Phạm Bá Hoa
Dẫn chuyện:
Sau khi tỉnh
Phước Long vào tay quân cộng sản ngày 7/1/1975, thủ phủ Ban Mê Thuột và tỉnh
Darlac thất thủ ngày 11/3/1975, tình hình chiến sự Quân Đoàn II/Quân Khu II trở
nên sôi động. Xin nhớ là Thỏa Hiệp Ngưng Bắn đã ký tại Paris ngày 27/1/1975 và
hạ tuần tháng 3/1975 là có hiệu lực. Do vậy mà bầu không khí chính trị cũng sôi
động không kém tình hình quân sự.
Lúc bấy giờ
các vị lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đội liên quan đến những phản ứng sau
đó, là:
- Tổng Thống:
Nguyễn Văn Thiệu (Trung Tướng).
- Thủ Tướng:
Trần Thiện Khiêm (Đại Tướng).
- Tổng Tham
Mưu Trưởng: Đại Tướng Cao Văn Viên.
- Tham Mưu
Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận: Trung Tướng Đồng
Văn Khuyên. Ông được phép đưa thân phụ sang Tokyo chữa bệnh ung thư, nên không
có mặt từ lúc đầu cuộc rút quân. Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó, xử lý thường
vụ chức vụ Tổng Cục Trưởng.
- Tư Lệnh
Quân Đoàn II/Quân Khu II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú.
- Chỉ Huy
Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận (Qui Nhơn): Đại Tá Bửu Khương.
- Tham Mưu
Trưởng Quân Đoàn II, Đại Tá Lê Khắc Lý.
Lúc bấy giờ
tôi là Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.
Vào chuyện:
Ngày
14/3/1975, một buổi họp quan trọng tại Cam Ranh dưới quyền chủ tọa của Tổng Thống,
nhưng người bạn tôi ở Phủ Thủ Tướng không rõ nội dung mà chỉ áng chừng là vạch
kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột. Rất tiếc là Trung Tướng Đồng Văn
Khuyên chưa về, nên tôi với Đại Tá Phạm Kỳ Loan không biết gì hơn.
Ngày
15/3/1975, ngay đầu giờ buổi làm chiều, điện thoại reo:
- Đại Tá Hoa
tôi nghe -
- Có ai ngồi
gần anh không? -
- Dạ không,
thưa Đại Tướng -
Đó là Đại Tướng
Cao Văn Viên. Ông tiếp:
- Tuyệt đối
là anh không cho ai biết lệnh này ngoài những sĩ quan trách nhiệm thi hành -
- Vâng, tôi
rõ thưa Đại Tướng -
- Tổng Cục
Tiếp Vận có bao nhiêu phi cơ vận tải C.130 khả dụng? -
- Thông thường
thì sử dụng 2 hoặc 3 chiếc, nhưng trường hợp tối cần thiết có thể sử dụng được
8 hoặc 9 chiếc. Nhưng tôi sẽ hỏi bên Không Quân và sẽ trình lại Đại Tướng con số
chính xác hơn, thưa Đại Tướng -
- Thôi được.
Điều cần thiết là anh phải sử dụng tối đa vì đây là nhu cầu khẩn cấp. Anh liên
lạc ngay với Quân Đoàn II, xem họ cần bao nhiêu chiếc thì cho họ bấy nhiêu, còn
sử dụng vào công tác gì thì tùy họ. Nhiệm vụ kể từ ngày mai. Anh rõ chưa? -
- Thưa Đại
Tướng, tôi rõ -
- Phần anh,
anh chuyển các quân dụng đắt tiền ra khỏi Pleiku và muốn đem về đâu thì tùy
anh-
- Vâng. Tôi
thi hành, thưa Đại Tướng -
Tôi thuật lại
cho Đại Tá Loan nghe, và cả Đại Tá Loan lẫn tôi, đều không suy đoán được là
chuyện gì sắp xảy ra mà chúng tôi không được phép biết. Nếu chuẩn bị đánh nhau
với quân cộng sản thì tại sao không để quân dụng lại mà thay thế số tổn thất? Nếu
không đánh nhau,….. mà không đánh nhau là thế nào? Thật không hiểu nỗi!
Tổ chức một
quân đội, phải có hai yếu tố chính, là “con người và quân dụng”. Quân dụng do
ngành Tiếp Vận quản trị. Những gì trang bị cho mỗi quân nhân từ đỉnh đầu xuống
đến gót chân, từ dinh dưỡng đến điều trị khi bị thương hay đau yếu, vấn đề mai
táng và nghĩa trang, rồi doanh trại, phương tiện di chuyển, rồi súng đạn, xe
tăng thiết giáp, đại bác hỏa tiển,…… đều là nhiệm vụ của ngành Tiếp Vận. Ấy vậy
mà Tiếp Vận lại không được quyền biết đến kế hoạch hành quân, ít nhất là đối với
lệnh vừa rồi của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa!
Trong quân đội,
chỉ có Trung Tướng Đỗ Cao Trí và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, là hai vị Tư Lệnh
đại đơn vị đặt Tiếp vận vào đúng vị trí của ngành này mà thôi. Điển hình là
Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn III, đầu năm 1970, khi soạn kế hoạch
hành quân sang lãnh thổ Cambodia tấn công các kho dự trữ tiếp vận của quân cộng
sản sát biên giới Việt Nam, sau khi quyết định ngày N, Trung Tướng Trí nêu câu
hỏi với Trung Tá Trương Bảy (sau này là Chuẩn Tướng Cảnh Sát) Chỉ Huy Trưởng Bộ
Chỉ Huy 3 Tiếp Vận:
- Theo kế hoạch
hành quân như đã trình bày, Tiếp Vận có chuẩn bị kịp không? Nếu không, Quân
Đoàn sẽ lùi ngày lại”.
Khi vị Tư Lệnh
hỏi như vậy, cho dù chuẩn bị gấp rút cách mấy cũng phải thực hiện cho xong chớ
đâu thể xin lùi ngày được. Đằng nào cũng phải vất vã, nhưng vất vã mà được biết
đến vẫn vui lòng hơn.
Trước khi
lên Pleiku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú điện thoại
tôi:
- Anh Hoa à,
tôi sắp sửa lên Quân Đoàn II, anh cho tôi mượn Trung Úy Thiêm một tuần để nó
lên đó chọn hướng đặt bàn giấy giùm tôi nghe anh-
- Vâng. Tôi
sẽ nói với anh Thiêm và Thiếu Tướng cứ liên lạc trực tiếp với anh ấy về những
chi tiết cần thiết -
Lúc bấy giờ
tôi là Cục Trưởng Cục Mãi Dịch (đồn trú ở Sài Gòn), và trong đơn vị tôi có
Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm được nhiều người cho là giỏi tướng số tử vi và chữ
ký. Và sau 5 ngày công tác riêng cho Thiếu Tướng Phú ở Plei Ku trở về, Trung úy
Thiêm nói với tôi:
- Thưa Đại
Tá, tôi thấy vận số của Thiếu Tướng Phú hết rồi, nhiều lắm cũng chỉ tính bằng
tháng chớ không tính bằng năm đâu -
- Anh có nói
gì với Thiếu Tướng Phú không?-
- Dạ không.
Vì sợ ổng mất tinh thần. Với lại có nói ra cũng không có cách gì giải được, thà
không nói vẫn hơn -
- Nghî như
anh cũng phải -
(Năm 1990,
tôi được biết Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm định cư tại Australia )
Tôi nhớ, có
một hôm Trung Tướng Đồng Văn Khuyên nói với tôi rằng, “Thiếu Tướng Phú tuổi con
rắn, nên Tổng Thống cử lên Quân Đoàn II vì rắn thích hợp với núi rừng”.
Trở lại lệnh
của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi gọi lên Plei Ku liên lạc với Đại Tá Lê
Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II:
- Tôi Hoa
đây anh Lý. Tôi được lệnh cấp C.130 cho anh nhưng không được biết là Quân Đoàn
sử dụng vào công tác gì. Vậy anh có thể cho tôi biết để tôi tiện sắp xếp phi cơ
theo đúng nhu cầu của anh không ? Vì chắc anh cũng biết là số phi cơ khả dụng của
chúng tôi giới hạn lắm -
- Anh cứ đưa
lên đây cho tôi, còn sử dụng vào công tác gì thì không thể nói được đâu- Lời của
Đại Tá Lý.
- Đành vậy.
Nhưng anh cần bao nhiêu chiếc? Cần vào lúc nào? Và chuyển vận từ đâu tới đâu?
- Anh có bao
nhiêu chiếc thì đưa lên tôi bấy nhiêu, và kể từ sáng mai (16/3/1975). Không
trình có thể là từ Plei Ku đến Nha Trang hoặc Sàigòn -
- Vậy thì
như thế này. Sáng mai tôi cho lên anh 2 chiếc, trong khi 2 chiếc kế tiếp túc trực
tại phi trường Tân Sơn Nhất và anh cần là cất cánh ngay, vì một lúc anh đâu sử
dụng được 4 chiếc. Được không? -
- Được. 8 giờ
sáng mai anh cho có mặt tại phi trường Cù Hanh nghe -
- Xong. Mình
thỏa thuận như vậy nhé -
Tôi trình Đại
Tá Loan là vẫn không biết được gì thêm ở Quân Đoàn II. Đại Tá Loan hỏi Chuẩn Tướng
Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu, Chuẩn Tướng Thọ cũng không tiết
lộ điều gì. Bên Không Quân xác nhận là có thể sử dụng tối đa 9 chiếc C.130,
nhưng sau khi sử dụng như vậy thì các nhu cầu tiếp theo không thể thực hiện được
ít nhất là một tuần vì phải tu bổ lại. Bộ Chỉ Huy Không Chiến, cơ quan điều động
phi cơ, đồng ý về thỏa thuận giữa tôi với Đại Tá Lý, nghĩa là 2 chiếc C130 cất
cánh lên Pleiku thì 2 chiếc kế tiếp túc trực tại căn cứ Tân Sơn Nhất.
Sáng ngày
16/3/1975, Bộ Chỉ Huy Không Chiến điện thoại tôi:
- Trình Đại
Tá, trưởng phi cơ C.130 đang trên không phận phi trường Cù Hanh (Plei Ku), cho
biết là không thể nào đáp xuống phi trường được, vì người ta đông không thể tưởng
tượng nỗi. Chẳng biết là chuyện gì xảy ra vì không liên lạc được dưới đất. Và
hai chiếc C.130 đang chờ lệnh Đại Tá đó -
- Anh chuyển
đến Trưởng phi cơ, hãy chờ tôi vài phút để tôi liên lạc với Quân Đoàn xem tình
hình ra sao đã -
Gọi Quân
Đoàn II và tôi nói chuyện với Đại Tá Lý:
- Phi cơ tôi
đang trên không phận của anh đó, nhưng không thể đáp được. Nếu anh muốn họ đáp
xuống thì anh phải giải toả sân bay giùm đi vì nếu chậm quá thì họ sẽ về lại
Sài Gòn đó. Mà chuyện gì xảy ra vậy Anh? -
- Tại vì người
ta tranh nhau chờ lên phi cơ mới có chuyện tràn ngập đường băng như vậy. Để tôi
cho Quân Cảnh giải toả, anh bảo phi cơ đáp xuống cho tôi đi -
- Thì phi
hành đoàn đang chờ đường băng trống là đáp xuống, trừ khi anh không giải toả nỗi.
Anh nhớ ưu tiên cho Trung Tá Thời, Liên Đoàn Trưởng Yểm Trợ Tiếp Vận của tôi ở
Plei Ku, chở một số kiện hàng quan trọng xuống Qui Nhơn hoặc Nha Trang à nghe -
Tôi lại nhờ
Bộ Chỉ Huy Không Chiến chuyển đến phi hành đoàn C.130. Và sau đó, phi cơ đáp xuống
được tuy rất khó khăn vì đông nghẹt người là người hai bên đường băng. Để rồi một
hình ảnh hỗn loạn chưa từng thấy -theo lời thuật của Trưởng phi cơ- là cả một rừng
người chen lấn xô đẩy, thậm chí đạp lên nhau để tranh lên phi cơ, và hết sức
khó khăn đến độ nguy hiểm, phi hành đoàn mới cho phi cơ cất cánh được.
Hóa ra là Bộ
Tư Lệnh Quân Đoàn chuyển xuống Nha Trang. Tôi trình ngay cho Đại Tá Loan vì ước
tính là sắp đánh nhau với quân cộng sản rồi. Ước tính này không phải là vô căn
cứ, bởi vì cộng sản đã chiếm thủ phủ Cao Nguyên, bây giờ chúng tấn công vào Bộ
Tư Lệnh Quân Đoàn II cũng là điều có thể xảy ra lắm chớ. Nhưng chúng tôi nhầm …
Vì sáng ngày
17/3/1975, trong lúc 2 chiếc C.130 trên không phận Plei Ku thì điện thoại nhà
tôi reo, hôm nay là chủ nhật nên tôi đi làm muộn:
- Đại Tá Hoa
tôi nghe -
- Bộ Chỉ Huy
Không Chiến đây Đại Tá. Trưởng phi cơ cho biết là toàn thị xã Plei Ku hôm nay
không có một bóng sinh vật nào cả, và bây giờ phi hành đoàn xin phép về lại căn
cứ -
- Anh hỏi lại
phi hành đoàn giùm tôi, nếu sự thực hoàn toàn đúng như vậy thì tôi đồng ý phi
cơ quay về. Xin nhớ, đây là trách nhiệm rất quan trọng nghe anh.
Tôi điện thoại
qua nhà Đại Tá Phạm Kỳ Loan, và ngay sau đó Đại Tá Loan liên lạc Chuẩn Tướng Trần
Đình Thọ (Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu) nhưng Chuẩn Tướng Thọ vẫn không nhỏ
được một giọt thông tin nào về tình hình đó cả. Tôi và Đại Tá Loan tức lắm,
nhưng chúng tôi không có cách nào khác vì Trung Tướng Khuyên đi Tokyo chưa về.
Có vẻ như chúng tôi bị coi như là những sî quan không đáng tin cậy thì phải, ít
nhất cũng là không được tin cậy trong cuộc hành quân này, dù rằng Đại Tá Loan
đang là cấp chỉ huy cao nhất của ngành Tiếp Vận với gần 100.000 quân nhân công
chức chuyên ngành và quản trị một khối lượng dụng cụ chiến tranh trên dưới 7 tỉ
mỹ kim!
Tất cả các hệ
thống liên lạc truyền tin bằng vô tuyến lẫn hữu tuyến của quân đội, cũng như hệ
thống liên lạc bên hành chánh, đều không liên lạc được với bất cứ cơ quan đơn vị
nào ở Plei Ku cả. Đại Tá Bửu Khương (ở Qui nhơn) cũng không có tin tức gì khá
hơn trong khi đoàn quân xa hơn 100 chiếc của Liên Đoàn 2 Vận Tải vẫn còn kẹt
trên Plei Ku vì quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn – Plei Ku bị quân cộng sản chiếm
giữ nhiều chặng. Một tình hình không thể hiểu nỗi ít nhất là đối với ngành Tiếp
Vận chúng tôi. Không biết tại sao lúc ấy chúng tôi không nghĩ đến giả thuyết
nào khác, chẳng hạn như Quân Đoàn II vờ rút quân ra ngoài để thành phố bỏ ngỏ
cho q6an cộng sản tiến vào, và bất thình lình quật lại tấn công chúng ngay
trong thành phố. Còn về giả thuyết rút bỏ Cao Nguyên thì nhất thiết không thể
có trong tư tưởng của bất cứ sĩ quan nào chớ chẳng riêng gì chúng tôi. Cho dù một
giả thuyết như vậy thôi cũng không có trong hàng sĩ quan cấp dưới, nhưng nó lại
là một kế hoạch thật sự của hàng sĩ quan cấp Tướng lãnh đạo đất nước 20.000.000
dân, trong đó có một quân đội hơn 1.000.000 người!
Cả hai chúng
tôi -Đại Tá Loan và tôi- không thông báo tình hình tệ hại đó cho bộ tham mưu Tổng
Cục Tiếp Vận biết, trong khi chúng tôi hết sức lo lắng cho tất cả quân nhân nói
chung và số phận của anh em trong ngành Tiếp Vận ở Plei Ku và Kon Tum nói
riêng, vì chúng tôi không có bất cứ một thông tin nào về tình hình đó, kể cả
nguồn cung cấp chính xác nhất là vị Tướng Trưởng Phòng 3 ngang hàng với cơ quan
chúng tôi, và vị Tổng Tham Mưu Trưởng cấp trên của chúng tôi cũng vậy.
Chiều
18/3/1975, điện thoại reo:
- Đại Tá Hoa
tôi nghe -
- Khương đây
anh Hoa- Đó là Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, đồn trú
tại Qui Nhơn.
- Anh có tin
gì về anh em mình trên Plei Ku chưa? -
- Liên Đoàn
2 Vận Tải mới liên lạc vô tuyến với đoàn xe bị kẹt trên Plei Ku rồi anh. Đoàn
xe này đang cùng với hằng ngàn quân xa và dân xa rút bỏ Plei Ku và Kon Tum,
đang di chuyển trên đường liên tỉnh số 7 để xuống Tuy Hòa. Toàn bộ lực lượng gồm
nhiều đơn vị chiến đấu, cùng với Pháo Binh, Thiết Giáp, bị sa lầy sau khi vượt
qua Cheo Reo. Phần thì đường hư cầu sập làm nhiều chiến xa M.48 và đại bác 175
cơ động lật xuống hố, phần thì các đơn vị cộng sản tấn công nhiều mặt, đã gây tổn
thất nặng cho cả quân đội lẫn dân sự nhưng chưa thấy phản ứng của Quân Đoàn.
Anh em mất tinh thần lắm anh ơi! -
- Được rồi.
Bảo vệ đoàn quân và khi nào xuống đến Tuy Hoà, chắc chắn là trách nhiệm của
Quân Đoàn. Bây giờ anh nên chuẩn bị tổ chức nhiều toán do một sî quan của Bộ Chỉ
Huy Tiếp Vận chỉ huy và đặt tại Tuy Hoà, mỗi toán phụ trách một công tác, để
khi đoàn quân xuống đến Tuy Hòa thì cấp phát ngay cho bất cứ đơn vị nào mà
không cần theo thủ tục tiếp liệu thông thường, chỉ cần viết tay và ký nhận là đủ.
Hàng mang theo cấp phát là: Lương khô đủ ăn 3 ngày, 1 bộ quần áo trận, đổ đầy
xăng dầu cho xe chạy bánh và xe chạy xích. Toán Quân Y thì cấp thuốc cho các bệnh
thông thường và cấp cứu đầu tiên. Anh thấy được không? -
- Được anh.
Để tôi lo -
- Anh nói
Liên Đoàn 2 Vận Tải ráng giữ liên lạc và khi có bất cứ tin tức gì về đoàn quân
này thì anh cho tôi biết ngay nghe anh Khương-
Sở dĩ có
đoàn xe hằng trăm chiếc bị kẹt ở Plei Ku, là vì sau khi Phước Long mất, Trung
Tướng Đồng Văn Khuyên ra lệnh cho tôi thực hiện kế hoạch chuyển tiếp liệu loại
1 (lương thực thực phẩm), loại 3 (nhiên liệu), loại 5 (đạn dược chất nổ), lên
Plei Ku dự trữ cho 20.000 quân phòng thủ trong 30 ngày mới bổ sung. Do vậy mà hằng
ngày đoàn xe cả trăm chiếc đi đi về về giữa Qui Nhơn với Plei Ku để vận chuyển
tiếp liệu từ Qui Nhơn lên Plei Ku.
Tôi sang văn
phòng Đại Tá Loan, và sau đó tôi điện thoại lên Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng:
- Tôi Hoa
đây anh Nguyện (Đại Tá Nguyễn Kỳ Nguyện, chánh văn phòng), anh cho tôi trình vấn
đề gấp với Đại Tướng -
- Anh chờ
tôi một chút -
- Tôi đây.
Anh có chuyện gì vậy? -
- Thưa Đại
Tướng, tôi Hoa đây -
- Có việc gì
vậy? -
- Vài phút
cách đây, Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, cho tôi biết
về đoàn quân rút bỏ Plei Ku và Kon Tum đang bị sa lầy … (tôi thuật lại chi tiết
mà tôi và Đại Tá Khương đã nói với nhau).
- Anh có chắc
là đúng như vậy không? -
- Từ chổ
đoàn xe bị kẹt đến Đại Tá Khương như thế nào thì tôi không dám chắc, nhưng từ Đại
Tá Khương đến tôi là hoàn toàn chính xác, thưa Đại Tướng -
- Thôi được.
Anh đừng nói với ai nữa nghe -
- Vâng -
Đại Tá Loan
và tôi đều ngẩn ngơ về câu sau cùng của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Chúng
tôi ngẩn ngơ vì không hiểu tại sao tình hình đến như vậy mà vẫn muốn giấu kín
chúng tôi nữa! Vài phút sau đó, Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ điện thoại tôi:
- Cưng ơi
(Chuẩn Tướng Thọ thường gọi tôi như vậy), cưng có liên lạc với đoàn xe trên đường
số 7 hả? -
- Tôi không
trực tiếp liên lạc nhưng Liên Đoàn 2 Vận Tải của chúng tôi đã liên lạc được với
đoàn xe chở tiếp liệu lên Plei Ku và bị kẹt trên đó, nay thì cùng trong đoàn
quân sa lầy mà vừa rồi tôi đã trình Đại Tướng -
- Có. Đại Tướng
mới gọi anh đây. Cưng cứ biết vậy thôi nghe -
Tôi có biết
chút ít về đường liên tỉnh số 7 này, từ đoạn Plei Ku vào đến Cheo Reo và xuống
đến Cung Sơn. Vì cuối năm 1955 -lúc bấy giờ tôi đang là Thiếu Úy, Đại Đội Trưởng
thuộc Tiểu Đoàn Khinh Quân 510- toàn bộ Tiểu Đoàn chúng tôi cùng với Tiểu Đoàn
Khinh Quân 507 và 527, di chuyển từ Vỉnh Long lên Cao Nguyên và đồn trú tại
Cheo Reo, để thành lập Trung Đoàn 35 Bộ Binh trong hệ thống tổ chức Sư Đoàn
Khinh Chiến 12. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đồn trú tại Plei Ku. Các Tiểu Đoàn được cấp
phiên hiệu như sau: Tiểu Đoàn 507 thành Tiểu Đoàn 1/35, Tiểu Đoàn 510 chúng tôi
thành Tiểu Đoàn 2/35, và Tiểu Đoàn 527 thành Tiểu Đoàn 3/35.
Vì các đơn vị
yểm trợ tiếp liệu và hành chánh tài chánh đồn trú ở Plei Ku, nên chúng tôi thường
xuyên đi lại giữa Cheo Reo với Plei Ku bằng đường liên tỉnh số 7 và một đoạn quốc
lộ 14. Sở dĩ đoạn đường từ ngã ba quốc lộ 14 với liên tỉnh lộ 7 -tên địa phương
là Mỹ Thạch- vào đến Cheo Reo còn sử dụng được, là vì trong chiến tranh giữa thực
dân Pháp với cộng sản 1945-1954 (lúc đó cộng sản núp dưới tên Việt Minh), Cheo
Reo là cứ điểm quân sự của Pháp, nên đường này được tu bổ vì nó là “con đường
huyết mạch” của cứ điểm. Còn đoạn từ Cheo Reo xuống Cung Sơn và Tuy Hoà, quân đội
Pháp không sử dụng nên không tu bổ gì cả. Khi Trung Đoàn chúng tôi đến Cheo
Reo, thì xác những chiếc thiết giáp của Pháp còn ngổn ngang tại đó, còn chiếc cầu
bắc ngang Sông Ba thì tồi tệ hơn bất cứ chiếc cầu tồi tệ nào. Thuở ấy “rất là
hoà bình”, nên chúng tôi thường đi săn trên đường từ Cheo Reo xuống đến Cung
Sơn, chỉ cần thận trọng một chút thì xe jeep vẫn bò qua chiếc cầu tồi tệ ấy được.
Trên đoạn đường này, chiếc xe jeep của chúng tôi chỉ gọi là “bò” chớ không thể
gọi là chạy được vì mặt đường giữa vùng rừng già heo hút này hầu như không còn
gì để gọi là con đường nữa.
Giữa năm
1969, lúc ấy tôi là Đại Tá, tháp tùng Trung Tướng Nguyễn Văn Là, đến thăm các
đơn vị tại Cheo Reo và các quận lân cận, con đường bên kia Sông Ba được tu bổ
đôi chút. Và nếu đoạn đường tiếp nối xuống Cung Sơn để ra Tuy Hoà (tỉnh Phú
Yên) không được tu bổ thường xuyên, mà Quân Đoàn II quyết định sử dụng cho đoàn
quân hơn 10.000 người cùng với trên dưới 2.000 quân xa, dân xa, và chiến xa hạng
nặng triệt thoái, quả là tạo được bất ngờ đối với địch, nhưng phải nói là quá
liều lĩnh! Bất ngờ, nhưng con đường có sử dụng được hay không, lại là vấn đề
trước mặt của Quân Đoàn II nói chung, và của bộ chỉ huy hành quân cuộc hành
quân lui binh này nói riêng.
Chiều tối
hôm sau thì Trung Tướng Đồng Văn Khuyên từ Tokyo (Nhật Bản) về đến. Sau khi
nghe chúng tôi trình bày về tình hình từ ngày ông vắng mặt đến nay, ông nói
sáng mai sẽ trình diện Tổng Thống với Đại Tướng (Tổng Tham Mưu Trưởng), chắc là
sẽ có tin tức rõ ràng hơn.
Và đây là những
tin tức đó:
“Sau khi mất
Ban Mê Thuột, áp lực của quân cộng sản rất mạnh. Tổng Thống nhận định là không
đủ khả năng bảo vệ toàn bộ Cao Nguyên trong khi Ban Mê Thuột cần giữ hơn là
Plei ku với Kon Tum, vì vậy mà Tổng Thống trong buổi họp tại Cam Ranh, đã quyết
định rút bỏ Plei Ku, Kon Tum, Phú Bổn, để đem lực lượng về phản công lấy lại
Ban Mê Thuột. Tổng Thống giao cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn
II, nhiệm vụ thực hiện cuộc hành quân triệt thoái khỏi 3 tỉnh đó, nhưng phải giữ
bí mật tối đa và bảo vệ toàn vẹn lực lượng (có lẽ vì bảo mật tối đa mà Tổng Cục
Tiếp Vận chúng tôi không được cho biết gì cả). Thiếu Tướng Phú trình kế hoạch
là rút theo đường liên tỉnh số 7, dù rằng con đường này không sử dụng từ lâu
nhưng đạt được yếu tố bất ngờ đối với lực lượng cộng sản. Thiếu Tướng Phú đề
nghị Tổng Thống thăng cấp Chuẩn Tướng cho Đại Tá Phạm Duy Tất, và Chuẩn Tướng Tất
sẽ là Chỉ Huy Trưởng cuộc hành quân lui binh này. Lời đề nghị được Tổng Thống
chấp thuận tại chổ”. Lúc bấy giờ, Đại Tá Phạm Duy Tất đang là Chỉ Huy Trưởng Biệt
Động Quân/Quân Đoàn II.
Hết giờ buổi
chiều khá lâu, bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận chỉ còn nhân viên trực hoạt động.
Trung Tướng Khuyên gọi tôi lên văn phòng (ông ngồi ở văn phòng Tham Mưu Trưởng/Bộ
Tổng Tham Mưu, trên tòa nhà chánh), và ông đưa tôi xem một xấp không ảnh (ảnh
chụp từ trên phi cơ) đã được giải đoán đầy đủ. Toàn bộ xấp không ảnh cho thấy
đoàn xe không phải theo một hình dài mà là một hình gần như tròn, vì khi phần
đi đầu bị kẹt thì những chiếc sau cứ lấn qua bên trái hay bên phải với hy vọng
tìm được lối đi, nhưng càng lấn vào rừng thì càng không lối thoát, và cứ như thế
mà cả đoàn xe quá nhiều đó đã tạo nên dáng như vậy. Ghi chú bên cạnh những
khoanh tròn bằng ngòi bút của chuyên viên giải đoán không ảnh, có gần 800 xe đã
bị thiêu hủy. Nếu như giải đoán viên không ảnh chính xác hay ít ra cũng gần như
vậy, thì chỉ mới 4 ngày dấn thân vào đường liên tỉnh số 7 mà số xe bị tổn thất
trên dưới 1/3 trong tổng số xe các loại, quả là rất nặng. Trong số tổn thất đó
có Tiểu Đoàn Pháo Binh 175 ly cơ động và Trung Đoàn Chiến Xa hạng nặng M48″.
Đây là hai loại vũ khí mới được Hoa Kỳ viện trợ năm 1973 bằng cách các đơn vị
pháo binh và xe tăng của họ chỉ rút người về nước và để toàn bộ chiến cụ đó lại
cho quân đội chúng ta.
Những bài học
chiến thuật trong trường Võ Bị cũng như trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện
Nghiên Cứu Quân Sự Đông Dương của Pháp và là tiền thân của trường Chỉ Huy Tham
Mưu Cao Cấp) đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân thì hành quân rút lui
(hay triệt thoái, hay lui binh) là nhiều hiểm nguy hơn các cuộc hành quân khác,
vì đơn vị “đưa lưng” về phía địch. Khi tấn công thì trước mặt là địch và sau
lưng là hậu tuyến, còn trong rút lui thì trước mặt lại là hậu tuyến mà sau lưng
trở thành tiền tuyến. Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học “lui
binh” là phải có một lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước
mặt (hậu tuyến), còn lực lượng lui binh thì tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến),
ngoài ra phải được Không Quân quan sát và yểm trợ hỏa lực nữa.
Với cuộc
hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hòa lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng
tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vì bị quân Việt cộng liên tục phục
kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hoà thì tổn thất đến nỗi không còn khả năng thực
hiện kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết
dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết vì súng đạn, chết
vì xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa bãi, chết vì tranh nhau miếng ăn
nước uống, chết vì cướp giật, ..v..v..
Rút bỏ 3 tỉnh
Cao Nguyên là Plei Ku, Kon Tum, và Phú Bổn, những tưởng bảo toàn được lực lượng
gồm một phần của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Pháo Binh,
Thiết Giáp, Công Binh, Truyền Tin, và các ngành khác, để phản công chiếm lại thủ
phủ Ban Mê Thuột, nhưng rồi toàn bộ Cao Nguyên miền Trung bỗng dưng rơi vào tay
quân cộng sản một cách nhẹ nhàng. Tôi nói “bỗng dưng”, vì rút bỏ Plei Ku từ đêm
thứ bảy 16 rạng ngày chủ nhật 17/3, mà đến 3 giờ 15 phút chiều thứ tư 20/3/75
tín hiệu của Truyền Tin tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II mới ngưng hoạt động. Đại Tá
Cục Trưởng Cục Truyền Tin nói với tôi như vậy. Điều này có thể là lúc đó quân cộng
sản mới tiến đến và phá hủy máy móc hoặc tắt máy, cũng có thể là quân cộng sản
chưa chiếm nhưng vì máy phát điện hết nhiên liệu nên cả hệ thống đều ngưng hoạt
động. Cho dù ở vào trường hợp nào đi nữa, thì rõ ràng là quân cộng sản mà mình
tưởng nó bao vây hay sắp sửa bao vây Plei Ku, nhưng thật ra chúng còn ở tận đâu
đâu nên mãi 4 ngày sau -đó là thời gian sớm nhất- chúng mới vào chiếm Bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn, trong khi những Sư Đoàn của chúng ở càng xa Plei Ku về hướng Nam và
Đông Nam thì khoảng cách càng gần với đoàn quân triệt thoái hơn, do dó mà thiệt
hại của đoàn quân nặng nề chưa từng thấy trong hơn 20 năm chiến tranh! Một thất
bại vô cùng đau đớn cho những người cầm súng, nhất là những người cầm súng dưới
quyền chỉ huy của vị Tư Lệnh đã từng xông pha trận mạc. Thiếu Tướng Phạm Văn
Phú, khi còn là sĩ quan cấp Úy cấp Tá trong hàng ngũ quân đội Liên Hiệp Pháp lẫn
trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đã có tiếng là cấp chỉ huy can đãm, không lùi
bước bất kể chiến trận gay go nghiêng ngã như thế nào. Nay, với chức vụ Tư Lệnh
Quân Đoàn II, liệu có phải là hơi quá tầm lãnh đạo chỉ huy của ông không? Hay
là quyền lực hoặc khả năng của ông bị điều gì đó giới hạn? Thiếu Tướng Phạm Văn
Phú đã tự tử ngay sau ngày 30/4/1975. Tôi đến chùa Vĩnh Nghiêm (Sài Gòn) vào
ngày 2/5/1975 và chào tiễn biệt ông vào cõi vĩnh hằng giữa hoàn cảnh đau thương
của đất nước, dân tộc!
Năm 1960,
trong thời gian tôi học tại Trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu
Quân Sự của Quân Đội Viễn Chinh Pháp), tôi đọc được một tập tài liệu, có nhận định
rằng: “Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm giữ được Cao Nguyên miền Trung thì
người dó sẽ nắm phần chiến thắng”. Chắc chắn rằng, những vị Tướng của chúng ta
đang nắm quyền lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đội đều biết tài liệu đó,
nhưng có thể các vị bị chính trị đẩy Cao Nguyên ra khỏi tầm tay chăng?
Ngược dòng
thời gian, thượng tuần tháng 5/1954, Điện Biên Phủ do 13.000 quân của Pháp trấn
giữ, đã thất thủ làm rúng động toàn bộ quân viển chinh Pháp tại Đông Dương và
rúng động cả nước Pháp. Và hiển nhiên là sự thất trận này đã đưa nước Pháp đến
tình trạng mất toàn bộ Đông Dương gồm Việt Nam, Cam Bốt, và Lào. Hơn 20 năm sau
-tháng 3/1975- toàn bộ Cao Nguyên miền Trung vào tay quân cộng sản, làm rúng động
toàn quân và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa. Và liệu sự thất bại này có phải là
nguyên nhân dẫn đến toàn bộ Việt Nam Cộng Hòa vào tay quân cộng sản từ ngày cuối
tháng 4/1975 không? Dù gì đi nữa thì sự thể đã là như vậy rồi!
Tình trạng hỗn
loạn bi đát trong cuộc hành quân lui binh trên đường liên tỉnh số 7, nếu chưa
phải là nguyên nhân chính, cũng là khởi đầu cho sự hỗn loạn trong các cuộc hành
quân lui binh của các Sư đoàn 1, 2, 3, 22, 23 Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục
Chiến, Biệt Động Quân, Hải Quân, Không Quân, dọc các tỉnh duyên hải từ Quảng Trị
, Huế, Đà Nẳng, đến Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hòa, Cam Ranh.
Trước ngày
cuối tháng 3/1975, thì từ Quảng Trị đến Cam Ranh đều bỏ ngỏ. Tôi nói “bỏ ngỏ”
vì không có Tiểu Khu nào hay Trung Đoàn, Sư Đoàn, Quân Đoàn nào, phòng thủ chống
lại quân cộng sản, hoặc nếu có chống trả như Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại sườn Tây Đà
Nẳng cũng chỉ trong thời gian ngắn ngủi là rút lui, còn lại là rút đi trước khi
quân cộng sản đến!
Trong số những
vị Tướng Tư Lệnh đại đơn vị thuộc Quân Đoàn I và Quân Đoàn II rút khỏi khu
trách nhiệm của những vị đó, tôi luôn tự hỏi về thái độ của Trung Tướng Ngô
Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân khu I. Tôi được tiếp xúc với ông qua những
công tác “chống đảo chánh” từ năm 1965 khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhẩy Dù.
Chính vì hiểu ông mà tôi tự hỏi như vậy. Bởi trong cuộc tấn công của quân cộng
sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm 1968, Huế và nhất là trong khuôn viên thành nội,
nơi có bản doanh cùng một số đơn vị của Sư Đoàn 1 Bộ Binh đồn trú, đã bị chúng
chiếm giữ trong 3 tuần lễ. Lúc bấy giờ, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng (cấp bậc
lúc ấy) là Tư Lệnh Sư Đoàn này. Cuộc phản công chiếm lại từng khu vực trong
thành nội Huế rất cam go với tổn thất đáng kể, Chuẩn Tướng Trưởng đã chứng tỏ
quyết tâm tiêu diệt quân cộng sản hay ít nhất cũng phải đánh bật chúng ra khỏi
Huế trong thời gian ngắn nhất, khi ông đứng nghiêm chỉnh ở chân cột cờ với lễ
phục và huy chương biểu tượng cho các chiến công của ông, Chuẩn Tướng Trưởng đã
kêu gọi quyết tâm của quân sĩ dưới quyền ông hãy vì danh dự và trách nhiệm đối
với tổ quốc dân tộc. Qua lời kêu gọi đầy trách nhiệm cùng với nhiệt tâm của
ông, chính là quyết tâm của vị Tư Lệnh cùng quân sĩ chiến đấu, đã thúc đẩy cuộc
phản công của Sư Đoàn đến chiến thắng vẻ vang. Đành rằng trong cuộc hành quân
phản công này, có sự chiến đấu yểm trợ của quân lực Hoa Kỳ, nhưng Sư Đoàn 1 Bộ
Binh Việt Nam vẫn là lực lượng chính.
‘Mùa Hè Đỏ Lửa’
năm 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (đã thăng cấp) đang là Tư Lệnh Quân Đoàn
IV/Quân khu IV vùng đồng bằng Cửu Long, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử giữ
chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I và tức tốc lên phi cơ ra Đà Nẳng nhận chức.
Một vị Tướng như thế, tôi nghĩ, ông không thể để Đà Nẳng vào tay quân cộng sản
gần như êm thắm như vậy! Xin nhớ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng gốc là binh chủng
Nhẩy Dù, và binh chủng này là một trong những binh chủng rất lì với chiến trận.
Nhưng sự thể đã diễn ra như vậy, ắt phải có điều gì đằng sau quyết định rút bỏ
thành phố cảng quan trọng của miền Trung. Và chỉ có Trung Tướng Ngô Quang Trưởng
mới có thể hiểu đến tận cùng điều ấy mà thôi.
Ngày
14/1/1995, tôi gặp anh Nguyễn Thành Trí trong chợ Hong Kong ở Houston, bạn tôi.
Anh là cựu Đại Tá, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, và Sư Đoàn này đặt
dưới quyền sử dụng dài hạn của Quân Đoàn I từ sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm
1972. Dưới đây là lời thuật của cựu Đại Tá Trí về những ngày cuối tháng 3/1975,
trong lúc anh và bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở khu vực Non
Nước, Đà Nẳng:
‘’Khoảng 5
giờ chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975, quân cộng sản tấn công vào Sư Đoàn 3 Bộ
Binh ở sườn Tây Đà Nẳng, và chỉ vài giờ chống trả là Sư Đoàn rút lui, tạo khoảng
trống bên sườn của Thủy Quân Lục Chiến, và các đơn vị co về bản doanh Sư Đoàn
(Thủy Quân Lục Chiến). Thiêu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến, đã rời khỏi Sư Đoàn và lên chiến hạm của Hải Quân (Việt Nam) từ lúc chiều.
Nhưng trước khi đi ông có đến gặp Trung Tuóng Ngô Quang Trưởng xin quyết định
vì tình hình rất nghiêm trọng, nhưng Trung Tướng Trưởng không nói gì cả. Lúc
này bên cạnh Thiếu Tướng Bùi Thế Lân có ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng,
ông ta có mang theo máy vô tuyến cầm tay loại nhỏ và chốc chốc ông ta nói vị
trí của ông với ai ở đâu đó tôi (tức cựu Đại Tá Trí) không rõ. Thiếu Tướng Bùi
Thế Lân nói với tôi rằng: Ông Tổng Lãnh Sự khuyên ổng (tức Thiếu Tướng Lân) nên
bảo toàn lực lượng, nhưng Thiếu Tướng Lân không nói điều này với Trung Tướng
Trưởng.
‘’Khoảng nửa
đêm 28 rạng 29/3/1975, có tiếng động cơ trực thăng xuống bãi đáp bên cạnh, sĩ
quan trực chạy ra đón và hướng dẫn phái đoàn vào bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến, gồm các vị: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng
Khánh (tôi không biết họ) Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân (đồn trú tại Đà Nẳng), Đại
Tá Phước (cũng không biết họ) Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51/Sư Đoàn 1 Không
Quân, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh/Thị Trưởng Thừa Thiên/Huế, và Đại Úy sĩ quan
tùy viên của Trung Tướng Trưởng. Vào bộ chỉ huy, sau khi Trung Tướng Trưởng
liên lạc với các đơn vị và được biết đã rút lui an toàn (tức bỏ Đà Nẳng), Trung
Tướng Trưởng nói với các sĩ quan cùng đi theo ông:
- Bây giờ
thì các anh hãy tự thoát, còn tôi, tôi đi theo Thủy Quân Lục Chiến-
‘’Trung Tướng
Trưởng vừa nói xong thì gần như cùng một lúc, Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước,
Đại Tá Duệ, cùng chào Trung Tướng Trưởng và lên trực thăng cất cánh ngay. Khoảng
6 giờ sáng ngày 29/3/1975, sĩ quan vào trình tôi là chiến hạm đang tiến vào để
đón các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Tôi đến trình Trung Tướng Trưởng:
- Thưa Trung
Tướng, tôi không biết do lệnh từ đâu mà chiến hạm đang chờ đón tôi và các đơn vị
Thủy Quân Lục Chiến. Vậy Trung Tướng nên đi với chúng tôi ngay bây giờ, thưa
Trung Tướng-
‘’Sau một
lúc chần chừ như có ý không muốn rời Đà Nẳng, ông đứng dậy cùng đi với tôi.
Nhưng vì chiến hạm không vào sát bờ được, cũng không có tàu nhỏ để từ bờ ra chiến
hạm, nên tất cả đều lội nước, và khi mực nước lên đến ngực cũng là lúc trèo lên
tàu. Sau khi mọi người lên chiến hạm, lúc ấy tôi trông thấy Đại Tá Hường (Nguyễn
Xuân Hường), Tư Lệnh Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh đã có mặt trên tàu. Chiến hạm lui ra
khơi nhưng chưa chạy, có vẻ như chờ lệnh hay chờ ai đó.
‘’Vài tiếng
đồng hồ sau, chiếc trực thăng chở các sĩ quan rời khỏi bộ chỉ huy hành quân Sư
Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lúc nửa đêm qua, đã quay trở lại, không rõ là do thời
tiết xấu hay vì lý do gì đó, và cả ba vị là Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, với
Đại Tá Duệ, cùng lội nước ra chiến hạm. Vẫn là chiến hạm đang có Trung Tướng
Trưởng trên đó. Tôi thấy sự chia tay đêm qua sao mà thản nhiên quá, thản nhiên
đến mức không có vẻ gì có chút tình cảm đọng lại trong giây phút chia tay đó
làm tôi cảm thấy khó chịu. (lời của Phạm Bá Hoa: thuật chuyện đến đây đôi mắt
anh Trí đỏ hoe, chực phát khóc! Rõ ràng là anh đang xúc động!)
Sau phút im
lặng vì xúc động, cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí thuật tiếp:
‘’Tôi nhờ
ông Hạm Trưởng để 3 sĩ quan này ở phía trước hầu tránh cho Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng trông thấy e không đẹp lòng nhau. Mãi đến quá trưa, chiến hạm mới rời
vùng biển Đà Nẳng và trực chỉ Cam Ranh. Giữa chiến hạm với Bộ Tư Lệnh Hải Quân
giữ liên lạc vô tuyến chặt chẻ, nên khi chiến hạm vừa đến vịnh Cam Ranh thì nhận
được công điện của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Theo đó thì Tổng Thống ra lệnh
cho tất cả lên bờ, chỉ riêng Trung Tướng Trưởng vẫn ở trên chiến hạm và về Sài
Gòn ngay. Tôi thắc mắc nếu muốn Trung Tướng Trưởng về Sài Gòn ngay thì tại sao
Tổng Thống hay Bộ Tổng Tham Mưu không cho phi cơ ra Cam Ranh đón mà lại bảo đi
bằng tàu? Lúc đó Trung Tướng Trưởng nói là ông đi theo Thủy Quân Lục Chiến chớ
không về Sài Gòn. Đến khi Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II một đại
đơn vị hầu như đã tan rã sau cuộc hành quân lui binh thảm bại, ông từ Nha Trang
vào Cam Ranh khuyên Trung Tướng Trưởng nên về Sài Gòn theo lệnh Tổng Thống. Và
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I đã theo chiến hạm về Sài
Gòn’’. Đến đây là hết lời thuật của cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư
Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.
Với lời thuật
trên đây của cựu Đại Tá Trí, tôi nghĩ rằng: rất có thể là các vị Tư Lệnh tại
Quân Đoàn I từ binh chủng Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, đến quân chủng
Hải Quân, Không Quân, và cũng có thể ngay cả Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh
Quân Đoàn I, đã nhận được lời khuyên ‘bảo toàn lực lượng’ như Thiếu Tướng Bùi
Thế Lân đã nhận của ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng cũng nên? Không chừng
chiến hạm vào gần bờ để đón Thủy Quân Lục Chiến cũng từ ‘lời khuyên’ của ông Tổng
Lãnh Sự nữa chăng! Vì rõ ràng là cựu Đại Tá Trí không hề biết lệnh xuất phát từ
đâu mà. Và phải chăng với ‘lời khuyên’ đó đã dẫn đến các vị có quân có quyền
trong tay lần lượt rời khỏi đơn vị hoặc chỉ huy đơn vị triệt thoái? Điều này
tôi không rõ, nhưng có điều quí vị đều rõ là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Đà Nẳng
vào tay quân cộng sản quá dễ như khi vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Plei Ku vậy!
Tối ngày
6/9/2003, khi vợ chồng tôi dự tiệc cưới tại Washington DC, chúng tôi ngồi chung
bàn với cựu Trung Tướng Ngô Quan Trưởng, và cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi
có ý định hỏi Trung Tướng Trưởng về điều thắc mắc của tôi, nhưng vì cựu Phó Đề
Đốc Thoại lại đưa vấn đề cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 hỏi tôi nên tôi mãi nóí
chuyện với ông, để rồi cuối cùng không còn thì giờ xin lời tâm sự từ cựu Trung
Tướng Ngô Quang Trưởng.
Bây giờ xin
mời quí vị quay nhìn vào số lượng đồng bào chạy loạn được các loại tàu chở từ
Huế và Đà Nẳng xuôi Nam và đưa ra đảo Phú Quốc tạm trú. Phú Quốc thuộc tỉnh
Kiên Giang mà tỉnh lỵ là Rạch Giá, nằm ngay cửa ngỏ vào vịnh Thái Lan. Số đồng
bào chạy loạn này do Bộ Xã Hội phụ trách nuôi ăn trong khi chờ biện pháp giải
quyết chung. Bộ Xã Hội yêu cầu Tổng Cục Tiếp Vận giúp họ tiếp tế mỗi ngày
20.000 phần cơm và phi cơ đưa ra Phú Quốc cung cấp cho đồng bào. Trung Tướng Đồng
Văn Khuyên bảo tôi lo giúp Bộ Xã Hội. Tôi điện thoại lên Trung Tâm Huấn Luyện
Quang Trung, xin tiếp chuyện với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung
Tâm này:
- Hoa đây
Anh. Có việc này xin nhờ Anh và hi vọng Anh tiếp tay được- Xin lỗi quí vị, tôi
xưng hô như vậy với Thiếu Tướng Trần Bá Di, vì chúng tôi thân nhau từ lâu.
- Việc gì mà
coi bộ quan trọng vậy anh?
- Tại Phú Quốc
hiện có khoảng 20.000 đồng bào của các tỉnh miền Trung chạy vào tạm trú, bên Bộ
Xã Hội nhờ quân đội nấu cơm , vắt lại từng vắt, và dùng phi cơ quân sự đưa ra
Phú Quốc cho đồng bào. Chuyện này là chuyện hằng ngày nghe Anh. Gạo thì Bộ Xã Hội
cung cấp. Anh liệu Trung Tâm có thể giúp được không?
- Được chớ.
Chuyện chung mà. Nhưng chừng nào thì tụi tôi nấu?
- Ngay hôm
nay. để mai là chuyến tiếp tế đầu tiên do quân đội nhận giúp. Vậy Anh cho mượn
gạo hôm nay nghe, và mai chúng tôi chở gạo đến Anh đủ một tuần, sau đó tính tiếp.
- Được. Tôi
cho nấu ngay. Khi xong, tôi cho anh hay.
- Xin cám ơn
Anh -
- Cái gì mà
anh cám ơn. Mỗi người mỗi đơn vị phải góp phần trách nhiệm của mình chớ anh -
Thế là từ
hôm ấy, cơm vắt được đưa ra Phú Quốc bằng phi cơ phi cơ tiếp tế cho đồng bào tạm
trú tại đó. Nhưng rồi tình hình ngày càng xấu thêm ./.
* * * * *
Nguồn : Đàn ChimViệt