháp thông qua nghị quyết
công nhận Cộng hòa Nam Kỳ, để cùng các cộng hòa Trung Việt, Bắc Việt, Lào,
Cambodia lập thành Liên bang Đông Dương.
Ngày 16-5-1946, phái đoàn Nguyễn Văn Xuân về tới Sài
Gòn. Sáng 2-6-1946, Chánh phủ Cộng hòa Nam Kỳ làm lễ ra mắt tại nhà hát lớn Sài
Gòn.
Nội các thủ tướng Nguyễn Văn Thinh cầm quyền từ ngày
1-6 đến 10-11-1946.
- Thủ tướng kiêm bộ trưởng Bộ Nội vụ: bác sĩ Nguyễn
Văn Thinh.
- Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Bộ Quân đội quốc gia:
đại tá Nguyễn Văn Xuân.
- Đổng lý văn phòng Chính phủ: Hồ Văn Trung (Hồ Biểu
Chánh).
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp: Trần Văn Tỷ.
- Bộ trưởng Bộ Công chánh: Lương Văn Mỹ.
- Bộ trưởng Bộ Tài chánh: Nguyễn Thành Lập.
- Bộ trưởng Bộ Canh nông-thương mại-kỹ nghệ: Ung Bảo
Toàn.
- Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục: Nguyễn Thành Giung.
- Bộ trưởng Bộ An ninh: Nguyễn Văn Tâm.
- Bộ trưởng Bộ Lao động và xã hội: Khương Hữu Long.
- Thứ trưởng Công an đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn: Nguyễn
Tấn Cường.
- Các thứ trưởng: Đỗ Văn Trà, Nguyễn Văn Tân, Trần Văn
Kiết.
4- Hiệp
ước Sài Gòn 1946
Ngày 3-6-1946, thủ tướng Nguyễn Văn Thinh và ủy viên
cộng hòa Pháp Cédille ký bản hiệp ước Sài Gòn 1946 qui định:
- Cộng hòa Nam Kỳ là một
nước tự do, có chánh phủ, nghị viện, quân đội và tài chánh riêng.
- Cộng hòa Nam Kỳ cùng
với Bắc Việt, Trung Việt, Lào, Cambodia nằm trong Liên bang Đông Dương và Liên
hiệp Pháp.
- Chánh phủ Cộng hòa Nam
Kỳ sẽ do Hội đồng Tư vấn bầu ra, có quyền ban hành các nghị định, nhưng phải
thông qua ủy viên cộng hòa.
- Về trật tự trị an trong
xứ, nếu thấy cần thiết có thể nhờ quân đội Pháp hỗ trợ.
- Ủy viên chánh trị Cộng
hòa Pháp sẽ là cố vấn của Chánh phủ Nam
Kỳ. Trong các cuộc họp Chánh phủ, ủy viên cộng hòa Pháp có thể đến tham dự nếu
được Chánh phủ yêu cầu.
Từ đó, với sự cố vấn của ủy viên cộng hòa Pháp Cédille
và Hội đồng Tư vấn Nam Việt, Chánh phủ Cộng hòa Nam Kỳ đảm trách điều hành mọi công
việc dân sự ở Nam Việt Nam.
Tuy nhiên ngay khi phái đoàn Nguyễn Văn Xuân vừa về
đến Sài Gòn 26-5-1946 thì ngay hôm sau, 27-5-1946, tại Paris, tổng thống Pháp
Vincent Auriol lại ra sắc lệnh thành lập Liên bang các dân tộc thiểu số miền
Nam Đông Dương do Tòa ủy viên cộng hòa thuộc Pháp phụ trách, gồm các tỉnh
Daklak, Đồng Nai Thượng (Bảo Lộc), Lâm Viên (Đà Lạt), Pleiku, Kontum, nhằm thực
hiện tham vọng tách rời vùng cao nguyên Trung phần ra khỏi Việt Nam. Cùng với ý
định đó, tổng thống Pháp cũng thành lập xứ Mường tự trị, xứ Thái tự trị, xứ
Nùng tự trị ở Bắc Việt.
5- Hội
nghị thành lập Liên bang Đông Dương ở Đà Lạt
Trong khi hội nghị Fontainebleau giữa Pháp và Việt
Cộng đang bế tắt, thì cao ủy DArgenlieu triệu tập Hội nghị thành lập Liên bang
Đông Dương ở Đà Lạt dự định bắt đầu từ 23-7-1946. Thành phần triệu tập tham dự
hội nghị gồm các đoàn Pháp, Cambodia, Lào, Nam Việt, Bắc Việt, Trung Việt, Tây
nguyên, xứ Mường tự trị, xứ Thái tự trị, xứ Nùng trự trị. Nhưng đại diện Bắc
Việt và Trung Việt là Nghiêm Xuân Thiện và Phan Văn Giáo tuyên bố tẩy chay hội
nghị để phản đối ý đồ thành lập các vùng dân tộc tự trị ở Trung và Bắc Việt.
Cuối cùng, đến 1-8-1946, hội nghị Đà Lạt mới khai mạc
được với sự tham dự của các phái đoàn Pháp, phái đoàn Cambodia (do quốc vương
Sihanouk dẫn đầu), phái đoàn Lào (do thái tử Savang Vatthana dẫn đầu), phái
đoàn Cộng hòa Nam Kỳ (do phó thủ tướng Nguyễn Văn Xuân dẫn đầu), đoàn bộ tộc
Chàm (do Lưu Ái dẫn đầu), phái đoàn Cao nguyên Thượng (do tù trưởng Ede là Ma
Krong và bác sĩ Djac Ayun dẫn đầu). Do lo ngại nước Cao nguyên Thượng mới sẽ có
yêu sách với lãnh thổ của mình, nên Lào và Cambodia cũng đồng ý với Nguyễn Văn
Xuân là phản đối ý định của Pháp thành lập thêm một nước cộng hòa Cao nguyên
Thượng trong Liên bang Đông Dương. Cuối cùng, cao ủy DArgenlieu và hội nghị
nhất trí sẽ thành lập Liên bang Đông Dương, còn vấn đề các cộng hòa trực thuộc
sẽ giải quyết sau. Ngày 27-8-1946 Pháp ký với Lào bản tuyên bố chung công nhận
sự thống nhất của Lào.
Do hành động bất phục tùng trước đó của Nghiêm Xuân
Thiện và Phan Văn Giáo, và cũng do tình hình không cho phép nên Pháp chỉ duy
trì ở Bắc và Trung Việt hoạt động của Hội đồng An dân và Hội đồng Chấp chính mà
không thành lập chính phủ riêng như ở Nam Việt.
6- Việt
cộng chống phá Chánh phủ Nam Kỳ
Sau khi thành lập, Chánh phủ Nguyễn Văn Thinh có nhiều
hoạt động giúp khôi phục, ổn định tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội ở Nam Việt
Nam. Nhưng các hoạt động trọng yếu và nhất là về chính trị, quân sự, an ninh,
đối ngoại vẫn do Pháp kiểm soát. Cộng hòa Nam kỳ không được thành lập quân đội
và bộ máy an ninh như Pháp đã hứa. Vì vậy, cộng sản Việt Nam có cớ để tuyên
truyền Chánh phủ Nguyễn Văn Thinh là bù nhìn lệ thuộc Pháp. Các đảng phái quốc
gia phần lớn cũng không ủng hộ Chánh phủ Nam Kỳ.
Cộng sản Việt Nam tăng cường quậy phá, ám sát các nhân
vật liên quan đến Chánh phủ. Vì thế, không ai dám cộng tác với Chánh phủ Nguyễn
Văn Thinh nữa. Nhất là trong giai đoạn từ 1946 đến 1950, ở Nam Việt áp dụng
theo luật tự do báo chí, không có kiểm duyệt, nên đảng cộng sản tha hồ tổ chức
hoặc tìm mọi cách lũng đoạn các tờ báo ở Sài Gòn như: Tin Điện, Nam kỳ, Tân
Việt, Kiến Thiết, Tin Mới, Dư Luận, Việt Thanh, Sài Thành, Công Chúng, Echo du
VietNam..., tất cả 17 tờ báo hình thành nên ‘Nhóm báo chí thống nhất’, chuyên tuyên truyền đả kích việc Cộng hòa
Nam Kỳ không chấp nhận trực thuộc Việt Nam dân chủ cộng hòa của Đảng Cộng sản
Đông Dương, coi đó là sự ly khai khỏi đại gia đình Việt Nam, đồng thời tìm mọi
cách đả kích, bêu xấu Chánh phủ Nguyễn Văn Thinh. Hàng loạt thành viên Chánh
phủ, Hội đồng, các tổ chức chính trị, xã hội... bị ám sát, khủng bố. Một số
người như đô trưởng Sài Gòn Phan Văn Chương, bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng... bị bắt
cóc đưa ra chiến khu. Luật sư trẻ Nguyễn Hữu Thọ bị toán du kích do Đoàn Giỏi
phụ trách bắt cóc tại Mỹ Tho... Cuối cùng, chính Nguyễn Văn Thinh cũng bị ám
sát tại tư gia trên đường Lê Văn Duyệt ngày 10-11-1946 rồi ngụy tạo thành một
vụ tự tử trong tư thế bị siết cổ bằng một sợi dây điện.
III- Thời kỳ thủ tướng Nguyễn Văn Xuân (1946) và thủ
tướng Lê Văn Hoạch (1946-47)
1- Chánh
phủ Cộng hòa Nam Việt – Nội các Nguyễn Văn Xuân
Ngày 11-11-1946, Hội đồng Tư vấn Nam Việt họp, cử phó
thủ tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng, lập chính phủ mới gọi là Chánh phủ
Cộng hòa Nam Việt.
Nội các thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cầm quyền từ ngày
15-11 đến 7-12-1946.
- Thủ tướng kiêm bộ trưởng Bộ Quân đội quốc gia:
Nguyễn Văn Xuân.
- Phó thủ tướng: Lê Văn Hoạch.
- Đổng lý văn phòng Chính phủ.
- Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
- Bộ trưởng Bộ Công chánh.
- Bộ trưởng Bộ Tài chánh: Trần Văn Hữu.
- Bộ trưởng Bộ Canh nông-thương mại-kỹ nghệ.
- Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục.
- Bộ trưởng Bộ An ninh.
- Bộ trưởng Bộ Lao động và xã hội.
2- Chánh
phủ Cộng hòa Nam Việt – Nội các Lê Văn Hoạch
Đến 7-12-1946, do bất mãn với cung cách hoạt động của
người Pháp, Nguyễn Văn Xuân từ chức thủ tướng, sang Pháp trở lại tiếp tục phục
vụ trong quân đội với hàm đại tá rồi giữa năm 1947 được thăng chức thiếu tướng
lục quân. Ngày 7-12-1946, Hội đồng Tư vấn Nam Việt cử phó thủ tướng Lê Văn Hoạch
(1896-1978) làm thủ tướng Chánh phủ Cộng hòa Nam Việt.
Nội các thủ tướng Lê Văn Hoạch cầm quyền từ ngày
7-12-1946 đến 8-10-1947.
- Thủ tướng: Lê Văn Hoạch.
- Phó thủ tướng.
- Đổng lý văn phòng Chánh phủ.
- Bộ trưởng Bộ Quân đội quốc gia: Nguyễn Văn Tâm.
- Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
- Bộ trưởng Bộ Công chánh.
- Bộ trưởng Bộ Tài chánh: Trần Văn Hữu.
- Bộ trưởng Bộ Canh nông-thương mại-kỹ nghệ.
- Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục.
- Bộ trưởng Bộ An ninh.
- Bộ trưởng Bộ Lao động và xã hội.
3- Phạm
Công Tắc đề ra Giải pháp Bảo Đại
Ngày 20-12-1946, trước khi ra Quốc hội điều trần về
chuyến sang thăm Đông Dương, bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại Moutet tuyên bố: Nước Pháp muốn hòa bình, tôn trọng những nguyên tắc đã
tuyên bố, nhưng không chịu khuất phục trước bạo lực. Chính sách của Pháp là bảo
vệ quyền lợi nước Pháp và làm cho những quyền lợi ấy luôn được tôn trọng.
Ngày 23-12-1946, dân biểu André Mutter của hạt l’Aube
tuyên bố: Không thể đàm phán với
chính quyền của Hồ được nữa vì đó là bọn lật lọng. Chúng ta không thể coi tên
Hồ Chí Minh như đại diện của một đất nước tự do, mà đó là một kẻ sát nhân.
Ngày 1-1-1947, nhân dịp bộ trưởng Moutet sang thăm
Đông Dương và đến thăm Tòa thánh Tây Ninh, hộ pháp Phạm Công Tắc tuyên bố là
tín đồ Cao Đài nhiệt liệt ủng hộ cựu hoàng Bảo Đại về nước lãnh đạo chánh phủ
Việt Nam.
Vào đầu năm 1947, quân Pháp về cơ bản đã chiếm xong Hà
Nội và các đô thị ở Bắc Việt, đẩy lùi quân Việt cộng rút lên miền thượng du
Việt Bắc, tổ chức chiến thuật du kích và tiêu thổ kháng chiến để chống lại quân
Pháp. Nhiều người trong chính trường Paris cũng muốn điều đình với chính phủ
cộng sản để ngưng chiến, nhưng lợi ích đôi bên quá khác nhau nên không dàn xếp
được. Cao ủy DArgenlieu cũng muốn ngăn chận các cuộc đàm phán đó nên đã báo cáo
nhiều tình hình sai sự thật về Paris và tìm mọi cách ngăn trở mọi thỏa hiệp đi
tới giải pháp hòa bình. Đầu năm 1947, đại tướng Leclerc, tư lệnh Quân lực Đông
Dương từ tháng 9-1945 đến tháng 7-1946, đã nhận định: Năm 1947, Pháp sẽ không còn có thể dùng sức mạnh để
khuất phục một dân tôc 24 triệu người có tư tưởng chống ngoại xâm và có tinh
thần quốc gia mạnh mẽ. Kể từ nay, vấn đề chủ yếu là chính trị. Vấn đề là ở chỗ
cần phải dàn xếp với một phong trào cách mạng quốc gia đang phát triển, và phải
hậu thuẫn phong trào đó để bảo vệ ít nhất là một phần các quyền lợi của Pháp. Sau đó, Leclerc chết vì tai nạn máy bay ngày
28-11-1947 ở Bắc Phi.
Ngày 2-1-1947, cao ủy D’Argenlieu và cố vấn Léon
Pignon cũng tuyên bố trong một cuộc họp báo tại Sài Gòn: Từ nay về sau, không thể điều đình với bọn Hồ Chí
Minh. Chúng ta chỉ có thể đàm phán với những người biết tôn trọng chữ ký của
mình từ những người quốc gia. Mục tiêu của chúng ta cần được xác định phải
chuyển cuộc xung đột giữa Pháp và cộng sản Việt Nam thành vấn đề nội bộ của
Việt Nam. Người Pháp chỉ tham gia tối thiểu vào cuộc xung đột với cộng sản, còn
nhiệm vụ chính phải nằm trong tay phái quốc gia chống cộng.
4- Giáo
hội Cao Đài, Hòa Hảo và Việt Quốc khởi động Giải pháp Bảo Đại
Lúc đó, Chính phủ Paris do thủ tướng Georges Bidault
thuộc Phong trào Cộng hòa nhân dân (MRP) đứng đầu cũng nhất định không thương
thuyết với cộng sản Việt Minh. Ở trong nước, Chánh phủ Lê Văn Hoạch không chịu
đấu tranh nhiều hơn với Pháp để thu hồi chủ quyền chính trị, quân sự, ngoại
giao nên không được các đảng phái quốc gia ủng hộ. Ở Bắc và Trung Việt vẫn chưa
thành lập được chính phủ mà vai trò điều hành chủ yếu vẫn thuộc về chế độ quân
quản Pháp. Vì thế, trong tháng 1 và 2-1947, lãnh tụ các đảng phái quốc gia như
Đảng Phục quốc Việt Nam (Cao Đài), Đảng Việt Nam dân chủ xã hội (Hòa Hảo), Việt
Nam quốc dân đảng cử đại biểu tới tấp sang Hong Kong tìm cách yêu cầu cựu hoàng
Bảo Đại đang lưu vong tại đây về nắm quyền.
Ngày 26-2-1947, cựu hoàng Bảo Đại tổ chức họp báo tại
Hong Kong, tuyên bố: Việt
Minh là một tổ chức cộng sản quốc tế không phù hợp với truyền thống cổ truyền
của dân tộc Việt Nam. (...) Chúng tôi thay mặt nhân dân Việt Nam chủ trương kiến
tạo một giải pháp quốc gia trong lập trường chống cộng.
5- Hoạt
động Việt Nam quốc dân đảng và Đại Việt quốc dân đảng
Tháng 1-1947, Việt Nam quốc dân đảng tách ra trở lại
thành hai đảng là Việt Nam quốc dân đảng và Đại Việt quốc dân đảng như trước
đây. Riêng Việt Nam quốc dân đảng lại phân hóa thành hai nhóm: một nhóm kiên
quyết chống Pháp nên chống cả Bảo Đại, đứng đầu là Xuân Tùng Hoàng Văn Đào,
Nguyễn Văn Chấn, Lý Ngọc Chấn, nhóm thứ hai ủng hộ giải pháp Bảo Đại lãnh đạo
quốc gia, hợp tác với Pháp chống cộng sản đứng đầu là giáo sư Nghiêm Xuân Thiện, bác sĩ Trần Trung Dung, Vũ Hồng
Khanh, Ngô Thúc Định, bác sĩ Trần Văn Tuyên...
Tại Bắc Việt, Đặng Vũ Lạc, Đỗ Văn Năng, Lê Thăng tập
hợp các đảng viên Đại Việt quốc dân đảng và Việt Nam quốc dân đảng, mở đại hội
phục hoạt Đại Việt quốc dân đảng, và gọi là Đảng Tân Đại Việt. Hoàng Phạm Trân
(Nhượng Tống) và Ngô Thúc Định cũng mở đại hội phát triển hoạt động Việt Nam
quốc dân đảng. Đại Việt quốc dân đảng và Việt Nam quốc dân đảng tăng cường xây
dựng chi nhánh và cơ sở quần chúng ở Trung Việt.
6- Hoạt
động Đảng Đại Việt phục hưng
Tháng 1-1947, Ngô Đình Diệm cũng đẩy mạnh hoạt động
Đảng Đại Việt phục hưng. Theo đề xuất của Nguyễn Khoa Toàn, Đảng Đại Việt phục
hưng cử Trần Văn Lý và Trần Thanh Đạt làm đại biểu của đảng tham gia hội nghị ở
Sài Gòn do Nguyễn Văn Sâm triệu tập để thành lập Việt Nam quốc gia liên hiệp,
tập họp một số đảng phái và nhân sĩ cách mạng quốc gia.
7- Kế
hoạch ba bên của Bảo Đại - Trần Trọng Kim
Sau khi tiếp xúc với đại diện Cao Đài, Hòa Hảo và Việt
Quốc, cựu hoàng Bảo Đại cùng với cựu thủ tướng Trần Trọng Kim vạch ra một kế
hoạch ba bên, tức thương thuyết với cả Pháp và cộng sản Việt Nam để cùng chấm
dứt chiến tranh, cùng thỏa hiệp và đi đến hòa bình.
Ngày 22-1-1947, Trần Trọng Kim thay mặt Bảo Đại đến gặp
đặc sứ Pháp Cousseau tại Hong Kong. Kim đưa ra bảy điều kiện để hợp tác, là: 1- Thống nhất ba kỳ. 2- Việt Nam hoàn toàn tự trị. 3-
Xác định rõ ràng vị trí Việt Nam trong Liên hiệp Pháp. 4- Việt Nam phải có quân
đội riêng. 5- Việt Nam phải có chế độ tài chánh riêng. 6- Pháp phải xác định rõ
một kỳ hạn trao trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam. 7- Việt Nam có đại biểu
ngoại giao với các nước Á Đông và buôn bán với các nước khác. Đặc sứ Cousseau không cam kết điều gì mà chỉ hứa hẹn
báo cáo về chính phủ Paris.
Ngày 2-2-1947, Trần Trọng Kim đi tàu thủy rời Hong Kong
về Sài Gòn, ở tạm trong nhà luật sư Trịnh Đình Thảo, cựu bộ trưởng tư pháp
trong chính phủ năm 1945. Kim đã gặp cựu khâm sai Nguyễn Văn Sâm, Phan Huy Đán,
Đinh Xuân Quảng, Phạm Khắc Hòe, Hoàng Xuân Hãn, Vũ Văn Hiền... để bàn thảo về
việc phối hợp giữa Pháp và các lực lượng cách mạng quốc gia trong việc đạt được
một thỏa ước về giải pháp Bảo Đại. Kim cũng gặp cố vấn Pignon, tân cố vấn chính
trị Michel, để thương thảo về giải pháp Bảo Đại. Pháp lúc đầu cũng e dè Trần
Trọng Kim vì còn thành kiến việc hợp tác với Nhật sau cuộc đảo chánh tháng
3-1945, nhưng vẫn ừ hử hứa hẹn xem xét hợp tác về giải pháp Bảo Đại; tuy nhiên
sau khi Kim đề nghị có thể thương thảo thỏa hiệp với lực lượng Việt cộng thì
cao uỷ D’Argenlieu nổi giận thật sự, ra lệnh giam lỏng Trần Trọng Kim, không
cho tiếp xúc với chính giới quốc nội nữa và không cho liên lạc với Bảo Đại.
Trần Trọng Kim tìm cách trốn được lên Phnom Penh. Ủy viên cộng hòa Pháp tại Phom
Penh De Raymond được cao ủy DArgenlieu ra lệnh tiếp tục giam lỏng Trần Trọng
Kim cho đến năm 1952 mới thả ra.
Đầu năm 1947 tại miền Nam, các đảng phái trước đây chủ
trương Nam Kỳ tự trị cũng thay đổi lập trường, tuyên bố ủng hộ Việt Nam thống
nhất, miễn là mỗi xứ Nam, Trung, Bắc vẫn có tự trị về kinh tế và chính trị. Các
đảng phái tổ chức biểu tình chống cộng khắp nơi.
8- Giáo
hội Công giáo công khai chống cộng
Để đối phó với các hoạt động đàn áp tôn giáo, khủng bố
giáo dân, Giáo hội Công giáo cũng công khai ủng hộ giải pháp Bảo Đại và chống
cộng sản.
Đầu năm 1947, giám mục giáo phận Phát Diệm Lê Hữu Từ
cho hàng trăm chính khách mọi đảng phái đang bị Việt cộng truy sát đến tỵ nạn
tại Phát Diệm, trong đó có anh em Ngô Đình Diệm-Nhu, Trần Văn Chương..., với
phương châm: Đất của Chúa luôn là nơi
bình yên của mọi người hoạn nạn. Tại đây, các chi nhánh đảng Đại Việt duy
dân, Đại Việt quốc dân, Việt Nam quốc dân đều mở rộng lực lượng sâu rộng trong
dân chúng. Giáo phận Phát Diệm và Bùi Chu thành lập lực lượng Công giáo tự vệ
do Trần Thiện chỉ huy với quân số hàng ngàn người.
Tại giáo phận Vĩnh Long, giám mục Ngô Đình Thục chủ
trương cắt đứt mọi liên hệ với Việt cộng. Nhiệt tình chống cộng nhất là các
giáo xứ tại Bến Tre và Mỹ Tho. Tại đây công khai ủng hộ các đơn vị lưu động bảo
vệ giáo xứ (UMDC) do trung uý Léon Leroy phụ trách. Đồng phục binh sĩ UMDC đều thêu trước ngực hình cây thánh giá.
Tại các giáo xứ Kẻ Sặt (Hải Dương), Quảng Bình, Quảng
Trị, Kontum... cũng có nhiều đơn vị tự vệ của giáo dân Công giáo.
9- Mặt
trận Liên hiệp quốc gia Việt Nam
Tháng 2-1947, thủ tướng Ramadier thuyết trình với Quốc
hội Pháp, đã khẳng định lực lượng Việt cộng do Hồ cầm đầu đang là một thế lực
phiến loạn và không được dân chúng Việt Nam ủng hộ. Tiếp theo, bộ trưởng Moutet
khẳng định là Hiệp ước sơ bộ hồi 6-3-1946 đã được Pháp ký kết với một chính phủ
liên hiệp Việt Nam, chứ không phải với cá nhân Hồ hay phe cộng sản của Hồ.
Tính đến ngày 17-2-1947, quân Pháp đã hoàn toàn kiểm
soát ngoại vi Hà Nội, rồi làm chủ tình hình Nam Định (11-3) và Hòa Bình (15-4).
Tại Trung bộ, quân Pháp tái chiếm Hội An (15-3-1947), Quảng Nam (16-3), rồi đổ
bộ lên Đồng Hới (27-3).
Ngày 17-2-1947 tại Sài Gòn, chủ tịch Đảng Việt Nam
quốc gia độc lập Nguyễn Văn Sâm đứng ra tổ chức hội nghị chín đảng phái quốc
gia, gồm Việt Nam cách mệnh đồng minh hội, Việt Nam quốc dân đảng, Đại Việt
quốc dân đảng, Việt Nam dân chủ xã hội đảng (Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo), Việt
Nam quốc gia độc lập đảng, Việt Nam quốc gia thanh niên đoàn, Giáo hội Cao Đài,
Đảng Việt Nam phục quốc và Liên đoàn Công giáo. Hội nghị thống nhất thành lập
Mặt trận Liên hiệp quốc gia Việt Nam (Front d'Union Nationale du Viet-Nam),
tuyên bố hưởng ứng hoàn toàn việc thành lập một chính phủ quốc gia Việt Nam do
cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu, kêu gọi chống lại Việt Minh lẫn Pháp và đề nghị
Chính phủ Trung Hoa dân quốc và Mỹ can thiệp để sớm chấm dứt cuộc chiến tranh
Việt Pháp.
Ngày 4-3-1947, đại diện các đảng phái quốc gia lại họp
tại Quảng Châu, gồm Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Trần Văn
Tuyên, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Hợi, Lưu Đức Trung, Vũ Kim Thành..., ra tuyên
bố chống lại chế độ cộng sản Việt Nam và nguyện đoàn kết dưới sự lãnh đạo của
cựu hoàng Bảo Đại. Ngày 10-3-1946, cao ủy D’Argenlieu cử phái viên sang Hong
Kong gặp Bảo Đại, đồng thời cũng gặp một số nhân sĩ còn trong nước như Ngô Đình
Diệm, Nguyễn Mạnh Hà, Hoàng Xuân Hãn...,
nhưng những người này đều biết rõ thực tâm của Pháp nên không ai chịu
hợp tác.
Ngày 9-3-1947, Mặt trận Liên hiệp quốc gia Việt Nam
họp tại Hong Kong, ra bản tuyên cáo, theo đó xác định mục tiêu của Mặt trận là:
thống nhất tất cả các tổ chức cách mạng, đảng
phái chính trị, đoàn thể tôn giáo và xã hội để đấu tranh giành độc lập và thống
nhất lãnh thổ; củng cố chế độ cộng hòa, dân chủ; hợp tác toàn diện với tất cả
các quốc gia trên thế giới trên căn bản công bằng và tự do để vãn hồi an ninh
trật tự thế giới.
Về những biến cố đang xảy ra ở Việt Nam, Mặt trận
khẳng định cuộc kháng chiến hơn một năm qua không phải là công trình của một
đảng phái chính trị nào, mà là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Mặt trận cũng
khẳng định lực lượng của Hồ Chí Minh không được nhân dân tin tưởng và đã mất đi
vị thế trong thế giới trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, bởi vì mục tiêu
gây chiến của lực lượng Việt cộng chỉ là nhằm giành độc quyền cai trị nhân dân
Việt Nam. Bởi vậy, Mặt trận ủng hộ cựu hoàng Bảo Đại Nguyễn Phước Vĩnh Thụy để
thành lập một chính phủ dân chủ thực sự.
Để đánh dấu sự thay đổi chính sách của mình, thủ tướng
Ramadier quyết định sẽ thay đổi cao uỷ Đông Dương D’Argenlieu vì bị nhiều người
chỉ trích là còn mang nặng đầu óc thực dân và khó lòng tập họp được lực lượng
quốc gia ở Đông Dương ủng hộ. Tuy nhiên, D’Argenlieu lại muốn nấn ná ở Đông
Dương chờ ngày De Gaulle (vừa từ chức ngày 24-1-1946) trở lại chính quyền. Vì
thế, Ramadier ra hẳn quyết định cách chức D’Argenlieu.
Ngày 12-3-1947, tổng thống Mỹ Harry Truman đọc một bài
diễn văn, khẳng định đang có tình trạng chiến tranh lạnh trên thế giới giữa
khối tự do và khối cộng sản. Vài tháng sau, Mỹ thông qua kế hoạch Marshall viện
trợ tái thiết châu Âu. Riêng với các nước đang còn dính líu và sa lầy tai tiếng
với thuộc địa cũ như Pháp chẳng hạn, Mỹ nhấn mạnh là phải cùng lúc kết hợp cả
ba yếu tố: việc viện trợ tái thiết, việc chống cộng sản, và việc xóa bỏ chế độ
thuộc địa. Bộ Ngoại giao Mỹ nhiều lần tuyên bố: không muốn thấy một chế độ tay sai của Moscow thống
trị bán đảo Đông Dương, và cũng không muốn bị mang tiếng ủng hộ Pháp tái lập
chế độ thuộc địa, nên mong mỏi Pháp ủng hộ các lực lượng quốc gia chân chính
làm nòng cốt cuộc chiến chống cộng.
Sau chuyến thăm Đông Dương trở về, ngày 18-3-1947, bộ
trưởng Moutet khẳng định: Không
thể nói chuyện với phe của Hồ được nữa, vì họ không chỉ coi việc ký hiệp ước
như một phương tiện tranh đấu, mà còn chủ trương bạo động.
Ngày 20-3-1947, cựu hoàng Bảo Đại cử Phan Văn Giáo và
Trần Văn Quế về Sài Gòn, hợp tác với nhóm Phan Huy Đán, Đinh Xuân Quảng, vận
động thành lập chế độ quân chủ lập hiến ở Việt Nam. Phan Văn Giáo là một cán bộ
Việt Nam quốc dân đảng bị Việt cộng bắt giam tháng 8-1945, đến tháng 2-1946 bị
Tòa án nhân dân Việt cộng kết tội dựa vào thế lực Việt Nam quốc dân đảng để gây
rối, bị kết án 6 năm tù khổ sai, tịch biên hết gia sản. Tháng 11-1946, Phan Văn
Giáo trốn thoát được ra Hà Nội và sang Hong Kong hoạt động với cựu hoàng Bảo
Đại.
10-
Hoạt động của cao uỷ Emile Bolaert
Tính đến đầu năm 1947, quân Pháp đã chiếm được toàn bộ
Nam Việt, một phần lớn Trung và Bắc Việt, nhưng chỉ thật sự duy trì an ninh ở
các thành phố, thị trấn, trong khi tại các vùng nông thôn thì Pháp vẫn không đủ
sức kiểm soát được. Và chính tại đây, từng ngày từng giờ vẫn diễn ra chiến sự
ác liệt, nhiều lần uy hiếp trực tiếp tới các vùng đô thị.
Thủ tướng Pháp Ramadier cho rằng, nếu cứ tiếp tục đẩy
mạnh chiến tranh theo chiến lược quân sự của cao ủy D’Argenlieu, sẽ gây tốn kém
mà khó thắng lợi trước yêu sách đòi độc lập tại Việt Nam. Vì thế, Ramadier nghĩ
tới một giải pháp chính trị thực sự để giải quyết toàn bộ cuộc chiến Đông
Dương.
Ngày 25-3-1947 tại Paris, Ramadier tuyên bố: Nước Pháp sẵn sàng hậu thuẫn cho các dân tộc Đông
Dương được hoàn toàn độc lập, có quân đội và chế độ ngoại giao riêng trong
khuôn khổ Liên bang Đông Dương. Qua tuyên bố mày,
Ramadier cũng tỏ ý muốn nối tiếp lại cuộc thương thuyết với Việt Minh.
Ngày 1-4-1947, Emile Bolaert sang Sài Gòn làm tân cao
ủy Pháp tại Đông Dương. Từ tháng 4-1947, Bolaert xúc tiến mạnh việc tái lập các
cơ cấu hành chánh lâm thời tại vùng tự do. Bolaert cũng phê chuẩn kết quả cuộc
bầu cử mới Hội đồng Chấp chánh Trung Việt ngày 12-4-1947 ở Huế và Hội đồng An
dân Bắc Việt ngày 19-5-1947 ở Hà Nội. Các uỷ ban và hội đồng hàng tỉnh, hàng
quận do người Việt đứng đầu cũng được nhanh chóng bầu cử và thiết lập.
Ngày 13-4-1947, nghị sĩ Paul Reynaul tuyên bố trước
Quốc hội Pháp: Hồ Chí Minh là một tên
tội phạm nguy hiểm và không thể thương thuyết với hắn; hoặc hắn đã bị điều
khiển và tự chứng tỏ thiếu khả năng để buộc chính quân đội của mình tuân lệnh,
vậy thì, đó là kẻ thiếu khả năng và cũng chẳng nên thương thuyết với hắn ta nữa. Hôm sau, dân biểu Maurice Violette còn đi xa hơn khi
khẳng định: Tinh thần quốc gia ở Việt
Nam là phương tiện; còn cứu cánh lại là thực dân Nga Sô.
Tuy nhiên thủ tướng Paul Ramadier cũng còn muốn điều
đình với Chính phủ Việt cộng nên tháng 5-1947 cử Paul Mus gặp phó thủ tướng
Phạm Văn Đồng và ngoại trưởng Hoàng Minh Giám để thương thuyết, nhưng có sự
phản đối của cố vấn Trung cộng nên cuộc thương thuyết thất bại. Cao ủy Bolaert
bèn quay trở lại tích cực thúc đẩy giải pháp Bảo Đại để hình thành một phong
trào quốc gia Việt Nam chống cộng.
Lo ngại với sự đẩy mạnh hoạt động của lực lượng cách
mạng quốc gia, mật vụ Việt cộng càng tăng cường hoạt động khủng bố, ám sát.
Tinh thần quyết tâm chống cộng của các lực lượng cách mạng quốc gia càng được
nâng cao thêm nữa sau khi giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ bị Việt cộng
sát hại vào đêm 20-4-1947.
Ngày 19-5-1947, cao uỷ Bollaert ký nghị định phê chuẩn
bác sĩ Trương Đình Tri làm chủ tịch Hội đồng An dân Bắc Việt, Trần Văn Lý làm
chủ tịch Hội đồng Chấp chính lâm thời Trung Việt, Nguyễn Khoa Toàn làm chủ tịch
Hội đồng Tư vấn Trung Việt. Cũng trong
ngày này, Bollaert trả Dinh thống đốc cho thủ tướng Nam Việt Lê Văn Hoạch làm
phủ thủ tướng.
Từ tháng 6-1947, cao ủy Bolaert liên tiếp cử phái viên
sang Hong Kong thương lượng việc lập
chính phủ với cựu hoàng Bảo Đại. Ngày 5-7-1947, Bảo Đại tuyên bố: Mong muốn điều đình trực tiếp và chánh thức với đại
diện Chánh phủ Pháp.
Ngày 6-8-1947, Quốc hội Pháp thông qua nghị quyết áp
dụng chính sách để cho các nước Đông Dương độc lập trong khối Liên hiệp Pháp và
giao quyền cho cao ủy Pháp tại Đông Duơng được tùy tình hình mà có áp dụng mô
hình Liên bang Đông Dương hay không.
11-
Quan điểm của Mỹ về Việt Nam
Ngày 19-7-1947, đại sứ lưu động Mỹ William C. Bullit
tuyên bố với báo giới: Tất cả
mọi người Việt Nam đều mong muốn độc lập. Trong 100 người, không có tới một
người là cộng sản, nhưng cộng sản đã cố gắng giành quyền lãnh đạo. Chính phủ Hồ
Chí Minh đang bị dân chúng ghê tởm vì quá tham lam và độc ác. Mỹ cần thân thiện
với cả người Pháp và người Việt. Vấn đề then chốt ở Việt Nam là phải thiết lập
sự cộng tác giữa người Pháp và các phần tử quốc gia ở Việt Nam để tiêu diệt
cộng sản. Điều này có thể thực hiện được bởi vì không có mâu thuẫn quyền lợi gì
thật sự giữa người Pháp và người Việt Nam. Nếu chính phủ Pháp đồng ý từ bỏ
chính sách thực dân cũ lỗi thời thì sẽ bảo tồn được mọi quyền lợi ở Việt Nam và
sẽ chấm dứt được chiến tranh bằng một loạt hành động đơn giản sau đây:
1- Dành cho Việt Nam một
chế độ như tổng thống Wilson dành cho Phillippines năm 1913.
2- Trục xuất đại diện
Việt Minh ở Paris vì là tay sai Liên Xô.
3- Để cho các phần tử
quốc gia Việt Nam tự tổ chức về chính trị, kinh tế, quân sự, để họ tự kiểm soát
đất nước họ.
4- Khi các bộ máy đã lập
ra thì điều đình với họ để thảo ra một hiến pháp bảo đảm được mọi quyền lợi của
người Pháp ở Đông Dương và một hiệp ước cho phép Pháp thành lập một căn cứ quân sự, như ở Cam Ranh
chẳng hạn.
5- Để cho họ tự làm lấy
việc lôi kéo các phần tử quốc gia hiện chiếm tới hai phần ba trong hàng ngũ
kháng chiến và cộng tác với các lực luợng quốc gia để tiêu diệt Việt Minh cộng
sản. Các nhà chức trách Pháp ở Đông Dương đã nhận thấy cần phải đi theo một
đường lối như vậy. Nếu việc điều đình với phe quốc gia có kết quả trên cơ sở
độc lập trong Liên hiệp Pháp thì chúng ta tin rằng có thể cùng một lúc huy động
được mọi lực luợng quốc gia hùng hậu đánh bại phe cộng sản.
Lời tuyên bố trên của đại sứ Mỹ là để cụ thể hóa thêm
một bước đường lối của tổng thống Truman đã hoạch định trong cuộc họp ba ngày
trước đó, cùng với các hoạt động ngoại giao rầm rộ và có trọng tâm thống nhất
tiếp theo đó của các viên chức Mỹ, đã tác động mạnh mẽ trực tiếp tới chính sách
của Pháp.
12-
Chương trình sáu bước của Mặt trận Liên hiệp quốc gia
Mặt trận Liên hiệp quốc gia và các đảng phái phối hợp
tổ chức biểu tình tại Huế (12-8-1947), Sài Gòn (1-9 và 14-9), yêu cầu cựu hoàng
Bảo Đại về nước chấp chánh. Trong tháng 8 và đầu tháng 9, liên tiếp có hàng
chục đoàn từ Nam, Trung, Bắc sang Hong Kong họp với phái đoàn Bảo Đại.
Ngày 16-8-1947, hộ pháp Cao Đài Phạm Công Tắc tuyên bố
ủng hộ Mặt trận Liên hiệp quốc gia và chủ trương mời Bảo Đại về nước chấp
chánh. Ngày 18-8, thủ tướng Lê Văn Hoạch gặp đại diện Mặt trận là Nguyễn Văn
Sâm, cam kết ủng hộ giải pháp Bảo Đại, đồng thời Chánh phủ Nam Việt khẳng định
Nam Việt sẵn sàng là một bộ phận không thể tách rời của Việt Nam thống nhất.
Nguyễn Văn Sâm thay mặt Mặt trận đề nghị thủ tướng Hoạch tiếp xúc trực tiếp với
Bảo Đại để bàn thảo thống nhất chính sách quốc gia.
Từ ngày 19 đến 22-8-1947 tại Sài Gòn, Nguyễn Văn Sâm
tổ chức hội nghị toàn quốc Mặt trận Liên hiệp quốc gia. Ngày 22-8-1947, Mặt
trận ra tuyên bố kiến nghị cựu hoàng Bảo Đại đứng ra lãnh đạo phong trào đấu tranh chống cộng sản để giành thống nhất độc
lập cho quốc gia. Các lãnh tụ mặt trận cùng ký tên dưới một bức thư gửi Bảo
Đại, yêu cầu chấp nhận thương thuyết với Pháp để bàn việc về nước cầm quyền.
Ngày 27-8-1947, trên hầu hết các báo ở Sài Gòn, Hà Nội
và trên báo Climat tại Paris có đăng chương trình sáu bước của Mặt trận Liên
hiệp quốc gia:
- Bước 1: Giữ trật tự
vững chắc về quân sự.
- Bước 2: Hội đồng Chánh
phủ Cộng hòa Nam Việt, Hội đồng An dân Cộng hòa Bắc Việt, Hội đồng Chấp chánh
Cộng hòa Trung Việt, cùng cử người thành lập một quốc hội lâm thời thống nhất.
- Bước 3: Quốc hội lâm
thời thống nhất ra yêu cầu Bảo Đại thành lập Chánh phủ và thông qua Chánh phủ
đó.
- Bước 4: Bảo Đại sẽ lãnh
đạo cuộc đàm phán với Pháp để đi tới một hiệp ước.
- Bước 5: Chánh phủ Bảo
Đại trở thành chánh phủ hợp pháp của Việt Nam, còn chính phủ cộng sản được coi
là phiến loạn, phải nộp võ khí cho Chánh phủ Bảo Đại.
- Bước 6: Tổ chức trưng
cầu dân ý sau khi bình định xong nước Việt Nam để lựa chọn chánh thể và hiến
pháp, bầu cử Quốc hội.
Ngay sau đó, hầu hết báo chí ở các vùng trong nước có
hàng loạt bài cổ vũ cho chính sách của Mặt trận Liên hiệp quốc gia và giải pháp
Bảo Đại.
Ngày 5-9-1947, cựu hoàng Bảo Đại tuyên bố tại Hong
Kong là muốn tiếp xúc với các lãnh tụ Việt Nam để bàn luận thời sự. Ngay hôm
đó, Nguyễn Văn Sâm cũng sang Hong Kong gặp Bảo Đại.
Ngày 9-9-1947, Bảo Đại họp với 24 đại diện ba miền
Việt Nam tại Hong Kong. Trong số đại diện này có bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn
Văn Tâm do Chánh phủ Lê Văn Hoạch cử sang. Bảo Đại tuyên bố sẽ đứng ra liên kết
và hợp tác với các đảng phái sau khi đã thương lượng với giới hữu trách Pháp.
Ngày 10-9-1947, cao ủy Bolaert đọc diễn văn tại Hà
Đông, khẳng định rõ lập trường dứt khoát không thượng lượng với cộng sản và đưa
ra khẩu hiệu mới là: L'Indépendance dans
l'interdépendance (độc lập trong tương trợ).
Dân chúng Sài Gòn biểu tình ủng hộ giải pháp Bảo Đại (1947) |
IV- Thời kỳ thủ tướng Nguyễn Văn Xuân (1947-49)
1-
Chánh phủ lâm thời Nam phần Việt Nam – Nội các Nguyễn Văn Xuân
Ngày 15-9-1947, thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân từ Pháp về
Sài Gòn tham gia giải pháp Bảo Đại theo lời mời của Mặt trận Liên hiệp quốc
gia.
Từ Hong Kong trở về ngày 17-9-1947, Nguyễn Văn Sâm
nhân danh Mặt trận Liên hiệp quốc gia gửi thư đến tổng thống Mỹ Truman, thỉnh
cầu can thiệp vào tình hình Đông Dương. Sâm cũng thành lập nhật báo Quần Chúng
ở Sài Gòn làm cơ quan ngôn luận của Mặt trận.
Ngày 18-9-1947 tại Hong Kong, cựu hoàng Bảo Đại tuyên
bố hoan nghênh sự uỷ thác của quốc dân và mong muốn được sớm thương thuyết với
đại diện Chính phủ Pháp. Ngày 20-9, Bảo Đại nói sẵn sàng gặp đại diện Pháp ở
Hong Kong hay Đông Dương vào bất cứ lúc nào.
Ngày 29-9-1947, Nội các Lê Văn Hoạch từ chức. Ngày
1-10, Hội đồng Tư vấn Nam Việt uỷ thác Nguyễn Văn Xuân lập chánh phủ lâm thời.
Ngày 8-10-1947, Nguyễn Văn Xuân tuyên bố đổi tên Cộng hòa Nam Việt thành Nam
Phần Việt Nam, và công bố danh sách Chánh phủ lâm thời Nam phần Việt Nam.
Nội các thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cầm quyền từ ngày
8-10-1947 đến 14-6-1949.
- Thủ tướng kiêm bộ trưởng Bộ Quân đội quốc gia:
Nguyễn Văn Xuân.
- Phó thủ tướng kiêm tổng trưởng Bộ Tài chánh: Trần
Văn Hữu.
- Tổng trưởng Bộ Ngoại giao: Nguyễn Phan Long.
- Tổng trưởng Bộ Tư pháp: Nguyễn Khắc Vệ.
- Tổng trưởng Bộ Công chánh: Nguyễn Văn Tỷ.
- Tổng trưởng Bộ Canh nông: Trần Thiện Vàng.
- Tổng trưởng Bộ Thông tin: Nguyễn Phú Khai.
- Thứ trưởng Bộ Thông tin: Trần Văn Ân.
Nội các này xúc tiến mạnh mẽ mời Bảo Đại về nước lập
Chánh phủ Quốc gia. Cuối tháng 12-1947, Nguyễn Văn Xuân cử Nguyễn Phan Long dẫn
đầu một phái đoàn sang Geneva gặp Bảo Đại rồi đi tiếp sang Mỹ vận động Mỹ ủng
hộ cho giải pháp Bảo Đại.
Trong cuộc họp Đại hội đồng Liên hiệp quốc cuối năm
1947, Pháp đề nghị đưa Việt Nam, Lào, Cambodia vào Liên hiệp quốc thì bị Liên
Xô dùng quyền phủ quyết bác bỏ.
2- Hoạt
động khủng bố của Việt cộng
Hoạt động của lực lượng cách mạng quốc gia tất nhiên
làm phe cộng sản lo sợ và căm ghét, nên ra sức chống lại quyết liệt. Tại miền
Nam, Lê Duẩn và Nguyễn Bình (Nguyễn Phương Thảo) được lệnh thực hiện ráo riết
chiến dịch khủng bốvà ám sát, thủ tiêu các thành phần cách mạng quốc gia và
thường dân, phá hoại đồn bót, cầu cống ở khắp nơi. Chủ tịch Mặt trận Liên hiệp
quốc gia Nguyễn Văn Sâm bị ám sát ngày 10-10-1947 trên một chuyến xe buýt từ
Sài Gòn vô Chợ Lớn. Hàng chục thành viên các đảng phái thuộc mặt trận cũng bị
ám sát hoặc bị thương thành tàn phế. Các căn cứ, trụ sở Cao Đài, Hòa Hảo, Việt
Quốc ở Nam bộ liên tục bị quân Việt cộng đánh phá, mong làm tan rã Mặt trận
Liên hiệp quốc gia.
3- Tạm ước
Hạ Long (7-12-1947)
Ngày 18-11-1947, tờ báo Le Monde ở Paris đăng bài của
André Blanchet, đề nghị trao trả độc lập cho nước Việt Nam do Bảo Đại lãnh đạo.
Báo chí Việt Nam đồng loạt loan tin các đảng phái cách mạng quốc gia, đoàn thể
xã hội đang chuẩn bị đón Bảo Đại về nước.
Cao uỷ Bollaert quyết định tổ chức một cuộc gặp trực
tiếp với Bảo Đại.
Ngày 6-12-1947, hai phái đoàn do cựu hoàng Bảo Đại và
cao uỷ Bollaert đứng đầu gặp nhau trên một chiến hạm neo tại vịnh Hạ Long.
Bollaert đưa ra một dự thảo hiệp định trong đó nêu rõ
Việt Nam, Lào, Cambodia là những quốc gia liên kết trong Liên hiệp Pháp. Bảo
Đại sẽ làm thủ tướng Chánh phủ Việt Nam bên cạnh một cao ủy Pháp đứng đầu Hội
đồng Tư vấn toàn diện do tổng thống Pháp bổ nhiệm, tức là chính phủ các nước
liên kết không có quyền tự trị cả về chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao.
Các chính phủ liên kết chỉ đảm nhiệm vai trò như các thống đốc, khâm sứ, thống
sứ dưới quyền toàn quyền thời thuộc Pháp
chứ chẳng có được nhiều quyền tự trị. Trong khi đó Bảo Đại yêu cầu Việt Nam vẫn
chấp nhận nằm trong Liên hiệp Pháp nhưng được tự chủ hoàn toàn. Phải sáp nhập
Nam Việt và Tây Nguyên trở về Việt Nam, có chánh phủ riêng, quân đội riêng, tài
chánh riêng, tự trị về ngoại giao. Lập trường đôi bên khác nhau quá xa nên hội
nghị Hạ Long có nguy cơ tan vỡ.
Cuối cùng ngày 7-12-1947, hai bên ký một tạm ước
(protocol) với nội dung thỏa hiệp chung chung, theo đó Pháp hoan nghênh Bảo Đại
trở về Việt Nam thành lập chánh phủ thống nhất ba miền. Việt Nam là một nước
độc lập trong khối Liên hiệp Pháp. Về ngoại giao sẽ do Pháp đảm nhiệm, nhưng sẽ
đưa viên chức người Việt vào ngạch ngoại giao. Về quốc phòng, Việt Nam có quân
đội riêng, nhưng quân đội này phải cam kết sẽ tham chiến trong khối Liên hiệp
Pháp. Hai bên cũng ký một mật ước, theo đó Pháp cam kết sẽ không thỏa hiệp với
chính phủ Hồ Chí Minh. Ngày 10-12-1947, Bảo Đại đi với Đinh Xuân Quảng sang
Thụy Sĩ để bắt đầu vận động sự ủng hộ quốc tế.
4-
Chính quyền Paris công khai ủng hộ Giải pháp Bảo Đại
Sau khi ký Tạm ước Hạ Long, ngày 12-12-1947, cao uỷ
Bollaert về Pháp báo cáo. Ba ngày sau, 15-12, chính quyền Paris tuyên bố sẽ cho
Boallert toàn quyền hành động và thương
thuyết cần thiết để tái lập hòa bình và tự do tại Việt Nam. Tuyên bố cũng
nhấn mạnh, vì Việt Minh đã bác bỏ đề nghị trong bài diễn văn đọc ngày 10-9 ở Hà
Đông nên Pháp đã chấm dứt mọi nỗ lực thương thuyết với Việt Minh.
Ngày 19-12, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân sang Hong Kong
gặp Bảo Đại. Ngày 23-12, Chính phủ Paris lại tuyên bố là thể theo lời yêu cầu
của bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại Paul Coste-Floret, cao uỷ Đông Dương Bollaert
được phép xúc tiến việc thương thuyết với tất cả đảng phái thích hợp tại Việt
Nam.
5- Việt
Nam quốc gia liên hiệp
Từ năm 1947, lãnh tụ Đảng Việt Nam phục hưng Ngô Đình
Diệm bắt đầu chú ý liên lạc với viên chức Mỹ để xin ủng hộ cuộc đấu tranh đòi
tự chủ của Việt Nam.
Ngày 21-12-1947, Ngô Đình Diệm và Trần Văn Lý sang
Hong Kong gặp Bảo Đại. Ngày 24-12 trước khi sang Geneva, Bảo Đại uỷ nhiệm cho
Diệm và Lý về nước tham khảo ý kiến giới chức Pháp và các đảng phái về việc
thành lập chánh phủ thống nhất ba miền. Ngày 24-12, Diệm gặp tổng lãnh sự Mỹ
tại Hong Kong George D. Hopper trao đổi về hiện tình Việt Nam và giải pháp Bảo
Đại. Trước đó (18-12-1947), tổng lãnh sự Mỹ Charles Reed ở Sài Gòn đã điện
trước cho Hopper rằng Diệm sẽ ghé thăm. Trong báo cáo về Washington, Hopper cho
biết là Diệm xin Mỹ ủng hộ trong việc can thiệp buộc Pháp nhân nhượng trong
giải pháp Bảo Đại. Hopper hứa sẽ báo cáo về trên nhưng không hứa hẹn gì với
Diệm.
Ngày 25-12-1947, bác sĩ Lê Văn Hoạch chủ trì một hội
nghị các đảng phái, thành lập Việt Nam
quốc gia liên hiệp (Rassemblement National Vietnamien) để ủng hộ giải pháp
Bảo Đại, chủ trương lập trường Việt Nam độc lập, thống nhất.
Ngày 26-12, Ngô Đình Diệm trở lại Sài Gòn, gặp thủ
tướng Nguyễn Văn Xuân trao đổi những nội dung mà Bảo Đại đề cập. Theo lời
khuyên của Diệm, thủ tướng Xuân cử ngoại trưởng Nguyễn Phan Long sang Geneve
gặp Bảo Đại rồi sang Mỹ vận động sự ủng hộ cho phong trào quốc gia Việt Nam.
Sau đó, Diệm tổ chức ra một nhóm thành viên chống cộng
thân Mỹ hay ít ra là không thích Pháp. Ở miền Bắc có Nguyễn Đình Thuần, Nguyễn
Xuân Chữ, Trần Trung Dung... Ở miền Trung có Trần Văn Lý, đứng ra thành lập
Đảng Xã hội Công giáo (6-1948). Ở miền Nam có Bertin, Nguyễn Bửu, Nguyễn Phước
Hậu, Trần Tử Hoàng, Trần Văn Soái (Năm Lửa)...
Ngày 8-2-1948, Ngô Đình Diệm gặp Lê Văn Hoạch, tán
thành lập trường Việt Nam độc lập, thống nhất của Việt Nam quốc gia liên hiệp.
Ngày 12-2-1948, Diệm cử một phái viên tên Đông về Hà
Tiên, Sa Đéc, Cần Thơ, Vĩnh Long tìm gặp thủ lĩnh các lực lượng Cao Đài, Hòa
Hảo, Công giáo kháng chiến để vận động ủng hộ Bảo Đại.
6- Quan
điểm của Mỹ về tình hình Đông Dương
Tháng 12-1947, tổng thống Mỹ Truman bắt đầu công khai
biểu lộ mối lo ngại về nguy cơ sụp đổ của Trung Hoa dân quốc. Truman cử ngoại
trưởng Georges Marshall sang Trung Hoa với hy vọng tìm ra một giải pháp chính
trị. Trung cộng và Liên Xô đồng loạt mở chiến dịch công kích Mỹ mãnh liệt trên
báo chí. Nguy cơ cộng sản càng khiến Truman quan tâm hơn đến tình hình Đông
Dương.
Chiều 26-12-1947, tại cuộc họp trong Bạch Cung có mặt
ngoại trưởng Georges Marshall, thứ trưởng ngoại giao Akison, đại sứ lưu động
William C. Bullit và một số viên chức khác, tổng thống Truman phát biểu chỉ
đạo: Trước hết quan điểm và
chính sách tổng quát của chúng ta là châu Âu trước đã. Mỹ đang cùng Anh, Pháp
và các đồng minh Tây Âu khác hình thành một liên minh ngăn chận Liên Xô ở châu
Âu. Việc khôi phục châu Âu để chống lại ách thống trị của cộng sản ở lục địa
này quan trọng hơn nhiều so với phong trào quốc gia của một nước Việt Nam nhỏ
bé. Chúng ta không thể vì vấn đề Đông Duơng thúc bách để rồi gây chia rẽ với
người Anh và người Pháp, vì trước sau họ vẫn là những người bạn cùng hội cùng
thuyền của mình. Chúng ta không thể hình dung nổi những thất bại đó với lợi ích
lâu dài của Pháp mà lại không phải là thất bại của chính chúng ta. Tuy nhiên,
nếu vấn đề Đông Dương nhùng nhằng mãi, nó sẽ làm suy yếu nước Pháp và như vậy,
người Pháp không thể đóng góp nhiều cho liên minh chống cộng ở Tây Âu. Kế hoạch
Marshall đang chuẩn bị thực hiện trong năm tới sẽ đóng vai trò quan trọng đối
với liên minh này, nhưng kế hoạch đó lại không trực tiếp quyết định đến công
việc của người Pháp ở Viễn Đông. Vì vậy, chúng ta phải áp dụng công thức ‘lời
khuyên và sức ép’. Lời khuyên để giữ liên minh chặt chẽ với Pháp, và để Paris
không tách khỏi quỹ đạo chống cộng. Sức ép để thúc đẩy người Pháp mau chóng đi
vào giải pháp Bảo Đại. Có giải pháp đó mới có viện trợ quân sự và kinh tế của
Mỹ, mới có thể áp dụng điều 4 của chương trình Truman vào Đông Dương.
Cụ thể là qua những bài
báo đánh tiếng, qua những cuộc gặp gỡ chính thức, chúng ta phải làm cho người
Pháp thấy rằng, nếu họ không có những nhượng bộ có ý nghĩa đối với phong trào
quốc gia ở Việt Nam, thì họ ít có triển vọng tốt đẹp trong cuộc chiến tranh kéo
dài trên bán đảo Đông Dương. Hồi tháng 2 năm nay, đại sứ chúng ta tại Paris là
Bullit đã được tôi chỉ thị bảo đảm với thủ tướng Ramadier về những tình cảm hết
sức chân thành của chúng ta đối với Pháp và về sự quan tâm của Mỹ trong việc
giúp đỡ những người Pháp phục hồi sức mạnh của họ. Sau đó, ngày 13-5-1947, tôi
lại chỉ đạo cho các nhà ngoại giao Mỹ tại Paris, Sài Gòn, Hà Nội rằng: Phải coi
sự liên kết với Pháp không những có lợi cho phía Pháp mà còn có lợi gián tiếp
đối với chúng ta. Riêng đối với vấn đề Đông Dương, phải làm cho người Pháp thấy
rằng chúng ta không có ý định đưa ra bất cứ giải pháp riêng nào của mình hoặc
can thiệp vào xứ này. Nhưng Mỹ muốn rằng, sự liên kết giữa Pháp với các nước Đông
Dương phải dựa trên cơ sở tự nguyện thì mới lâu bền và hiệu quả. Tình hình kéo
dài hiện nay ở Đông Dương chỉ có thể phá hoại sự liên kết và hợp tác tự nguyện
đó và sẽ để lại một di sản cay đắng lâu dài vì các dân tộc Đông Dương sẽ xa
lánh người Pháp. Mỹ cần làm cho người Pháp hiểu rằng, chúng ta sẵn sàng giúp đỡ
bằng mọi cách thích hợp để tìm ra một giải pháp cho vấn đề Đông Dương. Nhưng sự
giúp đỡ đó chỉ thành hiện thực khi mà Pháp có một sự hiểu biết cần thiết về
phía bên kia và từ bỏ quan điểm và phương pháp thực dân đã lỗi thời và rất nguy
hiểm đối với khu vực này. Người Pháp phải học tập kinh nghiệm của người Anh ở
Ấn Độ, Miến Điện và của người Hòa Lan ở Indonesia. Những phương pháp của Anh và
Hòa Lan đã chứng minh xu hướng của thời đại mà nội dung là các đế quốc thực dân
theo kiểu thế kỷ 19 đang mau chóng trở thành chuyện quá khứ.
Chúng ta không thể bỏ qua
thực tế là bọn Hồ Chí Minh đang có những mối liên hệ trực tiếp với cộng sản, và
tôi, tổng thống Mỹ, một dũng sĩ chống cộng không muốn thấy các chính quyền đế
quốc thực dân được thay thế bằng tư tưởng và tổ chức chính trị xuất xứ từ
Kremlin và do Kremlin kiểm soát. Tóm lại, chúng ta công nhận vai trò quan trọng
của Pháp ở Đông Dương. Chúng ta sẵn sàng ủng hộ người Pháp trong giải pháp Bảo
Đại, bằng cách vừa thuyết phục, vừa gây áp lực để đạt kết quả mong muốn là Pháp
dứt khoát và mau chóng tán thành nguyên tắc Việt Nam độc lập. Đó là quan điểm
của tôi, các ngài có thể căn cứ vào đó mà hoạch định chính sách của Mỹ đối với
Đông Dương, cả với Pháp và cả với giải pháp Bảo Đại. Điều đáng chú ý là các
viên chức ngoại giao Mỹ ở Paris, Sài Gòn, Hà Nội không được trực tiếp can
thiệp, trong khi vẫn nói thẳng cho người Pháp biết rằng, họ sẽ mất Đông Dương
nếu họ vẫn phớt lờ lời khuyên của Mỹ, rằng Mỹ sẽ làm bất cứ việc gì cần thiết
để tăng cường các nhóm quốc gia ở Đông Dương và lôi kéo các phần tử thuộc phe
cộng sản Việt Minh trở về với chánh nghĩa quốc gia.
Ngày 29-12-1947, trên tờ nhật báo Life ở Washington có
đăng bài The Saddest war (cuộc chiến
bi thảm nhất) của nghị sĩ William C. Bullit, cựu đại sứ Mỹ tại Pháp và Liên Xô,
viết: Mỹ cho rằng phải gấp rút
công nhận Bảo Đại và giúp đỡ ông tổ chức một quân đội riêng. Nếu Pháp không
muốn như vậy thì người Mỹ cũng cần dựa vào đó mà hành động. Phải bảo vệ Đông
Dương, một xứ có vị trí chiến lược rất quan trọng khỏi sự thống trị của cộng
sản. Thế giới tự do cần có con đường xe lửa Việt Nam để giúp Trung Hoa chống
lại Liên Xô. Bullit công khai cổ võ việc Pháp trao trả
độc lập cho Việt Nam như Mỹ đã từng làm với Philippines, giao cho người Việt
quốc gia chân chính trách nhiệm lôi cuốn những phần tử quốc gia trong hàng ngũ
Việt cộng và tự mình điều hành đất nước.
7- Cuộc
hội đàm Geneva (7 đến 12-1-1948)
Tháng 1-1948, cao ủy Bollaert bay sang Thụy Sĩ từ 7
đến 12-1-1948, năm lần gặp Bảo Đại tại Geneva để thương thuyết về điều kiện hợp
tác. Bảo Đại và Nguyễn Phan Long tiếp tục gây sức ép đòi Bollaert phải nhượng
bộ, nhất là trong vấn đề độc lập Việt Nam. Nhưng hai bên vẫn không đạt được kết
quả nào nên cuộc hội đàm tạm ngưng ngày 12-1. Báo chí Việt Nam và một số tờ báo
ở Pháp, Mỹ kịch liệt công kích chính sách đóng băng của Pháp, thậm chí có tờ
báo còn cả quyết là Pháp sẽ đàm phán với Việt cộng từ đầu tháng 4-1948.
Để trấn an phía quốc gia Việt Nam, ngày 29-1-1948,
Pháp bắt giam Blokov Trần Ngọc Ranh, trưởng phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa
ở Paris vì tội móc nối gián điệp chống Pháp. Hôm sau tại Sài Gòn, cao uỷ
Bollaert cam kết với báo chí là Pháp nhất quyết không thuơng lượng với Việt
Minh.
Nhờ vậy, cuộc hội đàm Bảo Đại-Bollaert lại tiếp tục ở
Paris từ ngày 5 đến 10-2-1948, nhưng rồi lại tạm ngưng mà không có kết quả. Tại
buổi họp báo chiều 10-2, Bảo Đại phàn nàn người Pháp chưa có thật tâm trao trả
chủ quyền Việt Nam, và tuyên bố hủy bỏ cuộc họp tiếp theo dự trù từ ngày 13-2
(tức mồng 4 tết Mậu Tý). Bảo Đại cho biết sẽ tiếp tục chuyến vận động dư luận ở
Cannes, sang Geneva, trước khi trở về Hong Kong vào tháng 3-1948.
Vừa lúc đó, sự bất lực và mâu thuẫn trong nội bộ chính
thể Pháp, cộng với việc qua một năm chiến tranh vẫn chưa kết thúc chiến sự Đông
Dương làm cho lãnh đạo Pháp không thể tiếp tục giữ thái độ cứng rắn mãi với chủ
trương phục hồi thuộc địa Đông Dương như trước năm 1945 được nữa. Ở Paris, Đảng
Cộng sản Pháp luôn tìm mọi cách khống chế và gây mất ổn định chính trường. Ngân
sách quân sự tại Đông Dương năm 1946 là 53 tỉ francs, năm 1947 lên 200 tỉ
francs và có khuynh hướng tăng vọt nữa. Đồng franc liên tục sụt giá. Phong trào
đình công, nhất là ở vùng Bắc Pháp do Đảng Cộng sản tổ chức dâng cao làm kinh
tế thêm khó khăn. Phong trào phản đối chiến tranh Đông Dương do mật vụ cộng sản
quốc tế tổ chức đã xuất hiện và lan rộng. Tình hình các thuộc địa khác của Pháp
như Algeria, Chad, Maroq... không ổn định, phong trào chống đối dâng cao. Dư
luận thế giới liên tục phản đối sự trở lại của Pháp ở Đông Dương, mà nhất là từ
Mỹ. Tờ New York Times còn khẳng định: Pháp là nước duy nhất ở châu Âu còn âm mưu dùng võ lực
chiếm giữ thuộc địa ở châu Á.
Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại Coste Floret cuối năm
1947 phải thừa nhận: Không
thể kéo dài mãi tình trạng này được. Sức ép quốc tế, tình hình tài chính và
quân sự không cho nước Pháp có được một sự cố gắng lớn về quân sự tại Viễn Đông. Floret cho rằng: cần phải nhanh chóng chấm dứt cuộc chiến đã làm nước
Pháp mất gần 10.000 binh sĩ đến cuối năm 1947.
8- Hoạt
động lực lượng quốc gia (đầu năm 1948)
Ngày 27-1-1948, lãnh đạo hai giáo hội Cao Đài và Hòa
Hảo ký thỏa thuận hợp tác chặt chẽ vì một nước Việt Nam độc lập và thống nhất.
Ngày 8-2-1948, Việt Nam quốc gia liên hiệp họp hội nghị liên đảng phái ở Huế.
Sau khi thủ tướng Ramadier khẳng định với báo chí
Paris vẫn triệt để tín nhiệm Bollaert trong việc thương thuyết với Bảo Đại,
ngày 26-2-1948, Bảo Đại mời Ngô Đình Diệm sang Hong Kong. Ngày 14-3, Bảo Đại
cũng từ Geneva về Hong Kong họp với Diệm, sau đó lại họp với chủ tịch của Hội
đồng An dân Bắc Việt (Trương Đình Tri) và Hội đồng Chấp chính Trung Việt (Trần
Văn Lý) cũng vừa sang tới. Tại miền Nam, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, bác sĩ Lê
Văn Hoạch và các lãnh đạo đảng phái đều cử phái viên sang yêu cầu Bảo Đại xúc
tiến nhanh hơn việc thương thảo với Pháp. Xuân khẳng định Chánh phủ Nam Việt
ủng hộ nhiệt liệt nước Việt Nam thống nhất ba miền.
Từ ngày 19 đến 26-3-1948, các lãnh đạo giáo hội Hòa
Hảo và Dân chủ xã hội đảng gồm Trần Văn Soái, Lê Văn Kính (tức Lương Văn
Tường), Lương Trọng Tường (tức Kinh Lý Tường), Phan Khắc Sửu và Nguyễn Hữu Đạt
cũng sang Hong Kong họp với Bảo Đại. Ngày 26-3-1948, Bảo Đại viết một thư ngỏ
gửi cho lãnh đạo các đoàn thể chính trị và tôn giáo ở Việt Nam, khẳng định chấp
thuận việc thành lập một chính phủ lâm thời trung ương Việt Nam để thương
thuyết với Pháp, và mong các đảng phái cùng nhất trí ủng hộ chủ trương này.
Ngày 27-3, Bảo Đại cử Ngô Đình Diệm về Sài Gòn thông báo với Bollaert là ‘nguyện vọng của Việt Nam giờ đây đã vượt quá những
điều khoản Tạm ước Hạ Long tháng 12-1947’.
Cuối tháng 4-1948, thủ tướng Nam Phần Nguyễn Văn Xuân
sang Hong Kong gặp Bảo Đại, đề nghị Bảo Đại ký một văn bản lấy tư cách cá nhân
hoan nghênh việc Xuân thành lập chánh phủ lâm thời. Đầu tháng 5-1948, Chính phủ
Paris tuyên bố ủng hộ việc Xuân làm thủ tướng chánh phủ lâm thời Việt Nam, và
ủy nhiệm cao uỷ Bollaert thảo luận ký một hiệp ước với Chánh phủ Nguyễn Văn
Xuân với sự chứng kiến của cựu hoàng Bảo Đại.
Ngày 12-5-1948, đại sứ Mỹ tại Paris Caffery điện báo
về Washington là vụ trưởng Châu Á Bộ Ngoại giao Pháp vừa tiết lộ rằng chính phủ
Paris đã cho phép Bollaert chấp thuận việc thành lập một chánh phủ lâm thời
Việt Nam do Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng. Việc thương thuyết giữa Bollaert và
Xuân sẽ dựa trên căn bản Tạm ước Hạ Long ngày 7-12-1947. Bảo Đại sẽ ký tên vào
một hiệp ước mới sẽ ký giữa Bollaert và Xuân.
9- Bản
Tuyên cáo Sài Gòn (20-5-1948)
Ngày 10-5-1948, ngoại trưởng Nam Phần Nguyễn Phan Long
sang Hong Kong họp với Bảo Đại. Ngày 15-5-1948, Nguyễn Phan Long trở về Sài
Gòn, trao cho Nguyễn Văn Xuân một bức công văn của cựu hoàng Bảo Đại ngỏ ý tán
thành việc thành lập một chánh phủ trung ương lâm thời Việt Nam do Nguyễn Văn
Xuân đứng đầu để ‘giải quyết vấn đề Việt
Nam đối với Pháp và dư luận quốc tế’. Nguyễn Phan Long giải thích cần phải
giải tán Chánh phủ Nam Việt ngay để thành lập Chánh phủ trung ương lâm thời
quốc gia Việt Nam.
Ngày 20-5-1948, một nhóm lãnh tụ ba miền gồm 39 người,
gồm có hộ pháp Cao Đài Phạm Công Tắc làm chủ tọa danh dự, Nguyễn Văn Xuân, 24
thành viên người Việt trong Hội đồng Tư vấn Nam Việt, Hội đồng An dân Bắc Việt,
Hội đồng Chấp chánh Trung Việt và 15 nhân sĩ nổi tiếng, đại diện các đảng phái
quốc gia ba miền đã họp đại hội tại Sài Gòn, để thảo luận về chủ trương của Bảo
Đại. Hội nghị đã ra một bản tuyên cáo hoan nghênh việc Nguyễn Văn Xuân được Bảo
Đại cử thành lập Chánh phủ trung ương lâm thời Việt Nam; khẳng định Việt Nam là một nước đồng minh mà không phải ‘liên
hiệp’ (associés); Việt Nam có quyền gửi các lãnh sự ngoại giao; Việt Nam
sẽ có những nhân viên ngoại giao ở hải ngoại; Việt Nam phải được các nước ngoài
công nhận, ít ra cũng theo chế độ dominion (Úc và
Gia Nã Đại) như của Anh quốc.
Ngày 21-5-1948, 39 đại biểu dự Hội nghị nhất trí đề ra
một danh sách chánh phủ trung ương lâm thời quốc gia Việt Nam do Nguyễn Văn
Xuân làm thủ tướng, và 39 người cùng ký vào một bản kiến nghị suy tôn cựu hoàng
Bảo Đại làm quốc trưởng chấp chánh.
10- Chánh
phủ lâm thời Quốc gia Việt Nam – Nội các Nguyễn Văn Xuân
Ngày 23-5, Nguyễn Văn Xuân ký sắc lệnh số 1, thành lập
Chánh phủ trung ương lâm thời Việt Nam; ký nghị định số 2, ấn định tổ chức và
chức quyền của chánh phủ. Ngay hôm đó, Xuân và cao uỷ Bollaert trao đổi văn thư
về việc thành lập chánh phủ. Ngày 24-5, Nguyễn Văn Xuân dẫn một phái đoàn Chánh
phủ sang Hong Kong gặp Bảo Đại. Cũng trong hôm đó, các văn bản về thành lập chánh
phủ được trao cho thủ tướng Pháp Robert Schumann ở Paris.
Ngày 27-5-1948, trong một buổi họp báo tại Hong Kong,
Bảo Đại tuyên bố thành lập Quốc gia Việt Nam, và nhất trí với danh sách Chánh
phủ. Cũng trong ngày hôm đó, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Pháp tại Paris ra
tuyên bố sẵn sàng hợp tác với thành phần tân chánh phủ quốc gia và quốc trưởng
Bảo Đại; tuy nhiên, lúc này Chánh phủ trung ương lâm thời Nguyễn Văn Xuân vẫn
chưa được Pháp công nhận, vì giới chức Pháp tại Đông Dương cho rằng họ chỉ công
nhận một chánh phủ Việt Nam thống nhất sau khi vấn đề thống nhất Nam Việt vào
Việt Nam đã có sự biểu quyết chấp thuận của Quốc hội Pháp.
Ngày 31-5-1948, Trần Văn Kiết, phát ngôn viên của cựu
hoàng Bảo Đại thông báo:
1- Ông Bảo Đại coi việc
lập Chánh phủ lâm thời quốc gia Việt Nam như là một giai đoạn đầu để thương
thuyết với Pháp.
2- Ông Bảo Đại chỉ về
Việt Nam khi nào được Chính phủ Pháp công nhận là một quốc gia độc lập, thống
nhất.
3- Tân chánh phủ quốc gia
và ông Bảo Đại sẽ cộng tác mật thiết để cùng phụng sự cho quốc gia.
Ngày 1-6-1948, Nguyễn Văn Xuân công bố danh sách chánh
phủ.
Thành phần Chánh phủ lâm thời Quốc gia Việt Nam gồm
- Chủ tịch Hội đồng Tổng trưởng kiêm tổng trưởng Bộ
Quốc phòng và Bộ Nội vụ: Nguyễn Văn Xuân.
- Quốc vụ khanh, phó chủ tịch Hội đồng Tổng trưởng
kiêm tổng trấn Nam Phần: Trần Văn Hữu.
- Quốc vụ khanh, tổng trấn Trung Phần: Phan Văn Giáo.
- Quốc vụ khanh, tổng trấn Bắc Phần: Nghiêm Xuân
Thiện.
- Quốc vụ khanh, tùng Bộ Quốc phòng: Trần Quang Vinh.
- Tổng trưởng Bộ Thông tin, báo chí và tuyên truyền:
bác sĩ Phan Huy Đán (sau đó đổi tên là Phan Quang Đán).
- Tổng trưởng Bộ Quốc gia giáo dục và nghi lễ: Nguyễn
Khoa Toàn.
- Tổng trưởng Bộ Nội vụ: Nguyễn Hữu Trí (nhưng không
nhận chức); do Nguyễn Văn Xuân kiêm nhiệm.
- Tổng trưởng Bộ Tư pháp: Nguyễn Khắc Vệ.
- Tổng trưởng Bộ Tài chánh, kinh tế quốc gia: Nguyễn
Trung Vinh.
- Tổng trưởng Bộ Công chánh và kế hoạch: Nguyễn Văn
Tỷ.
- Tổng trưởng Bộ Canh nông: Trần Thiện Vàng.
- Tổng trưởng Bộ Y tế: bác sĩ Đặng Hữu Chí.
- Thứ trưởng tùng Dinh chủ tịch: Đinh Xuân Quảng.
- Thứ trưởng tùng Bộ Nội vụ: Đỗ Quang Giai.
- Thứ trưởng tùng Bộ Quốc gia giáo dục, đặc trách Thanh
niên và thể thao: Hà Xuân Tế.
- Thứ trưởng tùng Bộ Lao động và xã hội: Ngô Quốc Côn.
- v.v…
Sau khi tổ chức một cuộc thỉnh thị dân ý mang tính
hình thức và vội vã bằng cách cho đăng dự thảo trên các báo trong nước từ 27
đến 31-5-1948 và được sự chấp thuận của Bảo Đại, ngày 2-6-1948, Nguyễn Văn Xuân
ký sắc lệnh số 3, ban hành Pháp quy tạm thời (statut provisoire) Quốc gia Việt
Nam, trong đó quy định: quốc hiệu là Quốc gia Việt Nam, quốc kỳ là cờ vàng ba
sọc đỏ, quốc ca là bài Thanh niên hành khúc của Lưu Hữu Phước, thủ đô là Sài
Gòn.
Ngày 5-6-1948, Đảng Dân Xã và bộ đội giáo phái Hòa Hảo
tuyên bố ủng hộ chính phủ quốc gia. Ngày 26-6-1948, chủ tịch Xuân bổ nhiệm thủ
lãnh bộ đội Hòa Hảo Trần Văn Soái (Năm Lửa) hàm thiếu tướng thực thụ, tiếp tục
đóng quân trấn giữ miền Tây Nam phần. Ngày 28-6-1948, Nguyễn Văn Xuân bổ nhiệm
một chức sắc Hòa Hảo là Lê Công Bộ làm thứ trưởng Bộ Nội vụ.
Ngày 9-6-1948, Nguyễn Văn Xuân ra chỉ dụ bổ nhiệm thứ
trưởng Bộ Nội vụ Đỗ Quang Giai, thứ trưởng Bộ Lao động và hoạt động xã hội Ngô
Quốc Còn.
Ngày 14-6-1948, Nguyễn Văn Xuân ký Sắc lệnh liên quan đến các tổ chức công
quyền tạm thời. Theo đó, nước
Việt Nam thống nhất chia làm ba miền; thủ đô là Sài Gòn; quốc kỳ là cờ vàng,
chiều dọc bằng hai phần ba chiều dài, giữa có ba sọc đỏ, dày bằng một phần mười
lăm chiều dọc của lá cờ và cũng cách nhau chừng ấy; quốc ca là Thanh niên hành
khúc.
Ngày 17-6-1948, thủ lãnh bộ đội Bình Xuyên Lê Văn Viễn
(Bảy Viễn) đem quân về hợp tác với chính phủ. Vào chủ nhật 1-8, chủ tịch Xuân
bổ nhiệm Lê Văn Viễn hàm đại tá tạm thời, tòng sự dưới quyền phó chủ tịch Trần
Văn Hữu. Bảy Viễn được đóng bản doanh tại số 31, rue de Canton, Chợ Lớn.
Ngày 25-6-1948, Nguyễn Văn Xuân bổ nhiệm Nguyễn Hữu
Trí làm đại diện Việt Nam tại Paris, có Vũ Quí Mão làm đặc vụ viên.
11-
Hiệp ước Hạ Long (5-6-1948)
Từ ngày 4-6-1948 trên chiến hạm Duguay Tuguay Trouin
neo ở vịnh Hạ Long, đã diễn ra cuôc đàm phán giữa phái đoàn Pháp do cao ủy
Bollaert dẫn đầu và phái đoàn Việt Nam để bàn việc công nhận quyền độc lập tự
chủ của Quốc gia Việt Nam. Phái đoàn Việt Nam gồm Bảo Đại, Nguyễn Văn Xuân cùng
các đại diện miền Bắc (Đặng Hữu Chí, Nghiêm Xuân Thiện), miền Trung (Đinh Xuân
Quảng, Nguyễn Khoa Toàn, Phan Văn Giáo), miền Nam (Lê Văn Hoạch, Trần Văn Hữu).
Mỗi bên đều đưa ra những yêu sách cũ của mình. Cuối cùng, đôi bên thỏa hiệp ký
bản Tuyên ngôn chung (déclaration commune) Việt Pháp, còn gọi là Hiệp ước Hạ
Long vào ngày 5-6-1948.
- Điều 1: Nước Pháp long
trọng nhìn nhận sự độc lập của nước Việt Nam. Từ rày về sau, việc tự do thực hiện
nền thống nhất quốc gia tùy nơi Nước Việt Nam. Về phần mình, nước Việt Nam
tuyên bố chịu gia nhập vào Liên hiệp Pháp với danh nghĩa một quốc gia đồng hội
với nước Pháp (La France reconnait solennement lindépendance du
Vietnam auquel il appartient de réaliser librement son unité. De son côté, le Vietnam proclame son adhésion à
lUnion Franceaise en qualité dEtat associé à la France. Lindépendence du
Vietnam na dautres limites que celles que lui impose son appartenance à lUnion
Franceaise).
- Điều 2: Việt Nam bảo đảm tôn trọng những quyền
lợi của công dân Pháp, tôn trọng các nguyên tắc dân chủ, và dành ưu tiên cho
các cố vấn và chuyên viên kỹ thuật Pháp trong việc tổ chức nội bộ cùng kinh tế.
- Điều 3: Các vấn đề về văn hóa, ngoại giao, quân
sự, kinh tế, tài chánh, kỹ thuật trong quan hệ Pháp Việt sẽ được thảo luận giữa
tổng thống Pháp và ngài Bảo Đại để ký hiệp ước chính thức ngay sau bản tuyên bố
chung này.
Hai bên
cũng ký một phụ bản mật, với một dung tương tự như mật ước ngày 7-12-1947, loại
lực lượng Việt cộng ra khỏi vòng thương thuyết. Ngay sau khi ký hiệp ước, Bảo
Đại và Bollaert cũng ra tuyên cáo riêng lập lại những điều căn bản trên. Thủ
tướng Nguyễn Văn Xuân đọc bản Tuyên ngôn
Quốc gia Việt Nam độc lập, kêu gọi quốc dân đoàn kết, hô vạn tuế nước Việt
Nam độc lập và vạn tuế nước Pháp. Ngay sau đó, Bảo Đại rời Hongkong sang Paris
để vận động và thương thuyết với tổng thống Pháp.
Như
vậy, tuy có tiến bộ hơn Tạm ước 6-3-1946 giữa Việt Minh và Pháp, nhưng Hiệp ước
5-6-1948 vẫn thể hiện rõ ý đồ ngoan cố của Pháp chưa thực tâm giao trả độc lập
tự chủ hoàn toàn cho Việt Nam. Hiệp ước 5-6-1948, trên thực tế chỉ là sự công
nhận chính thức Chánh phủ Bảo Đại – Nguyễn Văn Xuân có tư cách tiếp tục đàm
phán với Chính phủ Pháp. Để giành được trọn vẹn độc lập tự chủ cho Quốc gia
Việt Nam còn là một bước dài trong cuộc đấu tranh của các lực lượng cách mạng
quốc gia Việt Nam.
12- Cuộc vận động đi đến cuộc
đàm phán tại Điện Elysèe
Mặc dù
đã ký Hiệp định Hạ Long 7-6-1948, chính quyền Paris vẫn nấn ná chưa muốn trao
trả độc lập và thống nhất cho Việt Nam, mà nhất là trước mắt chưa đá động gì
đến việc phê chuẩn hiệp định. Việc này làm cao uỷ Bollaert bất mãn, lập tức bay
về Paris phàn nàn và tuyên bố chỉ trở lại Sài Gòn sau khi Quốc hội Pháp công
nhận Hiệp định Hạ Long 1948. Ngoại trưởng Mỹ Marshall cũng nổ lực can thiệp,
nhưng cả hai chính phủ Robert Schumann và André Marie đều ngần ngại việc thúc
ép Quốc hội.
Ngày
16-6-1948, quốc trưởng Bảo Đại và đặc sứ Nguyễn Phan Long dẫn phái đoàn sang
Pháp vận động chính trường Pháp và các lực lượng quốc tế tại Paris, nhất là
người Mỹ hỗ trợ công cuộc giành độc lập trọn vẹn cho Quốc gia Việt Nam. Trong
báo cáo ngày 10-7-1948 gửi về Bộ Ngoại giao Mỹ, đại sứ Mỹ tại Paris nhận xét: Thái độ
ngoan cố của người Pháp chứng tỏ họ chưa thấy một thực tế là nước Pháp hiện
đứng trước ngã ba đường phải lựa chọn, hoặc là rành mạch và nhanh chóng chuẩn y
nguyên tắc Việt Nam độc lập khỏi Liên hiệp Pháp và thống nhất ba miền của Việt
Nam, hoặc là mất cả Đông Dương.
Tướng
Pháp Marchal cũng tuyên bố: Dư luận không thể tin vào thiện chí của người
Pháp chúng ta được vì Pháp chưa trao trả chủ quyền cho họ, người Pháp chúng ta
nói tôn trọng chủ quyền Việt Nam nhưng vẫn duy trì bộ máy cai trị gần 17.000
nguời, tức là đông gấp 4 lần so với năm 1939.
Ngày
3-7-1948, ngoại trưởng Mỹ Marshall điện cho phụ tá vụ trưởng Tây Âu Woodruff
Wallner đang có mặt tại Paris: 1- Mặc dù vấn đề thống nhất ba miền Việt Nam cần
Quốc hội Pháp phê chuẩn, nhưng thủ tướng Robert Schumann cũng cần công khai yễm
trợ chữ ký của Bollaert. 2- Liệu Chính phủ Schumann có gặp trở ngại gì khi đưa
ra Quốc hội biểu quyết việc thống nhất ba miền?. 3- Cho dù Schumann ngại ngần
chưa muốn đưa vấn đề ra trước Quốc hội, nhưng có lẽ cũng cần những lãnh đạo cao
cấp nhất như Schumann, Bidault và Coste-Flochet cùng chung sức. 4- Vấn đề sáp
nhập Nam Việt chỉ khó khăn trong hiện tại? Nếu vậy thì lúc nào mới thuận lợi?
5- Cần có những nhượng bộ nào để chứng tỏ sự thành khẩn khởi đầu? Cuộc chiến ở
Việt Nam đã kéo dài gần ba năm, và Pháp khó đạt một chiến thắng quân sự toàn
diện. Cuộc chiến này làm suy yếu kinh tế Pháp và mối liên hệ giữa phương Tây
với các dân tộc phương Đông. Quan điểm của Bộ Ngoại giao Mỹ là nếu cố tiếp tục
sử dụng những viên chức thân Pháp mà Pháp đã chọn suốt hai năm qua chỉ giúp phe
Hồ mạnh hơn, và bảo đảm việc xuất hiện một quốc gia do cộng sản thống trị, làm
chư hầu Liên Xô. Để tránh việc này, điều quan trọng hơn cả là phải giúp cho
chính phủ trung ương hiện nay, hoặc bất cứ một chính phủ chống cộng nào, một cơ
hội thành công bằng những nhân nhượng có thể thu hút đại đa số những thành phần
không cộng sản.
Sáng
9-7-1948, cao uỷ Bollaert nói với báo chí đang đòi Quốc hội phải phê chuẩn Hiệp
định Hạ Long 1948 như một điều kiện để trở lại Đông Dương. Bollaert cũng yêu
cầu Chính phủ Schumann và Quốc hội phải có hành động trước cuối tháng 7-1948.
Bollaert cho biết vừa thuyết phục được Schumann đệ trình Quốc hội toàn bộ hồ sơ
Hiệp định Hạ Long.
Trưa
9-7-1948, Bollaert ăn trưa với Bảo Đại. Khi Bollaert hỏi chừng nào về nước, Bảo
Đại đáp là chừng nào Pháp trả Nam Phần về cho Việt Nam và công nhận Việt Nam hoàn
toàn độc lập.
Ngày
13-7-1948, phụ tá Vụ Tây Âu Bộ Ngoại giao Mỹ Wallner đang ở Paris báo cáo về
Washington là: Chính phủ Schumann đang chuẩn bị ra điều trần về
ngân sách quân sự và quĩ yễm trợ kinh tế trước khi Quốc hội tái nhóm ngày
15-7-1948, nên có lẽ chẳng dám ném ra gói thuốc nổ Đông Dương. Trong khi đó tại
Quốc hội, đảng Cộng sản, đảng Xã hội Gaullist và đảng PRL chắc chắn sẽ chống
đối mạnh. Schumann có lẽ sẽ không đưa vấn đề ra Quốc hội, nhưng Bollaert thì
nhất quyết đòi Quốc hội thông qua, bằng không sẽ từ chức. Wallner đề nghị ngoại trưởng
Mỹ Marshall nên khuyến cáo với Schumann là nước Pháp đang đứng trước hai con
đường: hoặc là chấp nhận ngay nguyên tắc Việt Nam độc lập và thống nhất trong
Liên hiệp Pháp, hoặc sẽ mất cả Đông Dương vào tay cộng sản.
Ngày
14-7, G. Marshall chấp thận quan điểm và đề nghị của Wallner, chỉ thị cho đại
sứ Caffery đến trình bày với thủ tướng Schumann (15-7). Schumann trả lời là
đang nghiên cứu vấn đề nhưng đang gặp tình thế cực kỳ khó khăn.
Vào lúc
đó, trong Quốc hội Pháp có một bộ phận thiểu số tả-cộng luôn xem lợi ích của
cộng sản quốc tế và quan thầy Liên Xô là mục tiêu chiến lược bao trùm hàng đầu.
Theo chỉ đạo của Liên Xô và Trung cộng, phe nghị sĩ tả cộng phải đả kích và
ngăn trở việc phê chuẩn Hiệp định Hạ Long 1948. Nếu hiệp định này được phê
chuẩn, thì đương nhiên cũng là hủy bỏ Hiệp định 1862 và 1874 theo đó Nam kỳ là
thuộc địa của Pháp. Nếu Nam kỳ vẫn là thuộc địa Pháp thì Việt cộng sẽ còn lý do
đả kích Pháp và phía quốc gia, bằng ngược lại thì phía quốc gia sẽ hoàn toàn
nắm giữ ngọn cờ chính thống và chính nghĩa, điều mà Việt cộng sợ nhất và ghét
nhất.
Thấy rõ
điều này và lo ngại đưa sự việc ra Quốc hội, ngày 17-7-1948, bộ trưởng hải
ngoại Coste-Floret đề nghị các bên ‘cứ chấp nhận ngầm’ với những thỏa thuận đã
đạt được, và cứ tiếp tục thương thảo những thỏa thuận kỹ thuật từ mùa thu năm
1948 mà không cần sự chấp thuận của Quốc hội. Nhưng ngày 19-7, Bollaert khẳng
định Quốc hội phải phê chuẩn Hiệp định Hạ Long.
Tình
thế càng khó khăn cho Chính phủ Pháp, khi bên cạnh việc đả kích của phe tả cộng
về việc từ bỏ thuộc địa Nam kỳ, thì Hiến pháp nước Pháp đã quy định vấn đề thay
đổi lãnh thổ thuộc địa phải thông qua cuộc một trưng cầu dân ý, mà trong hoàn
cảnh hiện tại, việc này là không thể thực hiện được.
Vì thế,
ngày 19-7-1948, thủ tướng Schumann tuyên bố từ chức. Ngày 21-7, André Marie
được cử làm thủ tướng. Ngày 26-7, tân chính phủ nhậm chức, trong đó cựu thủ
tướng Schumann lại nắm chức ngoại trưởng. Ngày 5-8, đại sứ Mỹ tại Paris Caffery
lại báo cáo về Washington là Bollaert vẫn không chịu trở lại Đông Dương nếu
Quốc hội Pháp không thảo luận về Hiệp định Hạ Long, và Bollaert khẳng định Hiệp ước này phải trở thành hiến chương của
nền bang giao Pháp-Việt (Charte des rapports Franco-Vietnamiens). Ngày
19-8, thủ tướng Marie tuyên bố ủng hộ bản Tuyên ngôn chung Hạ Long.
Bảo Đại
cũng tuyên bố chưa trở về Việt Nam chừng nào Chính phủ Paris chưa công khai xé
bỏ Hiệp định từng biến Nam kỳ thành thuộc địa Pháp, và liên tục nhờ Bộ Ngoại
giao Mỹ can thiệp.
Việt
cộng kịch liệt đả kích bản hiệp định Hạ Long, Bảo Đại và các thành viên chính
phủ quốc gia, mở tòa án nhân dân kết án tử hình vắng mặt Bảo Đại, Nguyễn Văn
Xuân và 11 nhân sĩ quốc gia khác. Du kích Việt cộng gia tăng khủng bố, ám sát
trong vùng tự do. Phong trào ly khai hàng ngũ Việt cộng chạy về phía quốc gia,
mà Việt cộng gọi là “phong trào về tề” lôi cuốn hàng chục ngàn người ; buộc
Việt cộng phải nỗ lực trấn áp để ngăn chặn, trong đó hình thức phổ biến là chôn
sống người tình nghi và ám sát nguội người đã về thành.
Ngày
1-8-1948, đặc sứ của quốc trưởng Việt Nam là Nguyễn Phan Long dẫn đầu một phái
đoàn sang Mỹ.
Ngày
28-8, thủ tướng Pháp André Marie lại từ chức. Ngày 30-8, cao uỷ Bollaert trở về
Sài Gòn, nói là để sắp xếp công việc. Mãi đến ngày 11-9, Henri Queuille mới
được cử làm thủ tướng lập chính phủ mới, với cựu thủ tướng Schumann làm ngoại
trưởng, cựu thủ tướng Ramadier làm bộ trưởng Quốc phòng. Tháng 10-1948, cao uỷ
Bollaert về Paris và tuyên bố từ chức. Ngày 20-10, thủ tướng Queuille cử Léon
Pignon làm cao uỷ Đông Dương. Pignon liền xúc tiến ngay việc thương thuyết với
Bảo Đại, vì lúc này Mỹ tỏ ra căng thẳng đòi Pháp phải dứt khoát trong vấn đề
Đông Dương.
Cuối
tháng 8 đầu tháng 9-1948, đại sứ Mỹ ở Paris liên tiếp nhận được chỉ thị từ
Washington thúc giục gặp Bộ Ngoại giao Pháp, đề nghị Pháp nên ban bố một đạo
luật hoặc có một hành động dứt khoát để tiến tới thống nhất Việt Nam và mở cuộc
đàm phán ngay tức khắc về những bước cụ thể tiến tới chế độ chính trị như hiệp
định Hạ Long 5-6-1948 đã đề ra. Đại sứ cũng nói rõ với đại diện Bộ Ngoại giao
Pháp: Mỹ sẵn lòng công khai tán thành các biện pháp cụ thể của Chính phủ
Pháp để đối phó với vấn đề chính trị cơ bản ở Đông Dương. Mỹ cũng sẵn lòng cứu
xét việc giúp đỡ Chính phủ Pháp về mặt viện trợ tài chánh thông qua chương
trình luật hợp tác kinh tế (ECA) nhưng không thể xét đến việc
thay đổi chính sách của mình hiện nay về vấn đề này nếu chưa có tiến bộ thực sự
tiến tới một giải pháp không cộng sản ở Đông Dương dựa trên sự hợp tác của các
phần tử quốc gia tại nước đó.
Sự hối
thúc của Mỹ đáp lại cuộc vận động ngoại
giao con thoi của Nguyễn Phan Long đã có hiệu quả. Cuộc đàm phán Pháp-Việt
lại tiếp tục từ tháng 1-1949 tại Paris. Ngày 2-1-1949, thủ tướng Nguyễn Văn
Xuân dẫn đoàn đàm phán sang Paris. Lần này, Bảo Đại dựa vào Hiệp ước 5-6-1948
đã ký để yêu cầu đích thân tổng thống Vincent Auriol dẫn đầu phái đoàn đàm phán
Pháp hội đàm với đoàn Việt Nam do Bảo Đại đứng đầu.
Ngày
17-1-1949, trợ lý ngoại trưởng Mỹ Lovett gửi công điện cho đại sứ Caffery tại
Paris: Mỹ muốn thấy Pháp đi đến thỏa thuận với Bảo Đại hay bất cứ một nhóm
quốc gia chân chính nào khác có khả năng tập hợp quảng đại dân chúng, và không
thể nào cam kết yễm trợ một chính phủ không vận động được dân chúng ủng hộ, sẽ
trở thành một chính phủ bù nhìn và tách rời quần chúng nếu chỉ đơn thuần dựa
vào binh lực Pháp. Caffery sẽ được thông báo về hành động phối hợp Mỹ, Anh và
Pháp để chống cộng sản sau khi nhận được báo cáo của Anh quốc.
Qua sự
vận động của Ngô Đình Diệm và Hồng y Spelman và để thúc đẩy thiện chí của
Auriol, Bộ Ngoại giao Mỹ thông qua đại sứ tại Paris chính thức chuyển giao một
công hàm ký ngày 17-1-1949 gửi tổng thống Auriol, ghi rõ: Một mùa
hè thứ hai của cuộc chiến tranh đã trôi qua năm 1948 mà không xua tan được đám
mây mù quân sự đang bao phủ trên đất Đông Dương và chưa làm cho giải pháp về
Bảo Đại thực sự trở thành sự an tâm đối
với những người yêu nước Việt Nam. Trong lúc Mỹ vẫn mong muốn người Pháp dàn
xếp được với lực lượng Bảo Đại hoặc với bất cứ nhóm quốc gia nào thực sự có
triển vọng để tranh thủ đại bộ phận dân chúng (như ông Ngô Đình Diệm chẳng
hạn), Mỹ không tự trói buộc mình phải ủng hộ một chính phủ bản xứ nào tồn tại
chỉ nhờ vào sự có mặt của quân đội Pháp. Chính phủ đó phải được Pháp tôn trọng
thực sự với trọn vẹn quyền độc lập tự chủ, đủ sức thu phục lòng dân Việt Nam.
Ngày
20-1-1949, đại sứ Caffery điện báo cáo về Washington là cao uỷ Pignon vừa cho
biết đã đạt được các điểm nhất trí căn bản với Bảo Đại. Hai bên đồng ý rằng cần
được Quốc hội Pháp phê chuẩn việc trả lại Nam Việt trước khi chính thức công bố
các điểm thỏa thuận để đảm bảo rằng toàn thể dân chúng Việt Nam đều ủng hộ giải
pháp Bảo Đại. Vấn đề chủ quyền Việt Nam sẽ gồm cả hai lãnh vực: ngoại giao và
nội bộ. Về nội bộ, việc bàn giao cơ cấu hành chánh Nam Việt từ Pháp sang Việt
Nam có thể thực hiện bất cứ lúc nào, nhưng về tư pháp thì cần thêm sắc luật của
Quốc hội Pháp. Chính phủ Pháp đang nghiên cứu chuyển hồ sơ sang Quốc hội, để
Quốc hội bàn thảo việc này trước ngày bầu cử hàng tổng 15-3-1949. Nếu chính phủ
thay đổi lập trường hay Quốc hội không phê chuẩn thì cao uỷ Pignon sẽ từ chức.
Vào đầu
năm 1949 lúc đó, tình hình thế giới đang qua một khúc quanh gay cấn. Điểm trọng
lực của xu thế chung xoay từ Cận Đông sang Á châu Viễn Đông. Sau khi một quốc
gia Do Thái được 24 nước thừa nhận ngày 25-1-1949 và đại tướng Markos của Phong
trào Hy Lạp tự do được Chính phủ Hy Lạp chấp nhận những điều kiện hòa giải, thì
dư luận hoàn cầu phải ngoảnh mạt nhìn về phương Đông.
Tại
Trung Hoa, Trung cộng quân đã chiếm gần hết miền Bắc. Sau khi Phó Tác Nghĩa bác
bỏ yêu cầu đầu hàng, thành Bắc Bình bị 300.000 quân Trung cộng công kích mãnh
liệt trong khi Thiên Tân thất thủ ngày 12-1-1949. Ngày 23-1-1949, Trung cộng
quân chiếm được Bắc Bình và ngay lập tức đổi tên thành Bắc Kinh để thể hiện rõ
quyết tâm sẽ tiếp tục chiếm Nam Kinh cho đủ bộ. Trung cộng rầm rộ kéo 100.000
quân chinh nam. Chính phủ Tưởng Giới Thạch thấy Nam Kinh bị uy hiếp nên ngày
19-1-1949 quyết định dời đô về Quảng Châu, đồng thời đề nghị thương lượng hòa
giải. Ngày 22-1-1949, Mao Trạch Đông đưa ra 8 điều kiện hòa bình dù biết chắc
rằng Quốc dân đảng không thể nào chấp nhận nổi. Ngày 21-1-1949, Tưởng Giới
Thạch giao quyền tổng thống cho phó tổng thống Lý Tôn Nhân, rồi tuyên bố rút
khỏi chính trường, lui về ở tỉnh Chiết Giang. Ngày 2-2-1949, Chính phủ Quốc dân
đảng chính thức hoạt động ở tân đô Quảng Châu thì trên phòng tuyến 125 dặm dọc
sông Dương Tử sắp diễn ra một trận huyết chiến mới. Quân Trung cộng áp sát phòng
tuyến. Trước tình thế này, Tưởng Giới Thạch lên tiếng sẽ lãnh đạo Hoa Nam kháng
chiến nếu Nam Kinh và Thượng Hải thất thủ để trấn an phần nào xu thế rã rời
đang lan nhanh trong hàng triệu quân Trung Hoa dân quốc. Ván cờ máu lửa ở Trung
Hoa sắp tàn cuộc rồi.
Trước
cuộc Nam tiến của Trung cộng, thủ tướng Thái Lan là thống chế Luang
Phibunsongkhram tỏ vẻ lo ngại, ngày 25-2-1949 tuyên bố muốn đóng cửa biên giới
Thái và bắt đầu chính sách trung lập. Tuyên bố buổi sáng thì đến trưa hôm đó,
nhiều sĩ quan cao cấp thân cộng của Thái làm cuộc đảo chánh cướp chính quyền,
nhưng nhanh chóng thất bại. Tại Cambodia, chính phủ của thủ tướng Penn Nouth bị
Quốc hội lật đổ, cử Yem Sambaur làm thủ tướng lập nội các mới.
Tại
Pháp, trước hiểm họa cộng sản Trung Hoa nối liền với Đông Dương và tin tình báo
cho hay toán tiền trạm Trung cộng đã chuyển giao tại Bình Liêu giáp Bát Xát
(Lào Cai) cho tướng Chu Văn Tấn số võ khí, phương tiện đủ trang bị cho 13 trung
đoàn vào ngày 20-1-1949, báo hiệu một sự chuyển hướng chiến lược là quân Việt
cộng sắp chuyển từ phòng ngự sang cầm cự và tấn công Pháp, buộc bộ trưởng Pháp
quốc hải ngoại Coste Floret phải bắt đầu hoạch định một chính sách mới đối với
Đông Dương. Ngày 25-1-1949, Floret tuyên bố thành tâm muốn sớm thấy quốc trưởng
Bảo Đại về nắm quyền ở Việt Nam. Đang điều đình với Bảo Đại, ngày 22-1-1949 cao
uỷ Pignon phải bay về Sài Gòn để đối phó với tình hình cấp bách.
Trong
tháng 2-1949, nội tình Pháp rối ren cực độ. Chính phủ mới của thủ tướng
Queuille họp liên tục để đối phó với hàng loạt vấn đề về an ninh xã hội, thuế
má, bưu điện, trẻ em phạm tội, mức lương tối đa và tối thiểu đang bị thợ thuyền
đòi hỏi, và đã ra nghị quyết ngày 20-2-1949 nhưng giới thợ thuyền Pháp không
thỏa mãn, tiếp tục đấu tranh mạnh mẽ hơn. Tổng công đoàn Pháp kêu gọi toàn thể
lao động Pháp tổng bãi công. Ngày 19-2-1949, Đảng Cộng sản Pháp lại phát động
bãi công chống đạo luật cấm biểu tình.
Phái đoàn Bảo Đại-Nguyễn Văn Xuân-Nguyễn Phan
Long thấy Pháp đang ở thế kẹt nên càng vận động ráo riết Mỹ và Anh ủng hộ.
Ngày
15-2-1949, Hội đồng Tư vấn Nam Việt ra tuyên bố Nam Việt Nam là một thành phần
không thể tách rời trong nước Việt Nam thống nhất, nhưng những đặc tính của Nam
kỳ phải được kính nể trong Việt Nam thống nhất. Ngày 19-2-1949, phó thủ tướng
Trần Văn Hữu đi cùng Trần Văn Khá và Jacquemart sang Paris để nhấn mạnh điều
này trong cuộc tiếp xúc với Bảo Đại và trong cuộc đàm phán Trần Văn Hữu – Coste
Floret. Hôm sau, 20-2-1949, bộ trưởng hải ngoại Coste Floret hứa sẽ dành cho
Nam Việt được hưởng nền tự trị rộng rãi trong chính sách Việt Nam thống nhất.
Cục
diện Hoa lục làm cho cuộc thương thuyết Pháp-Việt nhanh chóng vượt qua các trở
ngại kỹ thuật. Ngày 17-2-1949, chánh văn phòng của Bảo Đại là hoàng thân Bửu
Lộc từ Cannes bay về Paris. Ngay tối hôm đó, Bửu Lộc cho đại sứ Mỹ Caffery hay
rằng Bảo Đại sẽ được tổng thống Pháp Vincent Auriol mời lên Paris ký hiệp ước
vào tuần sau, và khi ký xong sẽ về Việt Nam có thể là bằng tàu chiến vào đầu
tháng 4-1949.
Ngày
20-2-1949, nguyên lão nghị viện Pháp Avinin sau chuyến thăm Đông Dương trở về,
ra tuyên bố cho biết: Các vấn đề quân
đội, ngoại giao và tài chính của Việt Nam sắp được giải quyết xong. Ngày
25-2, Chính phủ Pháp cho báo chí Paris công bố nội dung dự thảo thỏa ước
Pháp-Việt.
Ngày
2-3-1949, lãnh đạo Đảng Xã hội Pháp tổ chức cuộc điều đình với các lãnh đạo
Việt Nam: Bảo Đại, Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Phan Long, Trần Văn
Khá...
Ngày
3-3-1949 trong khi tại Sài Gòn, Hội nghị Nam Phần Việt Nam khai mạc và giông tố
lớn nổi lên trong cuộc bàn cãi tại hội nghị để xem xét vấn đề mức độ tự trị Nam
Việt trong nước Việt Nam thống nhất thì tại Paris, quốc trưởng Bảo Đại và tổng
thống Auriol đều tuyên bố là một hiệp ước Pháp Việt dung hòa và thỏa mãn Việt
Nam về các vấn đề ngoại giao, quân sự và lý tài sắp sửa được ký kết.
Ngày
6-3-1949, tình báo Pháp báo cáo: Việt cộng vừa triệu tập một cuộc họp các chỉ huy
quân sự cấp trung đoàn tại Đồng Tháp Mười, hoạch định kế hoạch tấn công trả đũa
việc Bảo Đại hồi hương, vào những ngày không trăng từ 22 đến 28-3. Và sau đó, Việt cộng đã thật
sự đẩy mạnh hoạt động chống phá ở các đô thị và vùng ven đô.
13- Hiệp định Paris 8-3-1949
Cuối
cùng, do tình hình nóng bỏng của thế giới và nội tình nước Pháp, do sức ép gay
gắt của Mỹ – Anh và sự đấu tranh của các lực lượng quốc gia, cuối cùng tổng
thống Vincen Auriol chấp thuận ký kết với quốc tưởng Bảo Đại bản hiệp định
Paris tại điện Elysée ngày 8-3-1949, còn gọi là Hiệp định Elysée. Dự lễ ký về
phía Việt Nam có quốc trưởng Bảo Đại, Trần Văn Hữu, Nguyễn Phan Long, Bửu Lộc,
Vĩnh Cẩn.
Nội
dung đại thể như sau
- Nước Pháp khẳng định Quốc gia Việt Nam là một
quốc gia độc lập, và dân chúng có quyền
tự do quyết định sự thống nhất lãnh thổ của mình.
- Mọi nội dung của bản Hiệp ước bảo hộ 1884 đều
bị bãi bỏ, kể cả việc vua Đồng Khánh nhượng cho Pháp ba thành phố Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng.
- Quốc gia Việt Nam có tổ chức hành chánh và chánh
quyền riêng, chế độ tư pháp riêng, nền tài chánh riêng, quân đội riêng, chế độ
ngoại giao riêng.
- Quốc gia Việt Nam chấp nhận là một quốc gia
liên kết trong Liên hiệp Pháp. Việc liên kết này thể hiện ở chỗ: Về ngoại giao:
Việt Nam phải hợp tác với Pháp. Về quân sự: Việt Nam sẽ có một quân đội riêng
để duy trì trật tự, an ninh nội địa và bảo vệ đế quốc (la défense de l'Empire).
Trong trường hợp tự vệ, có thể được các lực lượng Liên hiệp Pháp yễm trợ
(appuyé par les forces de l'Union francaise). Quân đội Pháp được đóng tại Việt
Nam để phối hợp ngăn chận cộng sản cho đến khi hiểm họa này không còn và được
sự yêu cầu của Chánh phủ Việt Nam rút đi. Quân đội Việt Nam cũng tham dự vào
cuộc bảo vệ biên cương của toàn khối Liên hiệp Pháp. Về tài chánh: Việt Nam
cùng Lào, Cambodia sẽ hợp thành một liên hiệp tiền tệ và quan thuế. Về kinh tế:
Việt Nam phải bảo đảm các xí nghiệp, tài sản, trường học Pháp và phải mời các
cố vấn chuyên viên Pháp trước tiên khi cần đến. Về văn hóa: Việt Nam và Pháp
tăng cường các liên hệ và trao đổi về văn hóa, giáo dục.
Ngay
sau khi ký hiệp ước, tổng thống Auriol gửi cho quốc trưởng Bảo Đại một bản
thông điệp giải thích về vấn đề thống nhất và chế độ ngoại giao của Việt Nam.
Về việc tái nhập Nam Việt vào Việt Nam, tổng thống Pháp tuyên bố nếu Hội đồng
Lãnh thổ Nam Việt biểu quyết đồng ý sáp nhập Nam Việt trở lại Việt Nam thì tổng
thống Pháp sẽ nhanh chóng trình Quốc hội Pháp xem xét biểu quyết phê chuẩn
quyết định đó. Về vấn đề ngoại giao, trước mắt Pháp sẽ hỗ trợ Việt Nam thành
lập đại sứ quán tại Thái Lan, Ấn Độ, Trung Hoa, với các nước khác thì sẽ thực hiện
sau theo yêu cầu và khả năng tự đảm đương của Việt Nam.
Bên
trong hậu trường, bộ trưởng hải ngoại Coste-Floret vận động Quốc hội Pháp nhanh
chóng thông qua đạo luật cho phép thành lập một hội đồng lãnh thổ Nam kỳ
(Assemblée Territoriale de Cochinchine), gồm 12 đại diện người Pháp và 24 đại
diện người Việt, để quyết định số phận Nam kỳ. Mọi viên chức Pháp phải giữ kín
nội dung Hiệp định Paris 8-3-1949 cho tới ngày Bảo Đại về nước, dự kiến vào
ngày 25-4-1949, để tạo ra một kích thích tâm lý (choc psychologique) trong dân
chúng đối với Bảo Đại và chính thể quốc gia; riêng phụ bản các điều thỏa thuận
sẽ chỉ công bố từ ngày 18-6-1949.
Thế
nhưng người Pháp lúc này ai nấy đều đã quá hiểu rõ bộ mặt thật của Hồ và Việt
cộng, vì thế ngày 11-3-1949, Quốc hội Pháp biểu quyết đồng ý quy chế thành lập
Hội đồng lãnh thổ Nam Kỳ với số phiếu 387/193. Dự luật được chuyển tiếp lên
Thượng viện. Hôm sau, là chủ nhật 12-3, Thượng viện thông qua dự luật thành lập
Hội đồng lãnh thổ Nam Kỳ sau vài sửa đổi với số phiếu 185/97. Dự luật được gửi
lại Hạ viện. Hạ viện chấp thuận. Luật được đăng trên công báo ngày 24-3-1949.
14- Nam Việt trở về lãnh thổ
Việt Nam
Ngày
14-3-1949, tổng thống Auriol ban hành Luật tổ chức Hội đồng lãnh thổ Nam Kỳ.
Theo đó, Hội đồng gồm 16 người Pháp với 12 đại biểu nghiệp đoàn và thương gia,
4 hành nghề tự do; và 48 người Việt, trong đó có 8 đại biểu Sài Gòn-Chợ Lớn, 40
đại biểu các tỉnh. Ngày 23-3, thủ tướng Queuille ra nghị định áp dụng Luật tại
Đông Dương.
Ngày
10-4-1949, Chánh phủ Quốc gia và Phủ Cao uỷ triệu tập một danh sách gồm 700 người
Pháp và 1.000 người Việt tiêu biểu trong các giới để bầu ra Hội đồng lãnh thổ
Nam Việt, gồm 54 thành viên, có 14 người Pháp và 40 người Việt. Ngày 24-4, Hội
đồng lãnh thổ Nam Việt họp, nhất trí 54/54 tái nhập Nam Việt vào Việt Nam.
Ngày
13-4-1949, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân ra nghị định thành lập Vệ binh quốc gia
Việt Nam, nhưng đến 1-10-1949 mới triển khai được có 3 đơn vị chiến đấu đầu
tiên là các tiểu đoàn bộ binh số 2, 3 và 18.
Sau khi
ký Hiệp định Paris 8-3-1949, Bảo Đại tiếp tục ở Cannes một thời gian để vận
động chính giới và báo giới Pháp ủng hộ và viện trợ Việt Nam, đồng thời chờ đón
kết quả định đoạt về Nam Việt. Ngày 25-4, sau khi biết được kết quả, Bảo Đại
ghé ngang Singapore rồi 28-4 về tới Sài Gòn, chính thức đảm nhận vai trò quốc
trưởng Quốc gia Việt Nam. Sau cuộc mit tinh của 30.000 dân chúng đón tiếp, Bảo
Đại hội kiến với cao ủy Bollaert và yêu cầu Pháp bàn giao Phủ toàn quyền cũ để
làm trụ sở Chánh phủ Quốc gia Việt Nam và Dinh xã tây làm Tòa đô chánh Sài Gòn,
nhưng Bollaert nói Phủ toàn quyền đang là Phủ cao ủy và Bollaert đang ở nên
Pháp sẽ giao Dinh xã tây trước rồi sẽ tìm một trụ sở xứng đáng làm trụ sở Chánh
phủ sau. Bảo Đại không đồng ý và ngay trong tối 28-4-1949 dẫn một phái đoàn kéo
lên Đà Lạt sử dụng dinh Bảo Đại tại đây làm Dinh quốc trưởng tạm thời để phản
đối Pháp không thật tâm hỗ trợ tân Chánh phủ Việt Nam, đồng thời để chờ kết quả
phê chuẩn vấn đề Nam Việt của Quốc hội Pháp.
Ngay
sau đó Bảo Đại ở Đà Lạt và Chánh phủ Nguyễn Văn Xuân đóng ở Sài Gòn, gấp rút ra
sức phát huy thế lực quốc gia trên các mặt kinh tế, tài chánh, văn hóa, xã hội
và một phần ảnh hưởng ngoại giao, trong khi về chính trị, ngoại giao người Pháp
vẫn cố sức kềm chế và về quân sự vẫn ra sức trì
hoãn việc hỗ trợ phát triển Quân đội quốc gia Việt Nam như đã cam kết
trong Hiệp định Paris 8-3-1949.
Ngày
10-5-1949, ngoại trưởng Mỹ Acheson chỉ thị cho tổng lãnh sự Abbott ở Sài Gòn: Chính
phủ Mỹ muốn giải pháp Bảo Đại thành công vì chẳng còn một lựa chọn nào khác tốt
hơn. Mỹ đang chờ cơ hội thuận tiện để công nhận Quốc gia Việt Nam, cũng như
viện trợ võ khí và kinh tế. Tuy nhiên, Mỹ muốn Pháp có thêm những nhượng bộ cần
thiết trước khi chiến thắng của Mao Trạch Đông tạo ra ảnh hưởng xấu ở Đông
Dương. Với những người quốc gia, nếu Pháp nhân nhượng những điều cần thiết, có
thể thuyết phục họ rằng: 1- Mục đích yêu nước của họ có thể thực hiện được qua
sự thỏa thuận Pháp-Bảo Đại. 2- Chánh phủ Bảo Đại đại biểu đích thực cho Việt
Nam vì có thể bao gồm cả những phần tử không cộng sản hiện đang phục vụ dưới
quyền Hồ Chí Minh. 3- Bảo Đại là giải pháp duy nhất bảo vệ Việt Nam trước những
âm mưu khuynh đảo và xâm lấn của Trung cộng. Cũng cần cảnh báo Bảo Đại về sự
nguy hiểm nếu mời cộng sản tham gia Chánh phủ. Điều Mỹ quan tâm là liệu Chánh
phủ Bảo Đại có thể tồn tại được hay không. Abbott chưa nên đi Đà Lạt tiếp xúc
trực tiếp với Bảo Đại, nhưng có thể tiếp xúc không chính thức với những người
thân cận.
Ngày
20-5-1949, ngoại trưởng Acheson còn chỉ thị lãnh sự tại Hà Nội William Gibdon
đến trình bày thêm với Nguyễn Văn Xuân những điểm sau: Nhìn
vào quá khứ của Hồ Chí Minh, không thể có kết luận nào đúng hơn rằng Hồ là cộng
sản, nếu (1) Hồ không tuyên bố cắt đứt ngay liên hệ với Liên Xô và chủ thuyết
cộng sản, và (2) tiếp tục được báo chí cộng sản ca ngợi cũng như ủng hộ. Hơn
nữa Mỹ không thấy khía cạnh quốc gia nào của Hồ qua lá cờ đỏ sao vàng. Vấn đề
là Hồ vừa là cộng sản gộc, vừa là ngụy quốc gia, chuyên lợi dụng người quốc
gia. Hầu như tất cả những cán bộ môn đệ Stalin ở các nước thuộc địa đều là
người quốc gia. Sau khi đã đạt được mục đích quốc gia, tức giành được độc lập,
thì mục tiêu kế tiếp sẽ là biến quốc gia thành nô lệ cho chủ thuyết cộng sản,
và tận diệt hết không những chỉ những người chống đối, mà cả mọi phần tử bị
nghi ngờ là không đúng đường lối... Nếu mời Hồ và cộng sản gia nhập Chánh phủ
Bảo Đại, chỉ đình hoãn việc Việt Nam trở thành độc lập, hay một vệ tinh cộng
sản cho tới lúc thời cơ của những người quốc gia bị kém sút. Dĩ nhiên trên lý
thuyết, có thể thiết lập một chế độ cộng sản quốc gia kiểu như Nam Tư tại bất
cứ vùng nào ở xa vòng kềm chế của Hồng quân Liên Xô. Nhưng Việt Nam lại đang ở
trong vòng kềm tỏa của Hồng quân Trung cộng. Nếu Pháp đồng ý thực hiện Hiệp
định Elysée một cách cấp tiến, việc quan trọng nhất của Bảo Đại và Nguyễn Văn
Xuân là phải lôi kéo được sự ủng hộ của dân chúng. Cũng như trong trường hợp
Trung Hoa, nước Mỹ không bỏ rơi Chính phủ Tưởng Giới Thạch, mà chỉ vì không thể
cứu vãn từ chính những người quốc gia Trung Hoa đã yếu kém quá mức và không còn
ý chí tranh đấu.
Ngày
2-6-1949, đại sứ Bruce từ Paris điện báo về Washington rằng quốc trưởng Bảo Đại
mong được Mỹ công nhận trên thực tế, được viện trợ kinh tế trực tiếp, và giúp
võ khí qua trung gian Pháp khoảng 50 đến 60 ngàn khẩu súng, đề nghị Mỹ gửi sang
Sài Gòn những phái đoàn thiện chí và nâng Tòa tổng lãnh sự lên Tòa đại sứ.
Ngày
3-6-1949, Quốc hội Pháp biểu quyết nhất trí thông qua Đạo luật phê chuẩn nghị
quyết Hội đồng Nam Việt, bãi bỏ qui chế thuộc địa lãnh thổ Nam Kỳ năm 1867, đưa
Nam Việt trở lại lãnh thổ Quốc gia Việt Nam. Ngày 4-6, tổng thống Auriol ban
hành Luật công nhận Việt Nam thống nhất, đồng thời cho phép báo chí Paris ra
ngày 6-6 đăng một công hàm của Auriol gửi Bảo Đại, khẳng định Quốc hội Pháp đã
thông qua luật sáp nhập Nam Kỳ về Việt Nam, như thế quyền độc lập và thống nhất
của Việt Nam, trong Liên hiệp Pháp đã trở thành sự thật.
Ngày
10-6, Bảo Đại rời Đà Lạt về Sài Gòn, trao đổi văn kiện với cao uỷ Pignon và chủ
tọa buổi lễ ra mắt quốc dân.
15-
Tình hình ngay sau Hiệp định Paris 8-3-1949
Từ năm 1945 mặc dù trở lại Đông Dương nhưng thời cuộc
buộc Pháp phải chấp nhận những mức độ tự trị tăng dần, và đến năm 1949 các quốc
gia Việt Nam, Lào, Cambodia đã trở thành những quốc gia tự trị trong Liên hiệp
Pháp.
Vào đầu năm 1949, tình thế của Chính phủ Quốc dân đảng
Trung Hoa tiếp tục nguy cấp. Đúng vào ngày ký Hiệp định Paris 8-3-1949 giữa Bảo
Đại và Auriol thì tại Quảng Châu, Nội các Quốc dân đảng của thủ tướng Tôn Khoa
từ chức, trong lúc Trung cộng thành lập Chính phủ lâm thời ngày 10-3 tại một
căn cứ giữa sông Dương Tử và đường hỏa xa Lũng Hải. Ngày 25-3-1949, Mao Trạch
Đông tới Bắc Bình và tuyên bố Bắc Kinh là thủ đô của Trung cộng. Trung cộng
quân tiếp tục cuộc Nam tiến với 700.000 quân tiến đánh tả ngạn sông Dương Tử.
Ngày 23-4-1949 Trung cộng chiếm được Nam Kinh; ngày 4-5-1949 chiếm Hàng Châu.
Đội tiên phong Trung cộng quân tới Hán Khẩu ngày 17-5-1949 và Thượng Hải ngày
25-5-1949.
Đến tháng 6-1949, thống chế Diêm Tích Sơn được tổng
thống Lý Tôn Nhân chuẩn y làm thủ tướng cùng với Nội các mới, trong khi Trung
cộng quân ngày càng chiếm được nhiều vùng ở Hoa Nam. Biên giới Bắc Việt Nam trở
thành một biên giới chiến lược của thế giới. Sự phản công lẻ tẻ của Trung quốc
quân như cuộc oanh tạc ngoại vi Thượng Hải vào đầu tháng 7-1949, việc hăm dọa
tấn công tái chiếm Nam Kinh hay cuộc tràn qua sông Dương Tử để phá hậu phương
Trung cộng ngày 4-7-1949 rồi nhanh chóng bị đánh bật trở lại với tổn thất nặng
nề cho thấy tình thế bùng phát trước khi ngọn đèn sắp tắt, không xoay nổi chiều
thất bại của một chính thể sắp suy tàn. Bị thiệt hại nặng nề, 800.000 quân
Trung Hoa dân quốc án binh bất động ở Hoa Nam để chờ Trung cộng quân kéo đến sẽ
tử thủ quyết chiến. Phía Trung cộng thì không ngớt hoạt động, tổ chức lễ 28 năm
thành lập Đảng ngày 2-7-1949 và mời Tống Khánh Linh - phu nhân Tôn Trung Sơn
đến dự. Ngay sau đó, Trung cộng quân tấn công ba mặt vào Phúc Châu (12-7-1949)
và Trường Sa (25-7-1949). Làn sóng đỏ lan tràn khủng khiếp xuống Vân Nam. Ngày
8-7-1949, tỉnh trưởng Vân Nam là Long Vân và bộ sậu tuyên bố ngã theo Trung
cộng, phản lại Trung Hoa quốc dân đảng. Đại tướng Lư Hán, tư lệnh Trung quốc
quân Vân Nam thì đề nghị giảng hòa.
Ngày 6-7-1949, tổng thống Philippines Quirino đứng ra
hô hào thành lập một liên minh chống cộng ở Đông Nam Á. Ngày 9-7-1949, cuộc họp
tại Bagui gồm Quirino, Tưởng Giới Thạch và đại diện Mỹ là đại tướng Mac Arthur
tuyên bố thành lập Minh ước phòng thủ Thái Bình Dương. Bộ Ngoại giao Mỹ bình
luận: Nếu Trung cộng chiếm toàn thể Trung
Hoa thì chiến tranh có thể sẽ lan rộng xuống Đông Nam Á. Ngày 14-7-1949,
Anh điều chiến hạm và hàng không mẫu hạm sang Hong Kong để bảo vệ lãnh thổ này
không bị Trung cộng tấn công. Tình trạng bất an lan xuống Nam Dương. Mối bất
hòa giữa cộng sản Nam Dương và Chính phủ của tổng thống Soekarno và thủ tướng
Hatta ngày càng tăng. Cộng sản Nam Dương hoạt động mạnh ở Zogjikarta. Ngày
8-7-1949, Hòa Lan đòi giao trọn quyền đối phó với cộng sản Nam Dương cho Chính
phủ Soekarno. Thủ tướng Hatta được giao sứ mạng thương thuyết với Chính phủ
cộng sản Nam Dương ngày 8-7-1949 đã chấp nhận một thỏa hiệp nhưng tương lai Nam
Dương vẫn hết sức bất ổn. Tại Calcutta (Ấn Độ), tình hình cũng hỗn độn, cảnh
sát quốc gia và phiến quân cộng sản chạm súng nhau hàng ngày suốt từ tháng 7
đến cuối năm 1949. Tất cả các nước Á châu quanh Trung Hoa đều nhốn nháo vì cộng
họa. Tâm trạng lo ngại càng tăng trong dân chúng Việt Nam, là nơi đang có cuộc
chiến tranh máu lửa giữa Việt cộng và Pháp.
Bối cảnh đó buộc Chính phủ Mỹ càng thúc đẩy Pháp hỗ
trợ Chính phủ Quốc gia Việt Nam phát triển khẩn trương và toàn diện hơn. Ngày
10-5-1949, viên lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn theo chỉ thị của Bộ Ngoại giao đến gặp
cao ủy Bollaert nói rằng: Mỹ nhận
thấy những khó khăn quân sự của Pháp ở Đông Dương ngày càng tăng. Đà thắng lợi
của Trung cộng chỉ còn thời gian ngắn
nữa thôi sẽ tác động đến xứ này. Quân Tàu đỏ đã vượt sông Trường Giang, vì vậy,
Mỹ đã sẵn sàng hơn để viện trợ cho Đông Dương, sẵn sàng công nhận Chánh phủ Bảo
Đại, sẵn sàng chấp nhận viện trợ võ khí và tài chánh nếu Chánh phủ Việt Nam yêu
cầu, miễn là phía Pháp phải làm sao cho Bảo Đại có thể, bằng mọi nỗ lực chứng
tỏ khả năng tổ chức và điều hành công việc một cách hữu hiệu để tiếp tục giữ
vững sự ủng hộ tối đa cần thiết của dân chúng. Nhưng một khi vấn đề viện trợ
được đem ra thảo luận, chắc chắn Quốc hội Mỹ khó có thể ủng hộ một chánh phủ
hoàn toàn lệ thuộc về quân sự và ngoại giao vào Pháp. Bởi vậy, Mỹ cho rằng phiá
Pháp phải tiếp tục có những nhân nhượng cần thiết để làm cho Chánh phủ Bảo Đại
có sức thu hút hơn nữa đối với các phần tử quốc gia.
Bollaert cấp báo về Paris. Ngày 17-5-1949 tổng thống
Auriol cấp tốc thành lập một đoàn thanh tra quân sự do đại tướng Georges
Revers, tham mưu trưởng Quân lực Pháp dẫn đầu sang thanh tra tình hình Đông
Dương để kiến nghị biện pháp đối phó thích hợp. Một tháng sau, ngày 15-6-1949,
Revers gửi lên một báo cáo hết sức bi quan về tình hình châu Á và Đông Dương và
kiến nghị Paris nên đặt chiến lược của Pháp ở Đông Dương trong chiến lược chung
của Mỹ ngăn chận cộng sản ở Đông Nam Á.
Trong tháng 6-1949 tại Pháp và Việt Nam, tất cả báo
chí đều đồng loạt đăng bài yêu cầu phải giải quyết hòa bình tại Đông Dương
trước khi Trung cộng áp tới biên giới. Các báo chí của cộng sản tổ chức tại Sài
Gòn và Paris cũng yêu cầu Chính phủ Pháp phải thương lượng với cộng sản dù tỏ
ra hã hê trước thắng lợi của phe cộng sản quốc tế và ra sức đả kích Chánh phủ
Bảo Đại - Nguyễn Văn Xuân. Bảo Đại tuyên bố tạm cầm quyền dưới danh hiệu quốc
trưởng trong khi chờ thành lập Quốc hội và ban bố hiến pháp.
V- Thời kỳ quốc trưởng Bảo Đại trực tiếp điều hành ChÁnh phủ
1- Nội
các Bảo Đại (1949-1950)
Ngày 13-6-1949, Bảo Đại từ Đà Lạt về Sài Gòn, tham dự
buổi lễ mit tinh biểu dương lực lượng của 40.000 dân chúng ở Sài Gòn và các
tỉnh lân cận hoan nghênh Chánh phủ Quốc gia. Sau đó quốc trưởng Bảo Đại đi cùng
ủy viên cộng hòa Pháp ở Nam Việt (1949-1950) là Chanson, tổng trấn Nam phần
Trần Văn Hữu, giám đốc Nha Học chánh Nam phần Nguyễn Thành Duy đi thăm các
trường Pétrus Ký, Gia Long và phát biểu tại nhiều khu đông người ở Sài Gòn để
cổ động thanh niên gia nhập Quân đội quốc gia.
Cũng trong ngày 13-6-1949, quốc trưởng Bảo Đại ra dụ
qui định bộ máy hành chánh quốc gia Việt Nam, theo đó Việt Nam chia thành 64
tỉnh và ba phần: Bắc Phần Việt Nam có 27 tỉnh, Trung Phần có 16 tỉnh, Nam Phần
có 21 tỉnh. Các đô thị cũng được sắp xếp lại. Thí dụ như thành phố Hà Nội gồm
có hai quận nội thành (quận 1 và quận 2) và 3 quận ngoại thành (quận 4, 5, 6).
Ngày 14-6-1949, Bảo Đại chủ trì buổi lễ chính thức
tuyên bố tư cách quốc trưởng Quốc gia Việt Nam gồm ba phần Bắc, Trung, Nam và
khẳng định Quốc gia Việt Nam là thành viên của Liên hiệp Pháp. Dinh quốc trưởng
Bảo Đại đóng tại Phủ cao ủy cũ và đổi thành Dinh quốc trưởng. Ngày 16-6-1949,
Phủ toàn quyền (cũ) ở Hà Nội cũng được trả về Chánh phủ Việt Nam và đổi thành
Biệt điện quốc trưởng.
Một hôm, quốc trưởng Bảo Đại bỗng quyết định kiêm
nhiệm chức thủ tướng trực tiếp điều hành Chánh phủ. Ngày 20-6-1949, toàn thể
Nội các Nguyễn Văn Xuân tuyên bố từ chức.
Ngày 1-7-1949, quốc trưởng Bảo Đại ký sắc lệnh số 1-CP
công bố danh sách Chánh phủ Quốc gia Việt Nam, hoạt động đến 18-1-1950.
- Quốc trưởng kiêm thủ tướng: Bảo Đại.
- Phó thủ tướng kiêm tổng trưởng Bộ Quốc phòng: trung
tướng Nguyễn Văn Xuân.
- Tổng trưởng Phủ thủ tướng kiêm Bộ Nội vụ: Vũ Ngọc
Trân.
- Bộ trưởng Phủ Thủ tướng kiêm tổng thư ký Chánh phủ:
Đặng Trinh Kỳ.
- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng: Trần Quang Vinh.
- Tổng trưởng Bộ Ngoại giao: Nguyễn Phan Long.
- Bộ trưởng Bộ Ngoại giao: Lê Thăng.
- Tổng trưởng Bộ Tư pháp: Nguyễn Khắc Vệ.
- Tổng trưởng Bộ Quốc gia kinh tế và kế hoạch: Trần
Văn Văn.
- Tổng trưởng Bộ Lao động, canh nông và xã hội: Phan
Khắc Sửu.
- Tổng trưởng Bộ Tài chánh: Dương Tấn Tài.
- Tổng trưởng Bộ Thương mại và kỹ nghệ: Hoàng Cung.
- Tổng trưởng Bộ Công chánh, giao thông và kiến thiết:
Trần Văn Của.
- Tổng trưởng Bộ Quốc gia giáo dục: Phan Huy Quát.
- Tổng trưởng Bộ Thanh niên và thể thao: Nguyễn Tôn
Hoàn.
- Tổng trưởng Bộ Y tế: Nguyễn Hữu Phiếm.
- Tổng trưởng Bộ Thông tin: Trần Văn Tuyên.
Ngày 3-7-1949, quốc trưởng Bảo Đại ký sắc lệnh số
4-CP, bổ nhiệm
- Thủ hiến Bắc Việt: Nguyễn Hữu Trí.
- Thủ hiến Trung Việt: Phan Văn Giáo.
- Thủ hiến Nam Việt: Trần Văn Hữu.
quốc trưởng Bảo Đại ký dụ ban hành Quy chế tổ chức công quyền và Quy
chế công sở; sau đó chính phủ ban hành tiếp các luật, sắc lệnh về Quy chế công
chức (14-7-1950), Quy chế nghiệp đoàn (16-1-1952), Quy chế Hội đồng Đô thành
(27-12-1952), sắc lệnh số 10/TP về Quy chế ngạch thẩm phán v.v…
Ngày
2-7-1949, Chính phủ Bảo Đại triệu tập cuộc họp khoáng đại gồm 100 đại biểu Bắc
phần, 100 đại biểu Trung phần, 100 đại biểu Nam phần, bàn việc lựa chọn thủ đô.
Tán thành với nhận định do quân Việt cộng hoạt động mạnh ở Bắc Việt thường
xuyên uy hiếp an ninh Hà Nội, nên hội nghị nhanh chóng quyết nghị chọn Sài Gòn
là thủ đô Quốc gia Việt Nam. Trong ngày hôm đó, Bảo Đại ra chỉ dụ thành lập bộ
máy tổ chức hành chính các địa phương, các thủ hiến, các bộ, tuyên bố chính
thức hoạt động của Nội các Quốc gia Việt Nam.
Trong
tháng 7, Bảo Đại thực hiện một chuyến vi hành khắp từ Nam chí Bắc để kêu gọi
dân chúng ủng hộ Chính phủ Quốc gia. Ngày 12-7, Bảo Đại trở về Huế ; ngày 14-7
đọc bản Hiệu triệu quốc dân; ngày 16-7 ra thăm Hà Nội. Từ đó, Bảo Đại và Chính
phủ ra sức tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ để thiết lập trọn vẹn chính sách đối
ngoại và nội trị tự chủ, nhất là trong việc thành lập và phát triển Quân đội
quốc gia Việt Nam. Chế độ hoạt động của cao ủy Pháp và các ủy viên cộng hòa
Pháp trên thực tế đến lúc này không còn nữa. Chính phủ hoàng gia ở vương quốc
Lào cũng nắm trọn vẹn chính quyền chính trị, kinh tế từ 19-7-1949, ở Cambodia
từ 8-11-1949. Tuy nhiên quân lực Pháp vẫn tiếp tục đóng vai trò chủ chốt đánh
nhau với cộng sản trên khắp chiến trường Đông Dương. Cao ủy Pháp Pignon vẫn là
người có tiếng nói quyết định cuối cùng trên mọi vấn đề.
2- Yêu sách lãnh thổ của
Norodom Sihanouk
Từ
tháng 7-1949, Chính phủ Cambodia do Norodom Sihanouk đứng đầu bắt đầu tuyên bố
đòi các tỉnh Sóc Trăng, Rạch Giá, Trà Vinh ở miền Nam. Báo giới Việt Nam khuyên
Cao Miên nên củng cố độc lập trước đi và trước khi rời nhiệm sở, ủy viên cộng
hòa Pháp De Rayward cũng khuyên Cao Miên lo lập lại trật tự trong xứ trước hết.
Không có hậu thuẫn nên chiến dịch yêu sách lãnh thổ của Cambodia nhanh chóng
chìm xuống, nhưng từ đó trở đi, thỉnh thoảng vẫn bùng phát trở lại và vấn đề
biên giới luôn là một trong những trở ngại chính trong quan hệ Việt Nam -
Cambodia.
3- Nguy cơ Trung cộng ở Viễn
Đông
Sau khi
xem bản báo cáo bi quan của đại tướng Pháp Revers, ngày 20-7-1949, tổng thống
Mỹ Truman triệu tập một cuộc họp đánh giá và bàn đối sách về tình hình Viễn
Đông. Dự họp ngoài các lãnh đạo Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, còn có
Roscoe Hillen Koether- thủy sư đô đốc,
tân giám đốc đầu tiên của Cục Tình báo trung ương- CIA mới được thành lập. Sau
các báo cáo của Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, CIA, tổng thống Truman kết luận: Ông bộ
trưởng Ngoại giao căn cứ những kết luận của tôi sau đây để chuẩn bị báo cáo
trước Hội đồng An ninh quốc gia và trước Quốc hội:
1- Nguy cơ Tàu Đỏ là một vấn đề cấp bách, Trung
Hoa dân quốc có thể sụp đổ sớm, thậm chí trong năm nay. Phải ủng hộ Tưởng Giới
Thạch, dùng lực lượng còn lại của Trung Hoa làm chỗ dựa đối phó với Trung Cộng
sau này.
2- Quân Tàu Đỏ tiến xuống biên giới phía Nam là
mối nguy cơ to lớn đối với Pháp. Có thể họ vượt qua biên giới, cũng có thể
không. Khả năng thứ hai có nhiều hơn vì nếu Tàu Đỏ vào Đông Dương thì họ biết
rõ là Mỹ cũng phải vào đó để ngăn chận, nếu không sẽ mất cả châu Á vào tay cộng
sản. Dù sao cũng phải ngăn chận làn sóng đỏ lại, ít nhất cũng ở biên giới Trung
Hoa - Đông Dương.
3- Chúng ta không còn con đường nào khác là hợp
tác với Pháp ủng hộ Chánh phủ Bảo Đại. Việc thuyết phục Ngô Đình Diệm cộng tác
với Chánh phủ Quốc gia Việt Nam cần được tiến hành vì Diệm là người vừa chống
cộng vừa chống thực dân rất có uy tín.
4- Hãy nói với người Pháp là chúng ta sẽ hành
động như thế, rằng Mỹ sẵn lòng ủng hộ chính sách của Pháp với Chánh phủ Bảo Đại.
Nói cụ thể là sẽ công nhận Chánh phủ Việt Nam về mặt ngoại giao, viện trợ về
kinh tế và quân sự. Mục tiêu tối thượng là cùng thế giới tự do ngăn chận làn
sóng đỏ. Nói một cách hình tượng, bằng những tảng đá viện trợ của chúng ta, con
đê Quốc gia Việt Nam phải đứng vững để làm chức năng ngăn chận cộng sản tiến xuống
phía Nam Á. Chúng ta sẽ làm tất cả, vì lợi ích của cả nhân loại thế giới tự do.
Người Pháp phải ủng hộ một chánh phủ Bảo Đại mạnh để cùng giữ cho được Đông
Dương hoặc là họ sẽ mất tất cả. Phải làm mọi cách cho người Pháp thấy rằng cuộc
chiến tranh chống cộng là sự nghiệp chung của thế giới tự do, là trách nhiệm
của chúng ta và cả họ nữa.
Ngày
4-8-1949, ngoại trưởng Pháp Cosh Floret
sang Đông Dương để nghiên cứu tại chỗ tình hình khẩn trương của Đông Dương. Sau
đó, 3-7-1949 đại tướng Revers đi thị sát tình hình quân sự tại Đông Dương đã đề
ra chương trình xây dựng một vạn lý trường thành ở Bắc Việt để khoá chặt biên
cảnh Việt Hoa. Mặt khác, ngày 1-7-1949 Revers tuyên bố muốn giao phó cuộc bình
định Nam Việt cho binh sĩ Chánh phủ Bảo Đại và gọi thêm 11 trung đoàn viện binh
Pháp sang Việt Nam tăng cường phòng thủ Bắc Việt.
Tại
Trung Hoa, Trung cộng chiếm Trường Sa ngày 31-7-1949, ngày 1-8-1949 đánh bại
đạo quân Hồi giáo của tướng Mã Hồng Quì và chiếm nhiều thị trấn ở Hoa Tây. Tại
phía Đông, ba đạo quân của tướng Trần Nghị tấn công Phúc Châu ngày 19-8-1949 để
chặn đường ra biển của Trung quốc quân, rồi chiếm Phúc Kiến, cách biên giới
Quảng Đông chỉ 25 cây số. Ngày 18-8-1949, sứ quán Mỹ ở Quảng Châu phải đóng
cửa. Ngày 24-8 Tưởng Giới Thạch ngao ngán về thăm Trùng Khánh để bàn kế sách sẽ
tổng phản công Quảng Châu và phong tỏa
miền duyên hải (26-8-1949) hoặc tảo thanh Hải Nam. Nhưng, ngày 26-8-1949,
15.000 quân Trung cộng chiếm được Hải Nam. Ngày 15-8-1949, thủ tướng Nehru
tuyên bố Ấn Độ trung lập không muốn xen vào nội bộ các lân bang. Ngày 5-8-1949,
Bộ Nội vụ Mỹ lưu hành cuốn Bạch thư xác định thái độ của Mỹ tỏ ý hoài nghi sức
chịu đựng và chiến thắng của Chính phủ Trung Hoa dân quốc.
Ngày
31-8-1949, tổng tư lệnh Quân đội Anh đích thân thị sát và tổ chức kỹ lưỡng cuộc
phòng thủ Hong Kong, trong khi tổng ủy viên Anh Mc Donald hội đàm với đại tướng
Mỹ Mc Arthur tình hình phòng thủ Đông Nam Á, sau đó sang thăm Việt Nam và một
loạt nước Đông Nam Á để thống nhất biện pháp đối phó với Trung cộng tại Trung
Hoa.
Ngày 5-9-1949,
nhân dịp lễ kỷ niệm ngày Nhật đầu hàng, tổng thống Lý Tôn Nhân kêu gọi các nước
dân chủ trên thế giới giúp đỡ Trung Hoa chống cộng. Nhưng đến 15-9-1949, Lưu Bá
Thừa chỉ huy Trung cộng quân tấn công mạn đông nam Giang Tây. Ngày 19-9-1949,
một đơn vị Trung cộng quân đột nhập Quảng Đông. Ngày 21-9-1949, Mao Trạch Đông
tuyên bố thành lập chính thể Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngày 25-9-1949, Trung
cộng quân tấn công Hồ Nam từ ba mặt và làm chủ trọn tuyến đường sắt Việt Hán
sau khi chiếm được Giang Khẩu. Ngoài ra, khu vực cuối cùng trên lục địa này mà
Quốc dân đảng mong lui về làm căn cứ trường kỳ kháng chiến là Vân Nam cũng đang
đối đầu lại Tưởng. Nguyên tổng đốc Vân Nam là
Long Vân phản bội, gửi thư cho Lư Hán kêu gọi đầu hàng và hiệu triệu dân
chúng Vân Nam theo Trung cộng quân chống lại Quốc dân đảng.
Ngày
3-9-1949, có ba chi đội công binh Quốc dân đảng ở Côn Minh nổi loạn và đích
thân đại tướng Lư Hán, tư lệnh quân Quốc dân đảng tại Vân Nam cũng ngã theo
loạn quân. Tưởng Giới Thạch vội cử phái viên tiếp xúc Lư Hán để mong dàn xếp ổn
thỏa. Ngày 7-9-1949, tướng Lư Hán tuyên bố vẫn trung thành với Chính phủ Quảng
Châu nhưng tình hình Vân Nam sắp sửa thoát khỏi tầm kiểm soát của Chính phủ
Quốc dân đảng.
Ngày
15-9-1949, Tưởng Giới Thạch bị ám sát hụt ở Trùng Khánh
Ngày
1-10-1949, Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập (gọi tắt là Trung
cộng) do Mao Trạch Đông làm chủ tịch và đến 3-10-1949 được Liên Xô tuyên bố
thừa nhận; đến 6-10-1949 có thêm Tiệp Khắc, Hungaria, Ba Lan, Nam Tư ủng hộ.
Ngày
17-10-1949, quân Trần Nghị đổ bộ lên hải cảng Hạ Môn. Ngày 23-10-1949, ba tướng
Lâm Bưu, Bành Đức Hoài, Lưu Bá Thừa hợp quân vào đánh Tứ Xuyên. Ngày
27-10-1949, Quốc dân đảng dời nhân viên và tài liệu về Côn Minh vì ngày
28-10-1949 Trung cộng quân đến tới ngoại ô Quảng Châu Loan và trung tướng Trần
Canh đang sửa soạn tảo thanh tàn quân Quốc dân đảng tại đảo Hải Nam sau khi
Trung quốc quân thất trận phải rút khỏi bán đảo Lôi Châu ngày 24-10-1949. Ngày
27-10-1949, Trung quốc quân đề ra kế hoạch đặt Bắc Việt Nam vào khu vực phòng
thủ kháng chiến của mình nhưng thực trạng biên giới Việt Nam là một vấn đề gay
cấn hơn nhiều so với dự kiến kế hoạch của họ.
Tháng
11-1949, Trung cộng quân ồ ạt tiến công xuống vùng biên cảnh Hoa-Việt. Ngày
25-11-1949, cao ủy Đông Dương Pignon tuyên bố không tin Trung cộng dám vượt qua
biên giới và nói thêm nếu họ cứ vượt qua thì Pháp sẽ tấn công và kêu gọi Liên
Hiệp quốc can thiệp chống lại. Quốc dân đảng Trung Hoa dần dần mất hết các địa
điểm cuối cùng trên lục địa là Nam Ninh, Bắc Hải, Đông Hưng (11-12-1949) ở vịnh
Bắc Việt. Tại Vân Nam, tướng Lư Hán liệu thế gió xoay chiều đã bỏ chủ cũ mà ngã
theo Trung Cộng từ 7-12-1949. Thành phố Trùng Khánh đổi chủ một cách êm đềm.
Tướng Trung cộng Lưu Bá Thừa đánh qua Thành Đô. Thủ tướng Diệm Tích Sơn của
Trung quốc quân chạy sang Tây Khang (14-12-1949) - ổ kháng chiến cuối cùng và
từ chức. Ngày 15-12-1949, Tưởng Giới Thạch ra lệnh rút toàn lực dồn ra đảo Đài
Loan, chấm dứt chế độ Trung Hoa dân quốc trên lục địa, mà không biết đến bao
giờ mới khôi phuc lại được.
Năm
1949, thế giới không chỉ lo ngại vì thời cuộc Trung Hoa mà còn chấn động hơn
khi ngày 23-9-1949, tổng thống Truman cho hay là Liên Xô đã cho thử nổ thành
công ba quả bom nguyên tử vào tháng 7-1949. Ngày 1-10, Nga thừa nhận mình đã có
bom nguyên tử. Đầu tháng 10-1949, đồng lia Anh sụt giá báo hiệu sự kiệt quệ
kinh tế của Anh bắt đầu. Đồng franc Pháp ngã theo đồng lia làm cho các vấn đề
lương bổng và vật giá càng thêm gay gắt, ngân sách đã thiếu hụt trong khi chiến
phí Đông Dương càng tăng dữ dội, vì thế làm khủng hoảng Nội các Pháp hạ tuần
tháng 10-1949.
5- Củng cố chế độ quốc gia Việt
Nam
Từ
tháng 3 đến tháng 8-1949, quân viễn chinh Pháp tổ chức nhiều cuộc hành quân ở
Bắc Việt, miền Phủ Lạng, Đáp Cầu, Bắc Ninh. Tại Nam Việt, ngày 15-1-1949, Pháp
phong tỏa Bassac và tấn công Đồng Tháp Mười. Việt cộng tại đây rút về sát biên
giới sau khi phá hủy các di tích Tháp Mười. Đến 23-8, Pháp lại tổ chức cuộc
hành binh lấy Phúc Yên, Vĩnh Yên, Tam Đảo làm mục tiêu. Đáp lại, quân Việt cộng
tại miền Trung đặt mìn phá hủy đường xe lửa Sài Gòn - Nha Trang ngày 16-8-1949,
rồi tấn công đoàn xe Pháp trong vùng Cap Varella và hoạt động mạnh mẽ ở tây bắc
Mỹ Tho, Vàm Cỏ, gần Rạch Giá, An Phú Đông và nhất là ở Bắc Việt.
Ngày
28-8-1949, thủ tướng Bảo Đại ra thông cáo: Việt
Nam sẽ chống cộng mạnh mẽ với sự giúp đỡ của Pháp. Tháng 9-1949, tổng thống
Mỹ tuyên bố cho phép tướng Mc Arthur trả 37 triệu đô la cho Đông Dương trong số
80 triệu đô la Mỹ quản lý tiền Nhật lấy ở Việt Nam và Thái Lan khi trước. Tại
Pháp, các nhân vật trong giới quân sự và chính trị đi thị sát tình hình Viễn
Đông về tạo ra nhiều sôi nổi trong dư luận. Bản báo cáo mật ngày 15-6-1949 của
đại tướng Revers về tình trạng bi quan ở Viễn Đông bị tiết lộ, gây ra một vụ án
sôi nổi. Bản phúc trình ngày 16-9-1949 của bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại Coste
Floret cũng gây cuộc bàn cãi gay gắt về vấn đề tăng cường quyền hành chánh cho
Chánh phủ Quốc gia Việt Nam. Tại Sài Gòn, Ủy ban thi hành hiệp định 8-3-1949
nhóm phiên đầu tiên ngày 2-9-1949 thống nhất nhiều vấn đề quan trọng và cục
diện tỏ ra tiến triển tốt đẹp. Tại vùng Hậu Giang, quân kháng chiến Cao Đài và
Hòa Hảo lại xảy ra cuộc đụng độ lớn vào đầu tháng 8-1949 để giành quyền kiểm
soát lãnh thổ, tuy nhiên vụ việc được giải quyết nhanh chóng ổn thỏa.
Ngày
21-9-1949, Chánh phủ Quốc gia bắt đầu thực hiện chính sách cải tổ hành chính
Nam phần. Ngày 24-9-1949, quân Pháp hành quân tại vùng phụ cận Sông Thao. Hiệp
ước Pháp Lào thì ký ở Paris giữa thủ tuớng Sisavong Vathana ngày 28-9-1949 và
hiệp ước Pháp-Cambodia ký ngày 1-9-1949 giữa thủ tướng Yum Sambour với Pháp
tuyên bố nhìn nhận Lào và Cambodia độc lập.
Rồi do
nội tình và thời cuộc rối beng, ngày 5-10-1949 thủ tướng Pháp Henri Queuille
tuyên bố từ chức. Cuộc khủng hoảng nội các kéo dài một tháng. Đến 28-10-1949 thủ
tướng Georges Bidault lập xong nội các mới, nhưng tiếp tục chao đảo trước sóng
gió thời cuộc. Có sự kích động của Đảng Cộng sản Pháp, công nhân Pháp vẫn liên
tiếp đình công, biểu tình. Ngày 23-11-1949, thủ tướng Bidault kêu gọi giới lao
động Pháp đừng nghe theo lệnh đình công của Đảng Cộng sản Pháp nhưng ngay hai
hôm sau lại có cuộc đình công 24 giờ khắp cả nước.
Ngày
6-10-1949, Quốc hội Mỹ thông qua chính sách đối ngoại và đạo luật về Chương trình viện trợ phòng thủ hỗ tương
(Mutual Defense Assisstance Program - MDAP). Đoạn mở đầu của đạo luật
không những cam kết ủng hộ đối với khối
NATO mà còn xác định sẽ phát triển hiệp ước phòng thủ chung Đông Nam Á chống
cộng sản quốc tế. Từ tháng 10-1949 công cuộc chuẩn bị viện trợ kinh tế và quân
sự cho các nước Đông Dương và Đông Nam Á được xúc tiến khẩn trương.
Lúc đó
cùng với hiện tình Trung Hoa, quốc tế cũng chăm chú đặc biệt về Việt Nam. Ngày
25-11-1949, báo Manchester Guardien hô hào xem xét lại vấn đề Việt Pháp. Nhiều
người muốn nhờ thủ tướng Ấn Độ Nehru làm trung gian hòa giải chiến cuộc
Việt Pháp nhưng báo chí Pháp lại tỏ ra
bi quan vì cho rằng Nehru thân Việt cộng, vả lại lúc này Việt cộng đang hả hê
với thắng lợi của Trung cộng, tạo thế lực cho mình vững chắc hơn thì không dễ
gì Việt cộng chịu hòa giải trong thế yếu. Quân Việt cộng không ngừng đẩy mạnh
hoạt động, nhất là ở Bắc Việt, mở nhiều cuộc tấn công trong vùng Cao Bằng, Hải
Dương (18-11-1949) và đóng quân hai nơi gần Vĩnh Yên (25-11-1949). Riêng tại
các đô thị lớn Trung-Nam-Bắc, phong trào
bãi khóa của học sinh do Việt cộng chỉ đạo cũng gây dư luận xôn xao vào hạ tuần
tháng 11-1949. Đầu tháng 12-1949, một đoàn công voa Pháp bị tấn công ở tây bắc
Móng Cái. Quân Việt cộng cũng tấn công vào xứ đạo Phát Diệm (10-12-1949), Hòa
Bình, Hải Phòng, Phố Lu Lào Cay (18-12-1949), Cầu Kè, Vĩnh Long (8-12-1949).
Trước những biến cố xảy ra, ngoại trưởng Pháp Schuman tuyên bố ngày 18-12-1949:
Pháp quyết giữ lập trường ở Việt Nam vì nếu quân Pháp thoái lui sẽ mang tiếng là
sợ Trung cộng và làm lợi cho Việt cộng, nên quân Pháp vẫn giữ vững các vị
trí bị tấn công. Ngày 14-12-1949, Chính phủ Pháp chi 100 tỉ franc thay đổi hàng
loạt khí cụ đã cũ trong lúc ngân sách thâm thủng 20 triệu franc và phải tinh
giảm 20.000 công chức để tiết kiệm 8 tỉ franc.
Giữa
lúc Mỹ thảo luận với Pháp một điều khoản qui định không cho Pháp đem những vũ
khí Mỹ giúp Pháp sang dùng ở Việt Nam, thì trong một cuộc hội đàm ở Washington
ngày 13-12-1949 về Việt Nam, Pháp yêu cầu chuyển số 75 triệu đô la dành viện
trợ Trung Hoa quốc dân đảng chuyển sang cho Việt Nam. Lúc đó, thái độ khối NATO
không rõ rệt, việc thừa nhận tình thế ở Trung Hoa nửa muốn, nửa không. Dư luận
nhiều nơi thì nhao nhao nổi dậy theo cộng sản chống chính quyền. Hàng loạt bộ
trưởng cánh tả hăm he từ chức để làm sụp đổ Chính phủ Bidault.
Từ
12-12-1949, Pháp và Ba Lan thi nhau đuổi
đại diện ngoại giao nước kia về nước, đầu tiên vì lý do sứ giả Ba Lan kích động
và tài trợ biểu tình chống chính quyền và chiến tranh Đông Dương. Ngày
8-12-1949, Thượng viện Mỹ họp khẩn cấp nghiên cứu tình hình Viễn Đông. Tổng
thống Truman tuyên bố chỉ quyết định thái độ với Việt Nam và Đông Nam Á sau
cuộc hành trình nghiên cứu của đặc sứ lưu động Jessup ở Viễn Đông từ
13-12-1949. Tại Pháp, dân bốc vác tàu Marseille thực hiện chỉ huy của Đảng Cộng
sản từ chối bốc vác các võ khí tiếp tế cho chiến trường Đông Dương. Ngày
6-12-1949, Hội đồng tổng trưởng Pháp thông qua dự luật phê chuẩn Hiệp định
Elysée 8-1-1949 đưa tiếp lên Quốc hội phê chuẩn thành luật.
Vào
cuối năm 1949, kế hoạch Marshall phục hưng châu Âu khởi động từ năm 1947 đã
thành công. Khối Tây Âu phát triển mạnh kinh tế, xã hội. Riêng với Pháp từ
tháng 7-1945 đến 7-1948 đã nhận viện trợ Mỹ 1,9 tỉ đô la để khôi phục kinh tế
và đánh bại được Đảng Cộng sản Pháp ra khỏi chính trường. Tuy nhiên, hệ thống
cộng sản tiếp tục là mối đe dọa ngày càng lớn không chỉ ở Pháp mà cả thế giới
tự do. Sau những hoạt động tìm cách đẩy mạnh phong trào cộng sản ở Pháp, Ý, là
những cuộc trấn áp đẫm máu phong trào phản kháng của chính quyền cộng sản với
các lực lượng dân chủ quốc gia ở Tiệp Khắc (2-1948), Berlin (4-1948), Liên Xô
thử thành công bom hạt nhân (7-1949), cộng sản bành trướng ở Triều Tiên, Trung
Cộng, Đông Dương.
Năm
1949 có hai sự kiện quan trọng đã tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới quan hệ Mỹ
Pháp và chính sách của Mỹ ở Viễn Đông. Đó là việc Pháp gia nhập khối NATO, vì
thế có thể nhận được viện trợ quân sự từ Mỹ để ngăn chận cộng sản ở Đông Dương.
Ngoài ra, nguy cơ Trung Cộng chiếm trọn Trung Hoa và tràn xuống Đông Nam Á làm
cho Mỹ thấy rõ sự bức bách phải góp phần vào việc ngăn chận chủ nghĩa cộng sản
ở đây. Sự kiện này làm hình thành nguyên tắc Domino ảnh hưởng đến chính sách
đối ngoại của Mỹ cho đến cuối thế kỷ 20.
Domino
là một loại cờ có 28 quân chơi theo nguyên tắc đặt nối tiếp các quân cờ thành
một chuỗi liên hoàn. Muốn đánh thắng, người chơi phải tính toán đi những nước
cờ như thế nào để ngăn chận không cho đối thủ đặt tiếp quân được nữa. Nguyên
tắc Domino do tổng thống Truman đề ra và sau đó được tổng thống Eishenhower
triển khai mạnh nhất, là dùng viện trợ Mỹ làm quân cờ domino để phát triển lực
lượng quốc gia tại chỗ, ngăn chận sự bành trướng cộng sản tại Viễn Đông, vì nếu
Đông Dương mất vào tay cộng sản thì các quốc gia còn lại ở Đông Nam Á (Thái
Lan, Miến Điện, Tân Gia Ba, Mã Lai Á, Phi Luật Tân, Nam Dương) và các vùng Nam
Á, Tây Á... lần lượt sẽ bị cộng sản xâm nhập và thôn tính theo một chuỗi phản
ứng dây chuyền.
Ngày
30-12-1949, tổng thống Truman triệu tập cuộc họp Hội đồng An ninh quốc gia tại
Bạch Cung. Tài liệu số NSC 48/1 tháng 6-1949 của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ
khẳng định: Nếu Đông Nam Á bị cộng sản chiếm mất thì thế giới tự do sẽ phải chịu đựng một
thất bại to lớn về chính trị mà ảnh hưởng của nó sẽ lan khắp phần còn lại của
thế giới. Kế
hoạch Domino được triển khai cụ thể thành ‘những
chương trình viện trợ các nước chậm tiến’, là điểm thứ tư của chương trình
bốn điểm Truman.
Tại
cuộc họp Hội đồng An ninh quốc gia ngày 30-12-1949 tại Bạch Cung, ngoại trưởng
Mỹ nhắc lại: Mục đích của điểm 4 chương trình Truman là tăng
cường viện trợ của Mỹ phát triển các vùng chậm tiến trên thế giới cho đến khi
nào nhân dân các nơi đó có thể nổi dậy chống lại các mẫu quốc đô hộ. Trong tài liệu NSC 48/1 của
Hội đồng An ninh quốc gia, bộ trưởng Quốc phòng Mỹ công khai biểu lộ: Mỹ ngày
càng lo lắng trước đà tiến công của cộng sản tại nhiều khu vực rộng lớn trên
thế giới. Hành động của Mỹ ở châu Á phải là một bộ phận trong kế hoạch toàn
diện nhằm phục vụ mục tiêu đó. Tài liệu NSC 48/1 nhấn mạnh rằng: Cần
phải dành sự chú ý đặc biệt đối với Đông Dương, là một nơi mà Mỹ cần có hành
động thuyết phục để người Pháp thấy sự cần thiết phải vứt bỏ các chướng ngại để
Chính phủ Bảo Đại và lác lãnh tụ quốc gia không cộng sản khác có thể phát huy
sự ủng hộ của đa số dân chúng Việt Nam trong cuộc ngăn chận cộng sản.
Kết
thúc cuộc họp Hội đồng An ninh quốc gia 30-12-1949, tổng thống Truman kết luận:
Để ngăn
chận sự bành trướng hơn nữa của cộng sản ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương
1- Mỹ sẽ cùng các phần tử lãnh đạo quốc gia ở khu
vực này thành lập các khối liên hiệp khu vực và giúp đỡ họ đạt tới các mục tiêu
phù hợp với chính sách của Mỹ.
2- Mỹ phải hoạt động để phát triển và củng cố an
ninh khu vực, chống lại sự xâm luợc của cộng sản từ ngoài vào và hoạt động lật
đổ từ bên trong, bằng cách viện trợ và cố vấn kinh tế, chính trị và quân sự ở
những nơi cần thiết, để bổ sung cho sức đề kháng của các đồng minh châu Á ở
trong hoặc ngoài khu vực trực tiếp bị đe dọa của cộng sản. Điều chú ý là phải
hạn chế tới mức tối thiểu sự căng thẳng trong quan hệ với các cường quốc thực
dân vốn là đồng minh phương Tây của Mỹ.
3- Phải đặc biệt chú ý đến bán đảo Đông Dương.
Trước mắt phải thuyết phục người Pháp và cùng với họ giúp đỡ Chánh phủ quốc gia
Bảo Đại và những người cầm đầu phong trào quốc gia khác được sự ủng hộ tối đa
của dân chúng Đông Dương. Biện pháp thực hiện đường lối trên phải tùy đối
tượng, tùy điều kiện cụ thể mà vận dụng: bằng an ninh tập thể, nếu người châu Á
sẵn sàng; bằng hợp tác với các đồng minh châu Âu và các nước trong Liên hiệp
Anh nếu có thể được; bằng hình thức song phương với từng chính phủ châu Á nếu
cần thiết.
VI-
Thời kỳ thủ tướng Nguyễn Phan Long (1950)
1- Nội các Nguyễn Phan Long
Những
ngày đầu năm 1950, cục diện châu Á hết sức khẩn trương. Trung cộng quân đã áp
sát biên giới Việt Nam, nối liền với vùng kiểm soát của Việt cộng. Ngày
18-1-1950, Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, rồi trong tháng 1-1950, tất
cả các nước cộng sản đều lần lượt công khai thiết lập quan hệ ngoại giao với
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Từ đó, Trung Cộng ồ ạt viện trợ công khai cho quân
Việt cộng đẩy mạnh đánh Pháp, mở rộng vùng kiểm soát. Ngày 20-1-1950, Bộ Ngoại
giao Mỹ công bố chính sách về Đông Dương, trong đó nêu rõ sự lo lắng trước
những hoạt động quân sự ngày càng tăng của Việt cộng, nhất là trong những vùng
của Chính phủ Quốc gia Việt Nam và tuyên bố sẵn sàng công nhận ngoại giao với
Chính phủ Quốc gia Việt Nam đang được sự ủng hộ ngày càng tăng của dân chúng.
Ngày
6-1-1950, quốc trưởng kiêm thủ tướng Bảo Đại quyết định cử Nguyễn Phan Long làm
thủ tướng. Nguyễn Phan Long đang là tổng trưởng Ngoại giao, có quan hệ rộng rãi
với chính trường Pháp và nhất là với Mỹ, nên theo Bảo Đại có thể thúc đẩy mạnh
mẽ quan hệ đối trọng cân bằng giữa Mỹ và Pháp, tranh thủ sự ủng hộ của hai thế
lực mạnh mẽ này phát triển Quốc gia Việt Nam.
Ngày
18-1-1950, Nội các Nguyễn Phan Long được quốc trưởng Bảo Đại chuẩn y, hoạt động
đến ngày 6-5-1950.
- Thủ
tướng kiêm tổng trưởng Bộ Ngoại giao: Nguyễn Phan Long.
- Phó
thủ tướng: Nguyễn Văn Xuân.
- Tổng
trưởng Bộ Quốc phòng: Phan Huy Quát.
- v.v..
Chính phủ Nguyễn Phan Long tranh thủ tối đa sự
ủng hộ của Mỹ để sớm giành quyền tự chủ về mọi mặt và phát triển đội Vệ binh
quốc gia lên 50.000 người.
2- Hậu thuẫn của Mỹ và Pháp về
độc lập cho Việt Nam
Cuối
tháng 1-1950, tại Quốc hội Pháp diễn ra cuộc tranh cãi gay gắt giữa một bên là
cộng sản cánh tả chủ trương ngừng bắn ngay và công nhận Chính phủ Việt Nam dân
chủ cộng hòa, với bên kia là những người ủng hộ Chánh phủ Quốc gia Việt Nam và
Hiệp định Elysée, do thủ tướng Georges Bidault đứng đầu và các bộ trưởng René Pléven,
Jean Letourneau, Frédéric Dupont ủng hộ. Cuối cùng, Quốc hội Pháp phê chuẩn
thông qua Hiệp định Elysée và công nhận Chánh phủ Quốc gia Việt Nam. Trong số
193 phiếu chống thuộc phe thiểu số, có 181 của các nghị sĩ cộng sản và 12 của
các nghị sĩ cánh tả thuộc các đảng phái khác.
Ngày
2-3-1950, thủ tướng Bidault tuyên bố chính thức công nhận nền độc lập hoàn toàn
của Quốc gia Việt Nam. Hội đàm với thủ tướng Nguyễn Phan Long tại Paris,
Bidault nói: Bây giờ đã là đầu năm 1950, người Pháp đã chán
ngán với cục diện Đông Dương và tôi tự thấy chẳng còn muốn ở lại đây ngày nào
nữa. Tôi mong sao từ ngày mai quân Pháp có thể rút khỏi Đông Dương. Lực lượng
Quốc gia Việt Nam phải chuẩn bị tinh thần cho điều đó. Chúng tôi tự thấy không
còn ích lợi gì khi phải ở lại đây. Người Việt Nam sẽ phải tự mình chống cộng
sản và trong mặt trận đó phải xác định tình huống là không có người Pháp bên
cạnh nữa.
Ngày
1-2-1950, Đài Tiếng nói Hoa Kỳ phát đi tuyên bố của ngoại trưởng Mỹ Akeason: Mỹ hoàn
toàn bất ngờ về việc Liên Xô công nhận Việt Cộng và qua sự kiện này đã chấm dứt
những ảo tưởng bịp bợm về ‘tính chất quốc gia’ trong các mục tiêu của bè lũ Hồ
Chí Minh. Sự kiện đó càng thúc đẩy chính sách của Mỹ nhằm ngăn chận sự tăng
trưởng của chủ nghĩa cộng sản ở châu Á. Bộ Ngoại giao Mỹ hoan nghinh việc Quốc
hội Pháp nhìn nhận chủ quyền cho các nước Đông Duơng, một việc sẽ mở đường để
các nước trên thế giới công nhận các chính phủ hợp pháp này. Thông qua đại sứ
Jessup, Mỹ bày tỏ với quốc trưởng Bảo Đại những lời chào mừng tốt đẹp nhất và
hy vọng mọi quan hệ chặt chẽ hơn nữa sẽ nhanh chóng được thiết lập giữa Chính
phủ Mỹ và Chánh phủ Quốc gia Việt Nam.
Hôm
sau, ngày 2-2-1950 Bộ Ngoại giao gởi lên tổng thống Truman một bị vong lục, đề
nghị chuẩn y sự công nhận ba quốc gia liên kết Đông Dương đang cùng Pháp chống
cộng sản. Ngày 3-2-1950, tổng thống Truman ký luật chuẩn y ngay lập tức.
Ngày
4-2-1950, tổng lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn chuyển tới quốc trưởng Bảo Đại bức công
hàm của tổng thống Truman, trong đó nêu rõ: Chính phủ Mỹ hoan nghênh chào
đón Quốc gia Việt Nam vào cộng đồng quốc gia yêu chuộng hòa bình trên thế giới và được công nhận về mặt
ngoại giao Chánh phủ Quốc gia Việt Nam. Tôi mong đợi sớm có sự trao đổi đại
diện ngoại giao hai nước chúng ta.
Ngay
sau đó, Anh và nhiều nước khác cũng công nhận là trao đổi ngoại giao với Việt
Nam. Đại sứ Mỹ đầu tiên ở Sài Gòn là Donald Heath (1950-54).
Tuyên
bố của Chính phủ Mỹ ngày 7-2-1950 nguyên văn ghi rõ
UNITED STATES RECOGNITION
OF VIET-NAM, LAOS, AND CAMBODIA: Statement by the Department of State, February
7, 1950
(On March 8, 1949, France
signed an agreement with the state of Vietnam under Bao Dai, agreeing to
recognize the independence of Vietnam. Similar agreements were later signed
with Cambodia and Laos.)
The Government of the
United States has accorded diplomatic recognition to the Governments of the
State of Viet Nam, the Kingdom of Laos, and the Kingdom of Cambodia.
The President, therefore,
has instructed the American consul general at Saigon to inform the heads of
Government of the State of Viet Nam, the Kingdom of Laos, and the Kingdom of
Cambodia that we extend diplomatic recognition to their Governments and look
for-ward to an exchange of diplomatic representatives between the United States
and these countries.
Our diplomatic recognition
of these Governments is based on the formal establishment of the State of Viet
Nam, the Kingdom of Laos, and the Kingdom of Cambodia as independent states
within the French Union; this recognition is consistent with our fundamental
policy of giving support to the peaceful and democratic evolution of dependent
peoples toward self-government and independence.
In June of last year,
this Government expressed its gratification at the signing of the France-Viet
Namese agreements of March 8, which provided the basis for the evolution of
Viet Namese independence within the French Union. These agreements, together
with similar accords between France and the Kingdoms of Laos and Cambodia, have
now been ratified by the French National Assembly and signed by the President
of the French Republic. This ratification has established the independence of
Viet Nam, Laos, and Cambodia as associated states within the French Union.
It is anticipated that
the full implementation of these basic agreements and of supplementary accords
which have been negotiated and are awaiting ratification will promote political
stability and the growth of effective democratic institutions in Indochina.
This Government is considering what steps it may take at this time to further
these objectives and to assure, in collaboration with other like-minded
nations, that this development shall not be hindered by internal dissension
fostered from abroad.
The status of the
American consulate general in Saigon will be raised to that of a legation, and
the Minister who will be accredited to all three states will be appointed by
the President.
Ngày 27-2-1950, Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ họp và
phát hành tài liệu NSC/64, ghi rõ: Điều
quan trọng đối với lợi ích an ninh của Mỹ là phải áp dụng mọi biện pháp có thể
thực hiện được để ngăn chận cộng sản bành trướng thêm nữa ở Đông Nam Á. Đây là
một khu vực chủ chốt ở Đông Nam Á vì trước mắt đang bị đe dọa. Có thể dự kiến
là các nước láng giềng Thái Lan, Miến Điện sẽ rơi vào ách thống trị của cộng
sản nếu Đông Dương bị kiểm soát bởi một chính phủ do cộng sản khống chế. Lúc
đó, thế cân bằng ở Đông Nam Á sẽ lâm vào tình trạng rủi ro nghiêm trọng. Báo
cáo của Bộ Quốc phòng lên tổng thống ghi rõ : Đông Dương là khu vực duy nhất kế
cận Trung Cộng có một quân đội châu Âu to lớn đang chiến đấu chống cộng sản.
Nếu không có viện trợ Mỹ thì tình hình càng tồi tệ nhanh chóng cho Pháp và các
lực lượng quốc gia Việt Nam trước sự chi viện ngày càng ồ ạt của Liên Xô và
Trung Cộng vào Bắc Đông Dương.
Ngày 16-3-1950, một đoàn tàu chiến thuộc Hạm đội 7 do
đô đốc Arleigh Burke chỉ huy kéo đến Việt Nam để tỏ sự ủng hộ của Chính phủ Mỹ
với Chánh phủ Bảo Đại. Hàng không mẫu hạm Boxer cập bến Đà Nẵng, hai chiến hạm
Stickell và Anderson cập cảng Sài Gòn, trong khi 70 máy bay biểu diễn đội hình
dọc bờ biển miền Trung suốt ngày 17-3-1950.
Xứ ủy Nam Kỳ tổ chức một cuộc biểu tình chống đối
khoảng 50 người ngày 19-3-1950 và mời một luật sư tên Nguyễn Hữu Thọ tham gia,
trương một vài khẩu hiệu Đả đảo can thiệp
Mỹ, Đả đảo Bảo Đại; đồng thời cho bắn vài phát súng cối từ bờ Thủ Thiêm
sang. Sau đó Việt Cộng gọi sự kiện này là ‘Ngày
toàn quốc chống Mỹ’.
Nhưng việc này không hề ảnh hưởng đến sự hân hoan của
bốn chục ngàn dân Sài Gòn trong buổi lễ mừng hai năm ngày ký Hiệp định 8-3 tổ
chức trước đó ít lâu. Đến lúc này, hầu như uy tín của Chính phủ Bảo Đại lên cao
nhất trong dân chúng Việt Nam. Vai trò của người Pháp ở Đông Dương lúc này chỉ
còn trong nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ lãnh thổ. Quân đội quốc gia Việt Nam lúc
này có khoảng 50.000 người đảm nhận chủ yếu việc bảo vệ an ninh ở Nam Việt và
tham gia các chiến dịch ở Trung và Bắc Việt Nam. Mọi công việc điều hành chính
trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa, xã hội đều do Chính phủ Quốc gia Việt Nam
thực hiện, tất nhiên nhiều lĩnh vực vẫn do các chuyên gia Pháp, Mỹ cố vấn về
chuyên môn, nhưng quyết định cuối cùng vẫn là người Việt.
Tháng 4-1950, Bảo Đại và Nguyễn Phan Long triệu tập
Hội nghị quân sự ở Đà Lạt để nhanh chóng thống nhất các lực lượng còn rời rạc
trong các lực lượng quốc gia để thanh một tập hợp thống nhất và mạnh mẽ trở
thành một đối trọng ở Đông Dương.
Tuy nhiên, Nội các Nguyễn Phan Long tỏ ra thân thiện
quá mức với Mỹ trong thế cân bằng quan hệ Pháp Mỹ và nhiều lần công khai phản
đối Pháp nên một số giới chức thẩm quyền trong chính trường Pháp lo ngại. Ủy
viên cộng hòa Chanson được lệnh nói thẳng với quốc trưởng Bảo Đại về mối lo
lắng này của người Pháp và gây sức ép phải thay Nội các Nguyễn Phan Long. Lúc
đó, Pháp vẫn là lực lượng chủ yếu ngăn chận cộng sản nên sau khi cân nhắc thiệt
hơn, ngày 26-4-1950, Nội các Nguyễn Phan Long tuyên bố từ chức sau 96 ngày cầm
quyền ngắn ngủi.
VII- Thời kỳ thủ tướng Trần Văn Hữu (1950-52)
1- Nội
các Trần Văn Hữu (1950-51)
Sau khi phê chuẩn giải tán Nội các Nguyễn Phan Long,
ngày 27-4-1950 Bảo Đại yêu cầu thủ hiến Nam phần Trần Văn Hữu lập nội các mới.
Trần Văn Hữu (1896-1984) quê ở Vĩnh Long, có bằng kỹ sư canh nông, xuất thân từ
một gia đình đại điền chủ. Ngày 6-5-1950, Bảo Đại chuẩn y Nội các thủ tướng
Trần Văn Hữu. Đến tháng 2-1951, Nội các Trần Văn Hữu cải tổ lại một lần cùng
lúc với cải tổ các thủ hiến Bắc, Trung, Nam.
Nội các Trần Văn Hữu hoạt động từ 6-5-1950 đến
20-2-1951.
- Thủ tướng kiêm tổng trưởng Ngoại giao và Quốc phòng:
Trần Văn Hữu.
- Tổng trưởng Bộ Quân lực: Trần Quang Vinh.
- Bộ trưởng Phủ thủ tướng: Trần Văn Tuyên.
- Bộ trưởng Công vụ: Đinh Xuân Quảng.
- Thủ hiến Trung Phần: Phan Văn Giáo.
- Thủ hiến Bắc Phần: Nguyễn Hữu Trí.
- Thủ hiến Nam Phần: Thái Lập Thành.
- v.v…
2- Mỹ
tăng cường ủng hộ Quốc gia Việt Nam
Ngày 8-5-1950, tổng thống Truman bắt đầu viện trợ cho
Pháp trong cuộc chiến Đông Dương và cho Chánh phủ Quốc gia Việt Nam với số tiền
khiêm tốn đầu tiên là 10 triệu đô la. Ngày 11-5-1950, Bộ Ngoại giao Mỹ ra thông
cáo về kết quả khảo sát viện trợ của phái bộ đặc biệt Allen R.Greffin dẫn đầu
được cử sang Đông Dương hai tháng trước đó. Theo đó, phái bộ này đề nghị một
khoản viện trợ gần 135 triệu đô la, trong đó có 60 triệu về kinh tế, kỹ thuật,
75 triệu đô la về quân sự cho Chánh phủ Quốc gia Việt Nam.
Cuối tháng 5-1950, Bộ Ngoại giao Mỹ thành lập một phái
đoàn viện trợ các quốc gia liên kết Đông Dương do Robert Blum đứng đầu, đặt trụ
sở tại Sài Gòn và một tháng sau, vào ngày 27-6-1950, trong bối cảnh cuộc chiến
tranh xâm lược của cộng sản vào Đại Hàn bùng nổ, tổng thống Truman tuyên bố đẩy
nhanh việc cung cấp viện trợ quân sự cho Đông Dương. Chiến trường Đông Dương
trở thành gọng kềm thứ hai ở Đông Nam Á, cùng với gọng kềm Đông Bắc Á-chiến
trường bán đảo Cao Ly hình thành trận địa chống cộng của Liên Hiệp Quốc mà nòng
cốt là Mỹ, Pháp ở Viễn Đông.
Lúc đó, chính trường Pháp lại khủng hoảng do nội các
chính phủ Bidault sụp đổ, mãi đến cuối tháng 6-1950 mới thành lập nội các thủ
tướng Plevent, trở thành nội các thứ 12 từ khi kết thúc Đệ nhị thế chiến
(1945-1950).
Việc Mỹ tham chiến ở bán đảo Cao Ly từ tháng 6-1950 và
nhất là cuộc triệt thoái quân Pháp khỏi các tiền đồn bên giới Việt-Hoa tháng
10-1950, khiến cho cuộc chiến tranh lạnh Mỹ-Nga bắt đầu chi phối nội tình Việt
Nam. Pháp bị đặt vào tình thế cực kỳ tế nhị. Một mặt, Pháp phải hỗ trợ phát
triển quân đội quốc gia bản xứ để san xẻ gánh nặng cho quân viễn chinh và phải
ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào viện trợ Mỹ; mặt khác, Pháp luôn bị Mỹ gây
sức ép ngày càng lớn buộc phải trao trả dần độc lập cho các quốc gia Đông
Dương, và áp lực này cũng ngày càng tăng theo con số viện trợ Mỹ.
3- Hội
nghị liên quốc ở Pan và các hiệp định ở Sài Gòn
Ngày 29-6-1950, thủ tướng Plevent tổ chức Hội nghị
liên quốc ở Pan (Nam Pháp) gồm các chính phủ Pháp, Việt Nam, Lào, Cambodia để
thống nhất giải quyết những vấn đề chính trị, kinh tế đã được ấn định trong các
hiệp định 8-3-1949 và 30-12-1949 giữa Pháp và các chính quyền quốc gia Việt
Nam, Lào, Cambodia. Nhiều phiên họp gay gắt diễn ra và kéo dài đến tháng
12-1950 mới kết thúc, gồm các phiên từ 29-6 đến 9-8-1950, từ 20-8 đến
16-9-1950, từ 8 đến đến 27-11-1950.
Do sự đấu tranh gay gắt của Bảo Đại, Trần Văn Hữu,
Shihanouk, với sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Mỹ, ngày 24-12-1950, thủ tướng Plevent
ký với lãnh đạo các nước Việt Nam, Lào, Cambodia hàng loạt hiệp định ở Sài Gòn,
tuyên bố Cộng hòa Pháp từ đó trở đi không dính líu gì về chủ quyền hành chính,
kinh tế, văn hóa ở Đông Dương, ngoại trừ về vấn đế quân sự, lực lượng quân sự
chiến đấu ở Đông Dương vẫn do Pháp chỉ huy thống nhất. Pháp, Mỹ, Việt Nam, Lào,
Cambodia cũng ký Hiệp định phòng thủ
chung Đông Dương tại Sài Gòn ngày 23-12-1950, theo đó Mỹ cam kết sẽ viện
trợ quân sự cho các nước Việt Nam, Lào, Cambodia phòng thủ Đông Dương chống
cộng sản.
Tháng 7-1950, Mỹ đặt Phái đoàn cố vấn và viện trợ quân
sự (MAAG) tại Sài Gòn. Tháng 8-1950, Mỹ viện trợ kinh tế cho chính quyền Việt
Nam 8.654.000 đô la. Ngày 14-5-1950, đại sứ Mỹ và đại diện Việt Nam gồm tổng
trưởng Bộ Quốc phòng Trần Quang Vinh, thủ hiến Trung phần Phan Văn Giáo, tổng
tham mưu trưởng Quân lực Nguyễn Văn Hinh đàm phán về việc tiếp nhận viện trợ
quân sự Mỹ cho Quân đội quốc gia Việt Nam.
Ngày 18-10-1950, ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson gởi
thông qua công sứ quán Mỹ ở Sài Gòn đến Bảo Đại một bức điện nêu rõ: Sự lãnh đạo của Chánh phủ Việt Nam trong thời kỳ nghiêm
trọng này là một yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu quyết định kết quả cuối
cùng. Chánh phủ Việt Nam đã tỏ ra có một khả năng lãnh đạo và sự can đảm đặc
biệt xông xáo trước một công chúng đang bối rối và chịu nhiều đau khổ sau những
năm nội chiến, Chính phủ Mỹ cho rằng Chánh phủ Việt Nam hiện tại đang gắn liền
với cá nhân quốc trưởng đến mức mà khả năng lãnh đạo và sự gương mẫu của ngài
có tầm quan trọng đặc biệt quyết định mức độ hoạt động hiệu quả của Chánh phủ
Việt Nam.
Pháp lần lượt bàn giao cho Chánh phủ Trần Văn Hữu các
cơ quan: Sở Liêm phóng (11-6-1950), Bưu điện Sài Gòn và hệ thống bưu điện viễn
thông (10-1-1951), Ngân khố và hệ thống tài chính (1-10-1951).
Từ 5-11-1950, Bảo Đại tổ chức Hội nghị quân sự tại Đà
Lạt. Ngày 25-11-1950, Bảo Đại ra Hà Nội tổ chức Hội nghị lập kế hoạch phòng thủ
Bắc Việt. Ngày 19-1-1951, Bảo Đại ra tuyên bố đoàn kết các lực lượng quốc gia
tập hợp trong một mặt trận chung hợp tác với Pháp và thế giới tự do ngăn chận
chủ nghĩa cộng sản.
4- Nội
các Trần Văn Hữu 1951-52
Ngày 21-1-1951, quốc trưởng Bảo Đại ra lệnh giải tán
Nội các Trần Văn Hữu, rồi lại giao Trần Văn Hữu lập nội các khác. Danh sách Chánh
phủ do Trần Văn Hữu đề cử vào các ngày 26-1, 30-1, 3-2, 10-2, 13-2-1951 liên
tiếp bị Bảo Đại cự tuyệt. Cuối cùng, đến 20-2-1951, thành phần chánh phủ mới
được quốc trưởng chấp thuận. Trong số các thay đổi có việc Bộ Quân lực và chức
vụ tổng trưởng Quân lực bị bãi bỏ.
Nội các Trần Văn Hữu thứ hai (20-2-1951 đến 7-3-1952)
- Thủ tướng kiêm tổng trưởng Ngoại giao và Quốc phòng:
Trần Văn Hữu.
- Bộ trưởng Phủ thủ tướng: Trần Văn Tuyên.
- Bộ trưởng Ngân sách, phụ trách Bộ Công vụ: Đinh Xuân
Quảng.
- v.v…
Nhưng sau đó, Nội các Trần Văn Hữu liên tiếp gặp sóng
gió. Lãnh tụ Đảng Đại Việt, cũng là thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí công khai
đả kích Chánh phủ Trần Văn Hữu. Nhiều lần được Bảo Đại mời ra lập nội các hoặc
giao phụ trách Bộ Quốc phòng, Nguyễn Hữu Trí đều cự tuyệt. Ngày 13-3-1951,
Nguyễn Hữu Trí từ chức thủ hiến Bắc Việt để phản đối Trần Văn Hữu. Đến tháng
7-1951, bộ trưởng Phủ thủ tướng Trần Văn Tuyên và thủ hiến Trung Việt Phan Văn
Giáo từ chức. Thủ hiến Nam Việt Thái Lập Thành bị cộng sản ám sát. Tháng
11-1951, tân thủ hiến Bắc Việt Đặng Hữu Chí cũng xin nghỉ dài hạn để trị bệnh.
Sau chiến thắng của liên quân Pháp Việt ở măt trận Hòa Bình, một lần nữa Bảo Đại lại yêu cầu Trần Văn Hữu giải tán nội
các cũ và thành lập nội các mới, cùng lúc thay thế tất cả thủ hiến ba
phần.
Nội các Trần Văn Hữu thứ ba (8-3 đến 23-6-1952)
- Thủ tướng kiêm tổng trưởng Ngoại giao và Quốc phòng:
Trần Văn Hữu.
- Bộ trưởng Phủ thủ tướng: Đinh Xuân Quảng.
- Phụ tá tổng trưởng Bộ Quốc phòng: Nghiêm Văn Trí.
- v.v…
5 - Hiệp ước hòa bình với Nhật Bản
Ngày 14-7-1951, Bảo Đại cùng De Lattre - tư lệnh Quân
lực Pháp ở Đông Dương đi xem xét tình hình và tổ chức lễ quốc khánh Pháp rầm
rộ. Trong tháng 7-1951, phái đoàn Chánh phủ Quốc gia Việt Nam sang Mỹ cùng các
quốc gia khác tham dự Hội nghị hiệp ước hòa bình với Nhật Bản. Ngày 20-7-1951,
bộ trưởng Ngoại giao Việt Cộng Hoàng Minh Giám ra tuyên bố về vấn đề hiệp ước hòa bình với Nhật Bản, chỉ có Chính
phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa là chính phủ duy nhất hợp pháp đại diện cho Việt
Nam để tham dự lễ ký hòa bình với Nhật Bản. Thế
nhưng, Chính phủ Việt Cộng lúc đó thuộc một thế giới khác. Chánh phủ Quốc gia
Việt Nam là một trong số 19 quốc gia ký với Nhật hiệp ước bảo vệ an ninh Nhật
ngày 8-9-1951 tại San Francisco để bảo vệ Nhật lúc đó còn đang bị Liên Hiệp
Quốc cấm võ trang, đảm bảo không bị cộng sản Nga, Trung Cộng, Triều Tiên xâm
lấn. Theo đó, Mỹ sẽ đóng một số quân thường trực tại Nhật. Khi Nhật bị xâm lược
thì quân 19 nước trong đó có Việt Nam sẽ kéo vào bảo vệ Nhật.
6- Hiệp
ước hợp tác Việt Mỹ
Ngày 7-9-1951, Mỹ ký trực tiếp với Chánh phủ Quốc gia
Việt Nam bản hiệp ước song phương, gọi là Hiệp ước hợp tác kinh tế Việt Mỹ.
Tháng 12-1951, Mỹ lại ký với Chánh phủ Việt Nam một bản hiệp nghị an ninh
chung. Từ sau khi các bản hiệp định viện trợ quân sự, an ninh, kinh tế được ký
kết, sự viện trợ của Mỹ chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong ngân sách của Pháp ở
Đông Dương và ngân sách Chánh phủ Quốc gia.
Viện trợ Mỹ bắt đầu khiêm tốn với 10 triệu đô la từ
8-5-1950 đã tăng đến 100 lần (1,063 tỉ năm 1954) chiếm 73% chiến phí Pháp ở
Đông Dương. Năm 1951, viện trợ Mỹ chiếm 19% ngân sách chiến tranh, năm 1952
chiếm 35%, năm 1953 chiếm 43%, năm 1954 chiến 73%. Nếu trong những năm đầu
(1950-1951) trang bị của Mỹ đổ vào Đông Dương trung bình 6.000 tấn mỗi tháng
thì năm 1954 tăng lên 80.000 tấn mỗi tháng. Đầu năm 1954, Mỹ viện trợ cho Pháp
360 máy bay, 259 thủy phi cơ, 16.000 xe hơi, 1.400 xe tăng thiết giáp, 390 tàu
xuồng, 175.000 súng trường súng máy, 240 triệu đạn nhỏ, 15 triệu đạn pháo. Cuối
năm 1951-1952, Mỹ viện trợ Pháp 300 khẩu pháo, 1 triệu đạn pháo, 15 triệu đạn
nhỏ, 150 tàu xuồng đổ bộ, 100.000 súng trường, 200 máy bay trong đó có 30 máy
bay B26 tối tân nhất.
Nhiều phái đoàn viện trợ kinh tế, cố vấn quân sự Mỹ
lần lượt sang Việt Nam. Tháng 5-1950, Phái đoàn Viện trợ Mỹ do Robert Blum dẫn
đầu đặt trụ sở tại Sài Gòn. Tháng 9-1950, Phái đoàn Cố vấn quân sự Mỹ (MAAG)
thành lập ở Sài Gòn và nhiều chi nhánh khắp Việt Nam. Ngày 24-11-1951, trưởng
Phái đoàn Viện trợ kinh tế Mỹ Williamson thông báo việc tài trợ kinh tế tài
khóa 1951-1952 là 25 triệu đô la. Năm 1952, các phòng thông tin Mỹ đặt ở nhiều
trung tâm như Sài Gòn, Cần Thơ, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Vinh, Hà Nội, Hải
Phòng. Các tướng tá, chính khách Mỹ đi lại Đông Dương ngày càng nhiều. Các
trung tâm và các trại huấn luyện của Mỹ bắt đầu lựa chọn, đưa người từ Việt Nam
sang Mỹ du học và tu nghiệp.
Ngày 6-12-1950, Chính phủ Pháp cử đại tướng De Lattre
de Tassigny, tư lệnh Lục quân khối Tây Âu sang làm tổng chỉ huy Quân lực kiêm
cao ủy Pháp ở Đông Dương. Trung tuần tháng 9-1951, De Lattre sang Mỹ hội kiến
với tổng thống Truman. De Lattre khẳng định: Trước đây, Đông Dương là vấn đề nội bộ của Pháp. Người
Mỹ có thể đứng ngoài cuộc để phê phán, cho rằng người Pháp tiến hành cuộc chiến
tranh thuộc địa, rằng Pháp ngoan cố không chịu trả độc lập cho người Việt Nam.
Bởi vậy, Mỹ có thể do dự, với những lời cam kết mập mờ, không muốn tích cực
giúp Pháp trong cuộc chiến tranh chống Việt Cộng. Nhưng ngày nay, người Mỹ từ
giới lãnh đạo cũng như công chúng cần hiểu rằng cuộc chiến tranh của Pháp ở
Đông Dương là cuộc chiến cho nền an ninh thế giới, là cuộc thập tự chinh chống
cộng của cả thế giới tự do. Cuộc chiến tranh Cao Ly và cuộc chiến tranh Đông
Dương đều nhằm chống lại sự bành trướng của cộng sản, nên nhu cầu trang bị mà
Mỹ dốc vào hai cuộc chiến tranh đó đều cần thiết như nhau và phải được coi
trọng như nhau.
Trong suốt nửa
tháng ở Mỹ, De Lattre đã gặp từ lãnh đạo Bạch Cung, Ngũ giác đài, giáo hội Mỹ
(hồng y giáo chủ Spellman), liên tục xuất hiện diễn thuyết trên tivi và các
cuộc họp báo: Pháp giữ quân ở Đông
Dương lúc này không phải vì mục đích chiến tranh thuộc địa nữa mà chính là để
bảo vệ vòm trời Đông Nam Á luôn xanh.
Đông Dương mà sụp đổ sẽ kéo theo Trung Đông, sẽ làm rung chuyển Bắc Phi. Châu
Âu sẽ đứng trước nguy cơ bị bao vây từ phía Nam. Nước Mỹ hãy cứu lấy Đông Dương,
tức là cứu lấy nền an ninh của thế giới của chính cả nước Mỹ.
Liên tiếp hai ngày 19 và 23-9-1951, Bộ Ngoại giao Mỹ
ra tuyên bố nhắc lại rằng Chính phủ Mỹ đồng quan điểm với người Pháp về công
cuộc chống cộng ở Đông Dương và sẽ tăng cường viện trợ cho Pháp và các quốc gia
Đông Dương về vật chất chỉ sau Đại Hàn.
Tháng 1-1952, De Lattre chết, bộ trưởng Bộ Quốc gia
liên kết Jean Le Tourneau được cử kiêm chức cao ủy Đông Dương.
VIII- Thời kỳ thủ tướng Nguyễn Văn Tâm (1952-54)
1- Nội
các Nguyễn Văn Tâm (23-6-1952 đến 4-1-1954)
Ngày 3-6-1952, quốc trưởng Bảo Đại quyết định giải tán
Nội các thủ tướng Trần Văn Hữu và hôm sau cử Nguyễn Văn Tâm đứng ra lập chánh
phủ mới. Nguyễn Văn Tâm quê ở quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho, thời trước 1945 là đốc
phủ sứ quận Cai Lậy. Nội các Nguyễn Văn Tâm tập họp được những phần tử quốc gia
chống cộng ráo riết và hữu hiệu hơn, theo khẩu hiệu: Tôi đánh giặc.
Ngày 23-6-1952, Nội các Nguyễn Văn Tâm ra mắt, hoạt
động đến tháng 1-1953.
- Thủ tướng: Nguyễn Văn Tâm.
- Phó thủ tướng: Ngô Thúc Định.
- Phó thủ tướng: Phan Văn Giáo.
- Tổng trưởng Bộ Quốc phòng: Nghiêm Văn Trí (Nghiêm
Xuân Tri).
- Tổng trưởng Bộ Ngoại giao: Trương Vĩnh Tòng.
- v.v...
Nội các này tăng cường phát triển Quân đội quốc gia,
phối hợp cùng quân Pháp đánh cộng sản. Quân đội quốc gia Việt Nam lúc này đã có
40 tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn không quân. Cambodia và Lào mỗi nước cũng
có 6 tiểu đoàn bộ binh.
Đến tháng 6-1952, ở Đông Dương chỉ còn 1.400 công chức
Pháp so với 7.000 người vào năm 1949. Phần lớn các bộ máy hành chính, kinh tế,
tư pháp và tất cả các vị trí chủ chốt ở trung ương và địa phưong đều do người
Việt nắm giữ và quyết định.
Trong điều kiện chiến tranh, chính trường Pháp và Việt
Nam luôn biến động theo thời cuộc. Từ 1946 đến 1952, Việt Nam đã thay đổi ba
lần nội các ở Nam Việt với ba đời thủ tướng và bảy lần thay đổi nội các Việt
Nam với năm đời thủ tướng. Trong khi đó ở Pháp từ 1945 đến 1954 thay đổi tới 19
chính phủ tại Paris và 7 cao ủy tại Đông Dương. Với sự bảo trợ của Pháp, Anh,
Mỹ, Trung Hoa, Chánh phủ Quốc gia Việt Nam nộp đơn xin vào Liên Hiệp Quốc ngày
12-9-1952. Kết quả biểu quyết chấp thuận tại Hội đồng Bảo an là 11/12. Liên Xô
dùng quyền phủ quyết nên Quốc gia Việt Nam không được gia nhập chính thức Liên
Hiệp Quốc, nhưng từ đó trở thành đại diện duy nhất của Việt Nam tham dự tất cả
các tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc và quốc tế cho đến tháng 4-1975.
Tháng 1-1953, Nội các Nguyễn Văn Tâm cải tổ lại và
hoạt động đến 4-1-1954.
- Thủ tướng: Nguyễn Văn Tâm
- Phó thủ tướng: Lê Văn Hoạch, Nguyễn Huy Lai.
- Tổng trưởng Bộ Quốc phòng: Lê Quang Huy (quyền,
tháng 1 đến 6-1953); Phan Huy Quát (tháng 6-1953 đến tháng 7-1954).
- Tổng trưởng Bộ Ngoại giao: Trương Vĩnh Tòng.
- v.v…
Tháng 6-1953, Nguyễn Văn Tâm cử Phan Huy Quát làm tổng
trưởng Bộ Quốc phòng. Thủ tướng Tâm và tổng trưởng Quát rất chú trọng xây dựng
quân đội bằng các biện pháp đặc biệt để tăng quân số và đào tạo sĩ quan chính
qui.
2- Cuộc
vận động đòi độc lập hoàn toàn của Shianouk-Nguyễn Văn Tâm
Ngày 20-1-1953, nước Mỹ có tổng thống mới là Dwight
David Eishenhower, 63 tuổi, vốn là đại tướng chỉ huy quân Đồng minh ở mặt trận
Bắc Phi-Địa Trung Hải-Nam Âu. Trong cuộc họp Hội đồng An ninh quốc gia tháng
8-1953, Eishenhower khẳng định: Trong
điều kiện hiện nay, để mất Đông Dương vào tay cộng sản quốc tế là mối nguy kịch
hàng đầu tới nền an ninh của Mỹ. Từ năm 1950 đến 1954,
Mỹ đã viện trợ quân sự cho cuộc chiến Đông Dương hơn 2,6 tỉ đô la. Đầu năm
1953, Mỹ đã gánh 43% chiến phí Đông Dương, các quốc gia Việt-Lào-Cambodia góp
6%, còn lại 50% vẫn là một gánh nặng đối với ngân sách đang còm cõi của Pháp.
Tính đến năm 1953, mỗi năm các chính phủ liên kết
Việt-Lào-Cambodia chi phí khoảng 35 tỉ franc, tức khoảng 100 triệu đô la cho
chiến tranh. Quân đội quốc gia Việt Nam lúc này tăng lên 160.000 người cộng với
40.000 quân Lào, Cambodia chiếm 65% quân tham chiến với cộng sản.
Các nước liên kết ở Đông Dương, nhất là Cambodia và
Việt Nam không hài lòng về thái độ mập mờ của Pháp đối với mình. Đúng là các
chính phủ liên kết (Việt Nam, Lào, Cambodia) đã tự chủ phần lớn công việc nội
trị, ngoại giao. Đúng là sự có mặt của quân Pháp ở Đông Dương lúc này là cần
thiết để ngăn chận cộng sản. Nhưng vì sao các nước Đông Dương vẫn phải nằm trong
khối Liên hiệp Pháp để làm gì? Vì sao các chức vị cao ủy Đông Dương, ủy viên
cộng hòa Pháp vẫn còn tồn tại ở Đông Dương. Vì sao vẫn còn hàng ngàn viên chức
dân sự Pháp trong bộ máy chính quyền. Nếu dẹp yên được hiểm họa cộng sản thì
người Pháp có khôi phục trở lại trọn vẹn sự thống trị như thời thuộc địa hay
không ?
Vì thế từ năm 1953, quốc vương Cambodia Norodom
Shianouk châm ngòi cho một cuộc đấu tranh
sôi nổi về chính trị, liên kết chặt chẽ với thủ tướng Nguyễn Văn Tâm đòi
Pháp phải xét lại Hiệp ước 8-3-1949.
Vào lúc đó, từ khi chiến tranh Cao Ly bùng nổ
(25-6-1950) đến ngày ký hiệp ước đình chiến ở Bàn Môn Điếm (26-7-1953), Trung
Cộng vẫn liên tục viện trợ cho Việt Cộng tối đa về mọi mặt, nhờ đó đến tháng
5-1953, mặc dù đã thương vong hơn một triệu cán binh, Việt cộng vẫn mở rộng
được binh đội lên tới hơn 300.000 người. Để đối phó với cuộc đấu tranh của
Shianouk, sau cuộc bàn thảo giữa thủ tướng Laniel và đại tướng Navarre, tổng tư
lệnh Quân đội Pháp ở Đông Dương, ngày 3-7-1953, thủ tướng Laniel tuyên bố: Năm 1953-54, quân đội Pháp sẽ giữ thế phòng thủ để năm
1954-55 sẽ tấn công tiêu diệt dứt điểm cộng sản. Nhưng muốn như thế, thì
1- Ngoại quốc phải viện
trợ thêm cho đủ.
2- Các quốc gia liên kết
phải tự lực hoàn toàn về mọi vấn đề phi quân sự.
3- Chấp nhận thương lượng
đình chiến với Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Tại Việt Nam, thủ tướng Nguyễn Văn Tâm tổ chức một hội
nghị toàn quốc tại Tòa đô sảnh Sài Gòn từ 9 đến 12-10-1953 sau bản tuyên bố của
thủ tướng Pháp. Tất cả 200 đại biểu các giới nhân dân, chính đảng, đoàn thể Bắc
Trung Nam về họp để bàn về vấn đề độc lập hoàn toàn và liên hệ với Liên hiệp
Pháp của Việt Nam. Qua ba ngày họp, hội nghị quyết định hai điểm:
1- Việt Nam phải độc lập
hoàn toàn theo quốc tế công pháp.
2- Việt Nam không gia
nhập Liên hiệp Pháp với hình thức hiện tại nữa.
Sau hội nghị, Việt Nam cử một phái đoàn sang Pháp đàm
phán việc bãi bỏ quy chế thành viên Liên hiệp Pháp của Việt Nam.
Ngày 6-8-1953, tại cuộc họp Hội đồng An ninh quốc gia,
tổng thống Eishenhower tuyên bố trong tài khóa 1954, Mỹ có thể viện trợ một tỷ
đô la cho cuộc chiến Đông Dương.
Từ 6-9-1953, Bảo Đại cử Trần Trọng Kim làm chủ tịch
Hội đồng Quốc gia, điều hành Quốc hội lâm thời, nhưng đến 2-12-1953, Trần Trọng
Kim bị tai biến mạch máu não và chết đột ngột.
IX- Thời kỳ thủ tướng Bửu Lộc (1954)
1- Nội
các Bửu Lộc
Ngày 4-1-1954, quốc trưởng Bảo Đại giải tán Nội các
Nguyễn Văn Tâm và cử hoàng thân Nguyễn Phước Bửu Lộc làm thủ tướng lập Nội các
mới. Nội các Nguyễn Văn Tâm chính thức ngưng hoạt động từ 12-1.
Ngày 16-1-1954, Bửu Lộc công bố Nội các mới, hoạt động
đến 18-6-1954.
- Thủ tướng: Nguyễn Phước Bửu Lộc (4-1 đến 16-6-1954).
- Quyền thủ tướng: Phan Huy Quát (18-6 đến 7-7-1954).
- Phó thủ tướng: Nguyễn Trung Vinh (16-1 đến
7-7-1954).
- Tổng trưởng Quốc phòng: Phan Huy Quát (tháng 6-1953
đến 16-6-1954); Lê Thăng (quyền, 16-6 đến 7-7-1954).
- Tổng trưởng Nội vụ: Đinh Xuân Quảng (16-1 đến
7-7-1954).
- Tổng trưởng Ngoại giao: Nguyễn Quốc Định (16-1 đến
7-7-1954).
- Tổng trưởng Giáo dục: Vũ Quốc Thúc.
- v.v…
Nội các Bửu Lộc được xem là một “nội các ngoại giao”,
bởi vì quốc trưởng Bảo Đại đã chiếu theo bản tuyên ngôn của Chính phủ Pháp ngày
3-7-1953, xác định lập trường dành sự độc lập và chủ quyền quốc gia cho các
quốc gia Việt Nam-Lào-Cambodia, và Pháp sẽ họp riêng với từng quốc gia này để
giải quyết thỏa đáng rốt ráo mọi vấn đề. Việc thành lập Chánh phủ Bửu Lộc là để
chuẩn bị hội đàm với Pháp, và cuộc hội đàm Việt-Pháp đã diễn ra tại Paris từ
ngày 8-3-1954.
Hai phái đoàn Việt-Pháp tại cuộc hội đàm Paris, 8-3-1954 |
2- Hiệp định kiện toàn nền độc
lập Việt Nam và Hiệp ước liên kết Pháp-Việt (1946)
Sau khi
Nội các thành lập, ngoại trưởng Nguyễn Quốc Định ráo riết vận động quốc tế hậu
thuẫn gây sức ép để Pháp chấp nhận chủ quyền triệt để và toàn diện của Quốc gia
Việt Nam. Từ ngày 8-3-1954 tại Paris, phó thủ tướng Nguyễn Trung Vinh và thủ
tướng Joseph Laniel bắt đầu đàm phán về việc bổ sung sửa đổi Hiệp định Elysée.
Ngày
4-6-1954, Nguyễn Trung Vinh và Laniel ký Hiệp định kiện toàn nền độc lập của
Việt Nam và Hiệp định liên kết Pháp-Việt.
Nội
dung Hiệp định kiện toàn nền độc lập của Việt Nam nêu rõ:
- Nước
Pháp công nhận nước Việt Nam là một quốc gia hoàn toàn độc lập và đầy đủ chủ
quyền, với mọi thẩm quyền theo quốc tế công pháp.
- Nước Việt Nam thay thế nước Pháp trong mọi
quyền hành và nghĩa vụ qui định tại các hiệp ước quốc tế hay các hiệp ước mà
Pháp đã ký kết cho Việt Nam hoặc nhân danh Việt Nam, hoặc tại các hiệp ước mà
nước Pháp đã ký kết nhân danh Đông Pháp (Indochine-France) trong giới hạn các
văn kiện đó liên hệ tới Việt Nam.
Hiệp
ước liên kết Pháp-Việt quy định
- Việt Nam
không nằm trong khối Liên hiệp Pháp nhưng khẳng định sẽ liên kết chặt
chẽ với Cộng hòa Pháp trên mọi phương diện.
- Việt Nam và Pháp sẽ phối hợp sức lực và điều
hòa chính sách trong những việc liên quan đến quyền lợi chung theo nguyên tắc
bình đẳng giữa hai quốc gia độc lập tự chủ.
3- Pháp bỏ cuộc tại Đông Dương
Từ đầu
năm 1954, được Trung Cộng và Liên Xô viện trợ khí giới, trang bị hùng hậu, quân
Việt cộng đánh phá khắp Đông Dương thu nhiều thắng lợi dù phải trả giá rất đắt
với hàng trăm ngàn binh sĩ thương vong chỉ trong sáu tháng đầu năm 1954. Về
phía Pháp, sau chín năm chinh chiến, nhân tài vật lực tiêu hao rất lớn. Dân
chúng Pháp chán nản, các đảng phái chính trị bắt buộc Chính phủ phải sớm kết
thúc chiến tranh bằng mọi giá và đi đến một giải pháp hòa bình cho vấn đề Đông
Dương.
Ngày
21-6-1954, thủ tướng Anh Winston Churchill viết thư cho tổng thống Mỹ
Eisenhower, đề nghị thành lập một chiến tuyến chống cộng trong vùng Thái Bình
Dương (establishing a firm front against Communism in the Pacific sphere).
Churchill cũng ủng hộ việc thành lập một minh ước liên phòng Đông Nam Á, giống
như Khối NATO. Churchill nhấn mạnh: We should certainly have a SEATO, corresponding to
NATO in the Atlantic and European sphere. In no foreseeable circumstances,
except possibly a local rescue, could British troops be used in Indochina, and
if we were asked our opinion we should advise against United States local
intervention except for rescue. Tuy nhiên, lúc này tổng
thống Mỹ chưa muốn dính líu sâu vào trận địa quân sự ở Đông Dương.
Bị quân Việt cộng tấn công trên khắp các mặt trận,
quân Pháp phải rút lui, tập trung binh lực ở Điện Biên Phủ định thu hút quân
Việt cộng về đó để tiêu diệt. Nhưng Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7-5-1954, Pháp
phải chấp nhận ký kết thỏa hiệp đình chiến Genève 20-7-1954, chấp nhận chia đôi
lãnh thổ Việt Nam.
4- Ngô
Đình Diệm vận động tham chính
Ngày 14-8-1950, hai anh em Ngô Đình Thục và Diệm rời
Sài Gòn lên tàu La Marseillaise bắt đầu hành trình sang Tòa thánh La Mã. Trên
đường đi có ghé sang Nhật, Diệm gặp Cường Để, đề nghị hợp tác thành lập một
chính phủ chống cộng và bài Pháp. Ngay sau đó Cường Để sang Bangkok, nhưng tình
báo cộng sản quốc tế tại đây phát hiện và theo dõi. Trung cộng và Việt cộng cử
một cán bộ tên Quy gặp Cường Để, đe dọa tính mạng nếu còn ở Thái Lan. Sau vài
ngày suy nghĩ, Cường Để trở lại Nhật Bản.
Ngày 2-9-1950, Thục và Diệm tới Mỹ. Ngày 21-9, hai
người gặp vụ trưởng Philippines và Đông Nam Á William S.B. Lacy. Thục đề nghị
Mỹ hậu thuẫn thành lập một quân đội quốc gia, tuyển mộ thanh niên tình nguyện
có tinh thần hăng hái chống cộng, trong đó lấy thanh niên Công giáo làm nòng
cốt để đảm bảo chắc thắng cộng sản.
Tối 25-10-1950, ngoại trưởng Mỹ Acheson điện cho đại
sứ Heath ở Sài Gòn về việc thành lập Quân đội quốc gia Việt Nam. Acheson cho
biết người Pháp nghĩ rằng có thể đưa các lực lượng giáo phái sáp nhập vào, tổng
số khoảng 75.000 người. Nhiều người trong giáo phái có tinh thần và kinh nghiệm
chống cộng khá tốt.
Ngày 15-10, Diệm và Thục rời Mỹ sang Paris, sau đó đến
Tòa thánh La Mã làm lễ Năm Thánh rồi trở lại Paris vào trung tuần tháng
11-1950. Trong quá trình du hành hải ngoại, hai người đã viếng thăm nhiều chức
sắc Công giáo và chính quyền, tổ chức, đảng phái, mở rộng được rất nhiều mối
quan hệ ở Mỹ, Pháp, Ý và Tòa thánh La Mã. Ngày 8-12-1950, giám mục Thục trở về
Việt Nam tìm cách thâu nhận sự hậu thuẫn của Công giáo trong nước. Cuối tháng
12-1950, Diệm nhờ nghị viên Hội đồng Liên hiệp Pháp là Bửu Kỉnh chuyển cho quốc
trưởng Bảo Đại một lá thư, đề xuất một chương trình hoạt động toàn diện.
Ngày 15-1-1951, Diệm trở lại Mỹ với lý do nghiên cứu
giáo lý Thiên chúa và cơ cấu chính quyền Mỹ. Diệm tá túc trong một tu viện ở
bang New Jersey và đi diễn thuyết nhiều nơi, được hồng y Francis Spellman giới
thiệu quen biết nhiều người có thế lực ở Mỹ. Diệm nhanh chóng trở thành một
người Việt Nam có uy tín nhất trong mắt của những người có thế lực ở Mỹ.
Ngày 24-1, xử lý thường vụ đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn
Guillon báo cáo về Washington là Bảo Đại đã nhận được thư của Diệm, nhưng chưa
muốn hợp tác. Một trong nhiều lý do là vì có tin đồn là anh em Thục-Diệm đang
chủ trương giải pháp lập hoàng thân Bảo Long lên ngôi, có Nam Phương hoàng hậu
và Cường Để làm nhiếp chánh. Một lý do khác là do Diệm tuy có uy tín chống cộng
nhưng lại sẵn có hiềm khích lẫn nhau với Pháp và thuộc loại quyền thần cứng đầu
khó bảo và nóng nảy không phù hợp với tính cách mềm mỏng của Bảo Đại.
Ngày 3-7-1953, thủ tướng Joseph Laniel tuyên bố sẵn
sàng bàn giao hoàn toàn mọi cơ chế chính trị và hành chánh cho Chánh phủ Quốc
gia Việt Nam và rút hết người Pháp về nước. Ngay sau đó, Ngô Đình Diệm ráo riết
vận động để về nước cầm quyền.
Tại Việt Nam, Ngô Đình Nhu mở rộng hoạt động với các
tổ chức tôn giáo và chính trị. Nhu hợp tác với hộ pháp Cao Đài Phạm Công Tắc,
đại tá Bình Xuyên Lê Văn Viễn, lập liên minh chính trị vào tháng 12-1953.
Đầu năm 1954, Ngô Đình Nhu liên kết với Liên đoàn
Thanh niên lao công do Trần Quốc Bửu lãnh đạo, nhóm Tinh Thần do bác sĩ Trần
Văn Đỗ lãnh đạo, để lập ra Cần lao Nhân vị cách mạng đảng.
Thấy rõ Diệm có uy tín với Mỹ, nên ngày 17-5-1954, Bảo
Đại cử em trai Diệm là Ngô Đình Luyện làm đặc phái viên tại Hội nghị Geneva để
phụ trách việc tiếp xúc với Mỹ.
Thấy tình thế cấp bách, đầu tháng 6-1954, lãnh đạo
nhiều đảng phái quốc gia đồng ký một bản thỉnh nguyện yêu cầu cần chọn một
người có uy tín chống cộng lẫn chống thực dân lãnh đạo Chánh phủ, và thể hiện
sự bất tín nhiệm với thủ tướng Bửu Lộc. Ngày 8-6-1954, quốc trưởng Bảo Đại cử
một phái đoàn sang Mỹ mời Ngô Đình Diệm về Sài Gòn lập nội các. Ngày 16-6-1954,
Bửu Lộc tuyên bố từ chức, giao quyền thủ tướng cho tổng trưởng Quốc phòng Phan
Huy Quát. Ngày 18-6-1954, quốc trưởng Bảo Đại chuẩn y sự bàn giao Chánh phủ
giữa Bửu Lộc và Phan Huy Quát. Ngày 16-6-1954, Bảo Đại bổ nhiệm Ngô Đình Diệm
làm thủ tướng, được toàn quyền về quân sự và dân sự. Ngày 25-6, Diệm lên đường
về Sài Gòn nhậm chức.
X- Thời kỳ thủ tướng Ngô Đình Diệm (26-6-1954 đến
25-10-1955)
1- Nội
các Ngô Đình Diệm
Ngày 26-6-1954, Ngô Đình Diệm về tới Sài Gòn và tiếp
nhận quyết định của quốc trưởng Bảo Đại cử làm thủ tướng. Ngày 7-7-1954, Ngô
Đình Diệm công bố Nội các Chánh phủ mới gồm 17 người, hoạt động đến 25-10-1955.
- Quốc trưởng: Bảo Đại.
- Thủ tướng kiêm tổng trưởng Quốc phòng và Bộ Nội vụ:
Ngô Đình Diệm.
- Bộ trưởng Nội vụ: Nguyễn Ngọc Thơ (đến 9-1954).
- Bộ trưởng Quốc phòng: Lê Ngọc Chấn (đến 9-1954).
- Bộ trưởng Phủ Thủ tướng: Trần Chánh Thành (đến
9-1954).
- Bộ
trưởng Phủ Thủ tướng đặc nhiệm thông tin: Lê Quang Luật (đến 9-1954).
- Bộ
trưởng đặc nhiệm và phát ngôn nhân Phủ thủ tướng: Phạm Duy Khiêm.
- Tổng
trưởng Ngoại giao: Trần Văn Đỗ.
- Bộ
trưởng Tư pháp: Bùi Văn Thinh.
- Tổng
trưởng Kinh tế tài chánh: Trần Văn Của (đến 9-1954).
- Bộ
trưởng Kinh tế: Nguyễn Văn Thoại (đến 9-1954).
- Bộ
trưởng Tài chánh: Trần Hữu Phương .
- Tổng
trưởng Canh nông: Phan Khắc Sửu (đến 9-1954).
- Tổng
trưởng Giao thông công chánh: Trần Văn Bạch (đến 9-1954).
- Tổng
trưởng Lao động và thanh niên: Nguyễn Tăng Nguyên.
- Tổng
trưởng Quốc gia giáo dục: Nguyễn Dương Đôn.
- Tổng
trưởng Y tế xã hội: Phạm Hữu Chương (đến 9-1954).
- Quốc
vụ khanh: Trần Văn Chương (đến 9-1954).
- Giám
đốc Nha Tổng giám đốc Công an: Lại Văn Sang (Bình Xuyên).
2- Quốc gia Việt Nam phản đối
việc chia cắt đất nước
Ngô
Đình Diệm cực lực phản đối và yêu cầu ngoại trưởng Trần Văn Đỗ không được ký
kết hiệp định Genève chia đôi Việt Nam. Từ đó, chính trường Việt Nam lại nối
tiếp sang những trang lịch sử nóng bỏng mới mặc dù cuộc chiến tranh Đông Dương
lần thứ nhất đã kết thúc.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
Trích: Lý Đăng Thạnh -
Lịch sử Việt Nam – tập 9: “Cuộc chiến Đông Dương lần nhất (1945-1954)” (1996).