Tác giả Lê Trung Kiên và Lê Đình Tình
Trong bối cảnh tình hình thế giới đang
ngày càng trở nên bất định , những vấn đề cơ bản về quản trị quốc gia đang được
đặt ra và vấn đề ý thức hệ đang được chú ý trở lại . Nhiếu quốc gia đang cân nhắc
lựa chọn mô hình phát triển phù hợp với quốc gia mình .
Tháng 1 năm 2020 , tạp chí Foreign Affairs xuất bản chuyên san “ Con đường tới thế giới
bền vững “
, trong đó đã giới thiệu “ Mô hình Bắc Âu mới “.
Nội
dung chuyên san liên quan đến các chủ đề
thảo luận tại Diễn đàn kinh tế thế giới ( WEF ) Davos 2020 .
Chuyên san nêu 2 mô hình phát triển đang có ưu thế là “ Mô hình sản
xuất tư bản tự do “ ( Liberal meritocratic capitalism ) và “ Mô hình sản
xuất tư bản chính trị “ ( Political capitalism ) .
Mô
hình sản xuất tư bản tự do đang được
thực hiện phổ biến tại Bắc Mỹ , Châu Âu , Ấn Độ , Indonesia , Nhật Bản . Đặc điểm của mô hình này là : có thể chế dân
chủ và pháp quyền ; có chế độ an sinh xã hội .
Trong thời gian qua , mô hình này đã đem lại một mức độ công bằng xã hội
cao hơn mô hình tư bản truyền thống . Nhưng từ cuối thế kỷ 20 đặc tính “ công bằng
xã hội “ của mô hình này đã giảm sút dần .
Mô
hình sản xuất tư bản chính trị đang
được thực hiện phổ biến tại Trung Quốc , Singapore , Myanma , Adecbaigian , Nga
, Angieri , Viêt Nam , Ethiopia , Ruanda
. Mô hình này có đặc trưng là ưu
tiên tăng trưởng kinh tế để giữ tính
chính danh của đảng cầm quyền , đồng thời hạn chế quyền chính trị của công dân
. Mô hình này có một số đặc điểm : Nhà
nước điều hành thông qua hệ thống hành chính kỹ trị ; áp dụng luật pháp có lựa
chọn phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền ; chính quyền mang tính chuyên
chế cao .
Mô hình này đã đưa lại mức tăng trưởng cao ở Trung Quốc . Mặt trái của
mô hình là kéo rộng khoảng cách bất bình đẳng thu nhập . Trong 25 năm , từ 1985
đến 2010 , chỉ số Gini phản ánh mức độ bất bình đẳng ở Trung Quốc tăng từ
0,3 lên đến 0,5 , cao hơn chỉ số Gini của
Mỹ .
Hiện nay cốt lõi của cuộc cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc là cạnh tranh
giữa 2 mô hình phát triển .
Tháng 01 năm 2020 , Borge Bronde , cựu bộ trưởng ngoại giao Na Uy , Chủ
tịch Diễn đàn kinh tế thế giới đã giới thiệu “ Mô hình Bắc Âu mới “
. Theo Borge Bronde , đây là mô hình phát triển kết hợp được yếu tố tự do
thương mại , lòng yêu nước của người dân và tính bao trùm , để xử lý hiệu quả
các vấn đề phát triển .
“
Mô hình Bắc Âu mới “ có 3 thành tố chính
là : Một mô hình kinh tế – xã hội ; Thái độ xã hội tích cực ; Tính thiết thực .
Mô
hình này được xây dựng trên 3 trụ cột là : Y tế toàn dân miễn phí ; Giáo dục chất
lượng cao ; Nhà ở chi phí hợp lý , để đảm bảo cho mọi người dân có khả năng tiếp
cận bình đẳng các dịch vụ xã hội .
Với
cách tiếp cận “ an sinh linh hoạt “ ( flexicurity ) , mô hình này đề cao thương
mại tự do , đồng thời đảm bảo tính linh hoạt của thị trường , cho phép các
doanh nghiệp có thể linh hoạt điều chỉnh tăng giảm nhân công khi thị trường biến động . Mặt khác , người
lao động mất việc làm được bảo đảm an sinh xã hội và cơ hội có việc làm mới ,
thông qua các hoạt động đào tạo lại ( reskill ) , nâng cấp kỹ năng ( upskill )
.
Theo bảng xếp hạng của WEF , hiện nay các nền kinh tế Bắc Âu có tính mở
và cạnh tranh thuộc hàng đầu thế giới .
Về thái độ xã hội , mô hình này đề cao “ Chủ nghĩa yêu nước xây dựng “ ,
thúc đẩy lòng tin lẫn nhau giữa mọi chủ thể xã hội , từ người dân , khu vực
kinh tế tư nhân và Chính phủ , từ đó tạo ra động lực mạnh để mọi thành viên xã
hội đóng góp vào sự thịnh vượng chung của xã hội , thông qua đóng góp tài chính
, hoạt động xã hội tự nguyện , lựa chọn nghề .
Về
tính thiết thực , mô hình này chú trọng khả năng thích ứng với sự thay đổi của
môi trường , thông qua quá trình điều chỉnh mô hình kinh tế- xã hội . Các nước
Bắc Âu đang dẫn đầu trong việc ứng dụng thành quả của các công nghệ mới .
Cuối cùng , có lẽ nên nhắc đến khả năng tích cực được tạo ra từ những đặc
điểm ưu việt của mô hình . Trước hết là
khả năng thích ứng với các thay đổi môi trường thương mại và công nghệ toàn cầu
. Do mọi người đều có cơ hội công bằng ,
bình đẳng ; doanh nghiệp được linh hoạt sử dụng lao động , mô hình này có khả
năng ứng phó với mặt trái của kinh tế thị trường và thương mại tự do , đồng thời
bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội ; từ đó có sức đề kháng với chủ nghĩa bảo
hộ và chủ nghĩa cô lập . Lấy 1 ví dụ minh chứng : Khi các doanh nghiệp đóng tầu biển
của Bắc Âu không thể cạnh tranh về giá cả với ngành đóng tầu biển của Trung Quốc
, họ đã chuyển từ việc đóng toàn bộ con tầu sang sản xuất động cơ tầu biển công
nghệ cao , vươn lên vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị .
Mô hình Bắc Âu mới còn tạo ra một lợi thế to lớn là tính hợp tác chặt chẽ
và hiệu quả giữa Chính phủ , Công đoàn , doanh nghiệp tư nhân và người dân ,
thay cho các mâu thuẫn xung đột lợi ích .
Hệ thống an sinh xã hội hoạt động có hiệu quả thúc đẩy các tài năng trẻ
yên tâm theo đuổi các trường nghề ; các doanh nghiệp có không gian tự do để tối
ưu hóa nguồn nhân lực và ứng dụng công nghệ mới . Từ đó Chính phủ được hưởng lợi
từ các Công ty có sức cạnh tranh cao . Người dân có thu nhập để đóng thuế ,
Chính phủ giảm được nợ công và cam kết quản lý kinh tế và xã hôi theo tiêu chuẩn
cao về liêm chính và minh bạch ; từ đó tạo nên những dịch vụ công hiệu quả về y
tế và giáo dục .
Do
mô hình tạo ra khả năng thích ứng linh hoạt của nền kinh tế nên các nước Bắc Âu
chấp nhận sự thay đổi , tận dụng mọi cơ hội để ứng phó có kết quả các thách thức
từ việc ứng dụng các thành quả của khoa học và công nghệ mới .
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu quốc
tế của Học viện ngoại giao Việt Nam ngày 25/5/2020
Lưu
ý : Trong bài này , hai đồng tác giả
dùng cụm từ “ tư bản chủ nghĩa “ với nội hàm chủ yếu diễn đạt về phương thức sản
xuất .
Người giới thiệu : Diệu – Vũ
SG 19/7/2020