KUIK Cheng-Chwee
Biên dịch: Vũ Ngọc Yên
Nếu "quân sự hóa“ được hiểu là một hành động huy động
các lợi thế quân sự để theo đuổi các mục tiêu chiến lược bao quát hơn, thì
tất cả những tác nhân của các cuộc tranh chấp ở Biển Đông đều đang can dự
vào một số cách quân sự hóa. Chiến lược
quân sự hóa Trung Quốc phản ánh ba nhóm đối tượng chủ đích: Hoa Kỳ (mục tiêu
chính), các nước trong khu vực (mục tiêu phụ) và công luận trong nước. Sự lo
ngại của Bắc Kinh về việc chỉnh hướng chiến lược tái cân bằng của Hoa Kỳ
và phán quyết của Toà trọng tài đã thôi thúc Trung quốc một cách nghịch
lý tăng cường các hoạt động quân sự .
Trong bối
cảnh gia tăng căng thẳng ở Biển Đông, thuật ngữ „quân sự hóa“ bên cạnh
tính „quyết đoán“ và „hiếu chiến“ được nêu ra như là một phạm trù
mới nhất dùng trong các bài thuyết trình và các cuộc tranh luận ngoại giao. Hoa Kỳ và các đồng minh khu vực đã cáo buộc Trung Quốc quân sự hóa Biển
Đông qua việc bố trí tên lửa, radar và các công cụ quân sự khác trên các
đảo chiếm đóng trong các khu vực tranh chấp.
Nhưng mặt
khác, Trung Quốc lại quy trách nhiệm các chiến dịch tự do hàng hải của Hoa
Kỳ (FONOP) và các hoạt động quân sự khác của Hoa Kỳ với các đối tác của mình
là nguồn chính gây ra những căng thẳng khu vực và xem đó là những „hành
động khiêu khích“ , „phá hoại sự ổn định khu vực“ cũng như „tác hại lợi ích
an ninh của các quốc gia duyên hải“. Các chiến
đâú cơ Trung Quốc đáp xuống một hòn đảo tranh chấp vào tháng 2 năm 2016 và
những tin tức mới nhất về Trung Quốc đang xúc tiến xây dựng một căn
cứ hạt nhân ngoài biển đầu tiên vào thời điểm Washington tiến hành nhiều
cuộc tuần tra FON và trù bị sẽ làm như vậy cùng với các nước khác trong khu
vực, đã hâm nóng thêm các lời đổ
lỗi cho nhau là thủ phạm của việc quân sự hóa Biển Đông.Thực sự ai làm gì
và đang tiến hành quân sự hóa các khu
vực tranh chấp, sẽ phụ thuộc vào cách đinh nghĩa thuật ngữ „quân sự hóa“.
Bài tiểu
luận này định nghĩa „quân sự hóa“ là một động tháí có tính toán của một
tác nhân nhà nước sẽ tận dụng một lợi điểm quân sự nào đó, hành động và sắp xếp ở khu vực tranh chấp như một phương tiện để đạt
những mục tiêu chính trị và chiến lược bao quát hơn. Những động thái này có
thể là hình thức chiếm đóng, xây dựng các cơ sở quân sự, huy động quân đội, phô trương sức mạnh quân sự, thao diễn
các cuộc tập trận , biểu dương
đối tác quốc phòng với các thế lực khác, hoặc biểu
dương một liên minh có nhiều năng lực hơn trong phạm vi tranh chấp. Các bước có thể được thực hiện đơn phương, song phương hoặc đa phương
nhẳm kiểm soát, thống trị, phòng thủ, răn đe, phủ nhận, khoa trương
và thương thảo để đạt lợi ích trước mắt hoặc lâu dài.
Qua định
nghĩa này, tất cả các tác nhân chủ chốt của tranh chấp Biển Đông thực tế
đều can dự vào quân sự hóa bằng cách này hay cách khác, dù ở các mức độ khác biệt. Chúng bao gồm không chỉ các bên có yêu sách
chủ quyền ( Trung Quốc, Phi Luật
Tân, Mã Lai, Việt Nam, Brunei và Đài Loan), mà còn cả các cường quốc và một số quốc gia không có
yêu sách. Tuy nhiên, các động thái quân sự hóa của Trung Quốc là tạo nhiều
quan ngại và bị chỉ trích nhiều nhất. Điều này không có gì ngạc nhiên
cả.
Mặc dù các
hành động quân sự của Trung Quốc tương đối mới gần đây và ít cố thủ hơn so với
sự hiện diện quân sự mạnh mẽ lâu đời của Mỹ ở vùng biển Á châu, nhưng các hoạt động quân sự hóa của cường quốc đang đang trổi dậy trong
những năm qua đã gia tăng liên tục ở phạm vi lớn nhất (so sánh với các nước
trong khu vực) cường độ nhanh nhất và đưa tới nhiều hệ quả lớn cho trật tự khu vực hiện hữu.
Các hoạt
động quân sự hóa và sự quyết tâm thực thi của Trung Quốc ở Biển Đông từ năm
2009 đang gây hoang mang cho hai lý
do.
Thứ nhất, đây là một sự đảo ngược chính sách ngoại giao ve vãn của Trung quốc ở
Đông Nam Á, từng thể hiện qua cách tham gia tích cực các diễn đàn đa phương
và can dự xây dựng vào tiến trình hội nhập khu vực trong giai đoạn
1996-2007. Cao điểm
của chính sách ve vãn là việc Bắc Kinh đã ký Tuyên bố về cách ứng xử của
các bên ở Biển Đông (DOC) vào năm
2002 , gia nhập hiệp ước không xâm lược của ASEAN và Hiệp ước Hữu nghị- Hợp
tác (TAC) năm 2003. Hợp tác và
Thân tình là những tiêu chí chính trong suốt thời gian này. Hành vi quyết
đoán hiện tại của Trung Quốc là một sự tương phản rõ ràng và thay đổi cách tiếp
cận trước đây.
Thứ hai, chiến lược quân sự hóa của Trung Quốc mâu thuẫn với quan điểm diễn
biến ôn hoà và chính sách ngoại giao láng giềng (zhoubian waijiao)
của Chủ tịch nước Tập Cận Bình (Xi Jinping).Tại một hội nghị cán
bộ cao cấp ở Bắc Kinh vào tháng 10 năm 2013, Tập đã nhấn mạnh cụm từ
qin-cheng-hui-rong – thành tâm-chân thật- lợi ích hỗ tương và bao quát - như những nguyên tắc chỉ đạo chiến lược cuả Trung Quốc đối
với các nước láng giềng.Tuy nhiên các hành
động ngày càng mạnh bạo cuả Bắc kinh ở trong các vùng biển đã không
tương hợp với bốn nguyên tắc này nên đưa ra những tín hiệu tiêu cực truyền đến các quốc gia nhỏ hơn trong
khu vực. Thực tế
trong vài năm qua có một xu hướng được xác định:Trung Quốc càng quyết
đoán thì càng có nhiều nước trong khu vực muốn đối tác mạnh hơn với Hoa
Kỳ và các cường quốc khác.
Vì vậy, dư
luận ngạc nhiên tại sao Trung Quốc lại trở nên quyết đoán mạnh bạo bất
chấp chính sách can dự quyến rũ trước đó và sách lược ngoại giao láng
giềng của Tập . Tại sao Trung Quốc theo đuổi quân sự hóa âm ỷ ở Biển Đông mặc
dù biết rõ đường lối cứng rắn như vậy sẻ thúc ép một số nước trong khu
vực về mặt quân sự tiến gần tới Mỹ ? Và chiến lược quân sự hóa tiếp diễn
có thể phá hoại sáng kiến „Vành đai và con đường“ của Tập nhắm vào Đông
Nam Á , một trong những khu vực được ưu tiên.
Bài viết
lý giải rằng bước ngoặt quyết tâm thực hiện quân sự hoá của Trung
Quốc bị thúc đẩy cũng như giới hạn bởi yếu tố câú trúc (ngoại vi)
và nội điạ. Mô hình,
cường độ và mức độ quân sự hóa của Bắc Kinh trong các khu vực tranh chấp
phản ánh ba nhóm đối tượng chủ đích: Hoa Kỳ (mục tiêu chính), các quốc gia
khu vực yếu hơn (mục tiêu phụ), dân chúng và giới tinh hoa trong nước (Công
luận tối hậu). Trong những tháng qua, Bắc Kinh ngày càng lo ngại về áp lực
cơ cấu vì sự chỉnh hướng chiến lược tái cân bằng của Hoa Kỳ và phán quyết
của Tòa án Trọng tài Thường trực trong vụ kiện của Phi luật tân về Biển Đông.
Sự bứt rứt gia tăng này đã hối thúc Trung Quốc đẩy nhanh các hoạt động quân
sự hóa trong khu vực.
Mô hình và
cường độ quân sự hoá
Các hoạt
động quân sự hóa của Trung Quốc ở khu vực Biển Đông được ghi nhận qua ba đặc
điểm. Thứ nhất, về mặt
chiến thuật, các động thái quân sự của Trung Quốc được tiến hành cùng với các
hoạt động phi quân sự hoặc bán quân sự. Thứ hai, về mặt mục tiêu, các hành động quân sự hóa của Trung Quốc có chủ
đích tạo ra một chiến lược fait
accompli (việc đã rồi) trong vùng tranh chấp mà không gây ra phản ứng
chống đối của toàn khu vực. Thứ ba, về mặt thời
điểm và cường độ, các động thái quân sự đơn phương của Trung Quốc nhằm
thực hiện các yêu sách phần lớn có tính cách phản ứng-đôi khi phòng
ngự đối với các diễn biến ngoại vi được xem là mục tiêu của Trung Quốc,
đặc biệt các diễn biến có liên hệ với Hoa Kỳ. Cường độ ở giai đoạn đầu
chậm rãi nhưng từ đầu
năm 2016 tăng tốc.
Về mặt vận
hành, các hành động quân sự hóa của Trung Quốc là một phần của bước ngoặt
tiến hành rộng lớn hơn kể từ năm 2009; tuy nhiên, chúng không phải là
những phần sớm nhất mà cũng không phải là phần bao quát nhất tạo nên
quyết tâm thực hiện của cường quốc đang trổi dậy ở Biển Đông. Cách
hành sử chủ yếu là pha trộn các biện pháp phi quân sự và bán quân sự như thành lập phố Tam (Sa Sansha) thuộc tỉnh Hải Nam, thực thi lệnh cấm
đánh cá đối với tàu nước ngoài, tuần tra
hàng hải của lực lượng bảo vệ bờ biển, sử dụng tàu truy lùng phạm pháp để
ngăn chặn các cuộc thăm dò địa chấn của các quốc gia có yêu sách chủ quyền
khác cũng như tìm cách đe dọa các công ty dầu khí nước ngoài được sự ủy
nhiệm của các chính quyền có yêu sách chủ quyền khác thực
hiện khảo sát trên biển và thăm dò hydrô-carbon. Nói chung trước tiên dùng biện pháp phi quân sự và bán quân sự mở đường
và tạo tiền đề cho các biện pháp quân sự sau đó. Các bước sau sẽ bổ
sung và tăng cường chức năng dự định của các bước khởi đầu (ví dụ: huy
động các tầu hàng hải và tiến hành các cuộc tập trận ở các khu vực tranh
chấp).
Mô hình vận
hành này được triển khai sau khi Tập lên nắm quyền vào năm 2013. Dưới ban
lãnh đạo mới,Trung Quốc đã thực hiện phối hợp một loạt các biện pháp để
củng cố các yêu sách của mình trong các khu vực của đường chín đoạn đang tranh
cãi. Trung Quốc đặt các giàn khoan dầu ở gần Hoàng Sa, xúc tiến các dự án cải tạo đất và đảo cũng như xây dựng phi đạo, hải
đăng, doanh trại, cảng và các cơ sở khác trên các tiền đồn ngoài khơi, trong khi tiếp tục cho tàu bảo vệ bờ biển ( được hộ tống bởi các tàu hải
quân) đến nhiều nới khác nhau trong khu vực tranh chấp.Theo sau những hoạt
động này là một chuỗi các biện pháp phòng vệ quân sự: Điều các tàu hải quân
đến vùng cực nam của Trường Sa và các khu vực khác, bố trí tên lửa đất đối
không (surface-to-air missiles) và lượng lớn chiến đấu cơ đến đảo Woody (vùng
đất lớn nhất thuộc quần đảo Hoàng Sa), lắp đặt hệ thống radar tần số cao trên nhiều thực thể, trong số đó có rạn Cuarteron Reef ở Trường Sa, thực hiện cuộc hạ cánh đầu tiên của phản lực cơ quân sự xuống một đảo
nhân tạo (Fiery Cross Reef trong chuỗi Trường Sa) và gần đây, có kế hoạch
thiết lập các nhà máy điện nguyên tử trên biển để cung cấp điện ổn định
cho các giàn khoan dầu và các đảo nhân tạo mới. Hầu hết các động thái này
diễn ra vào nửa đầu năm 2016, vài tháng trước khi có phán quyết của Toà trọng
tài.
Thông qua
việc thực hiện song song các biện pháp phi quân sự , bán quân sự và các hoạt động quân sự hóa có chọn lọc, Trung Quốc muốn đạt
được mục tiêu chiến lược: Biến đổi vùng hoạt động và tạo ra một thực tế
mới ở Biển Đông không có khả năng bị đảo ngược.
Các động
thái của Trung Quốc đã bị nhiều chỉ trích và làm gia tăng căng thẳng khiến
nhiều nước yếu hơn tăng cường quan hệ đối tác quốc phòng mạnh mẽ hơn với Mỹ và
các cường quốc khác cũng như thúc ép Hải quân Hoa Kỳ tiến hành liên tiếp
ba cuộc tuần tra tự do giao thông hàng hải(FONOP) vào vùng biển tranh chấp kể từ tháng 10 năm 2015.Và trong cuộc tuần tra
cuối vào ngày 10 tháng 5 năm 2016, tàu khu trục
USS William P Lawrence đã đi vào phạm vi 12 hải lý của rạn Fiery Cross Reef
do Trung Quốc chiếm đóng. Tuy nhiên các hoạt động quân sự leo thang của Trung
Quốc cho đến nay đã không dẫn đến việc hình thành một mặt trận thống nhất toàn
khu vực chống lại các hành động quyết đoán của gã khổng lổ. Điều này được giải thích có lẽ một phần do cách thức tiến hành từng
bước và chọn lọc của Bắc Kinh, gọi là chiến
lược cắt lát xúc xích salami và một
phần Trung Quốc sử dụng chính sách
tài trợ phát triển kinh tễ và trấn an ngoại giao như tiếp tục thương
thảo với các quốc gia ASEAN về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông cũng như phát huy sáng kiến Vành đai- Con đường ở
các khu vực khác trên thế giới.
Cuối cùng
về phương diện thời điểm, một số động thái quân sự hóa của Trung Quốc, đặc
biệt là những động thái gần đây đã diễn ra sau khi Hoa Kỳ và các nước trong
khu vực đã có các bước tăng cường hợp tác (song phương hoặc đa phương)
nhằm chống lại Trung Quốc. Ví dụ, việc
triển khai các bệ phóng tên lửa và hệ thống radar gần đây của Trung Quốc trên
đảo Woody được nhận xét chung là phản ứng của Bắc Kinh trước Hội nghị thượng
đỉnh của các nhà lãnh đạo Mỹ-ASEAN tại Sunnylands vào tháng 2 năm 2016. Theo quan điểm của Bắc Kinh động thái quyết đoán của họ chỉ là phản
ứng tương đương hoặc mạnh hơn những
hoạt động tiến hành của các nước yêu sách khác và Hoa Kỳ. Nhưng trong mắt của các bên có
yêu sách và nhiều quốc gia khác thì các động thái của Bắc Kinh là dấu hiệu
của dã tâm tiềm ần và hành vi hiếu chiến của một cường quốc trổi
dậy.
Mục tiêu và
các đối tượng
Mô hình, tốc
độ và mức độ quân sự hóa của Trung Quốc, như đã trình bầy, phản ánh ba nhóm
đối tượng chủ đích của chính sách Biển Đông ở Bắc Kinh. Mục tiêu chính là
Hoa Kỳ, mục tiêu thứ yếu là các quốc gia yếu hơn trong khu vực (đặc biệt là
các quốc gia có yêu sách ) và đối tượng cuối cùng của Trung Quốc là công luận
Trung quốc bao gồm dân chúng và giới tinh hoa nội địa.
Đối với
Trung quốc, chiến lược quân sự hoá nhằm đáp ứng các chức năng khác
biệt của các nhóm đối tượng chủ đích. Diễn giải một cách khác là việc
quân sự hóa có chọn lọc - trong phạm vi và tốc độ sẽ có bản chất dị biệt và
tầm quan trọng khác nhau đối với lợi ích của giới tinh hoa trong Đảng
Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cầm quyền ở mọi cấp độ khác nhau. Các hoạt động
quân sự hóa chú tâm vào các tác nhân bên ngoài là nhằm biểu dương quyết tâm
địa chính trị của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ, phủ nhận năng lực thao diễn quân sự của Hoa Kỳ ở vùng biển gần
Trung quốc cũng như phô trương sự răn đe đối với mọi tác nhân trong khu
vực; Nói tóm lại, quân sự
hoá được sử dụng như một đòn bẩy thương thảo cho định vị quyền lực dài hạn.
Đối với
công luận trong nước, các tiến
trình quân sự hoá nhắm truyền đạt hình ảnh ĐCSTQ là người bảo vệ chủ
quyền của Trung Quốc [weiquan] đáng tin cậy và là người phát huy sự canh tân
Trung Quốc. Nói chung đó là con đường chính danh của chủ nghiã dân
tộc làm mạnh uy quyền của giới tinh hoa đang đứng trước nhiều thách
thức trong nước. Các tác
động của các chức năng ngoại vi và nội địa sẽ củng cố hỗ tương cho mục
tiêu cuối cùng là duy trì sự cai trị của Đảng Cộng sản.
Hoa Kỳ rõ
ràng là mục tiêu chính của quân sự hóa Trung Quốc ở Biển Đông. Điều này không
có nghĩa là Trung Quốc nhất thiết phải đẩy Mỹ ra khỏi châu Á về mặt quân sự hay
ngăn chặn Mỹ tiếp tục các chiến dịch FONOP trong vùng biển tranh chấp. Bắc
Kinh nhận ra rằng họ không thể đạt được một trong hai mục tiêu này. Trên
thực tế, Bắc Kinh
có lẽ đã thừa nhận một số dạng hiện diện của Hoa Kỳ cũng nằm trong lợi ích của Trung Quốc và sự ổn định khu
vực.
Những điều
Trung Quốc dựa trên mô hình và cường độ quân sự hóa đang theo đuổi trong khu
vực tranh chấp trong những năm qua là những phương tiện đáp ứng ba mục tiêu liên kết nhau.
Thứ nhất,
Trung Quốc muốn thể hiện một quyết đoán tương đối bao quát hơn để bảo vệ
những gì Bắc Kinh xem là lợi ích chủ quyền và lãnh thổ hợp pháp của Trung
Quốc ở Biển Đông. Điều này
mang ý nghiã quan trọng cho uy quyền và uy tín của ĐCSTQ ở trong nước.
Đối với giới tinh hoa của ĐCSTQ cầm quyền, những lợi ích hiện hữu này còn mang tính cốt yếu hơn so với cái „quyền lợi quốc gia“ mà Hoa Kỳ
từng tuyên bố trong các tranh chấp nên Trung Quốc sẽ luôn hành xử quyết
đoán mạnh bạo hơn trong vùng biển Á châu.
Thứ hai,
dựa trên quyết tâm, Trung Quốc đã đưa ra tín hiệu cho Washington biết rằng Bắc Kinh sẽ không
bị đe doạ cũng như ngăn chặn bởi các đối tác quân sự gia tăng của Hoa Kỳ
với các quốc gia chung quanh Trung Quốc.
Thứ ba, sự
tồn tại thể lực ngày càng gia tăng của Trung Quốc ở Biển Đông, chỉ có
thể bị ngưng hoặc lùi hại, một khi Hoa Kỳ thể hiện năng lực quân sự. Đây là một kịch bản không thể xảy ra nếu xét
về lợi ích bất đối xứng của hai cường quốc , chi phí cấu trúc không thể chấp nhận và những rủi
ro kéo theo trong cuộc xung đột vũ trang như vậy .Trung Quốc muốn Hoa Kỳ
nhận ra thực tế vị thế địa chiến lược của Trung Quốc đã được củng cố ở
Á châu như một đòn
bẩy cho những cuộc thương thảo giữa các đại cường.
Trung Quốc
luôn kiềm chế, thận trọng theo đuổi những mục tiêu và mọi lúc tránh xung
đột trực tiếp với siêu cường. Ví dụ, trong
chiến dịch FONOP gần đây của Hoa Kỳ tại Fiery Cross Reef, Bắc Kinh đã phản
ứng bằng cách huy động chiến đấu cơ và tàu hải quân theo dõi tàu chiến Mỹ,
mà không có hành động đối đầu dẫn đến xung đột trực tiếp với nhau. Các mục
tiêu thứ yếu của quân sự hóa của Trung Quốc là nhằm vào các nước yếu trong
khu vực, đặc biệt là
các quốc gia có yêu sách công khai dùng lá bài Hoa Kỳ chống lại Trung Quốc.
Thông qua các hành động ngày càng quyết đoán và các biện pháp phòng vệ quân
sự, Bắc Kinh muốn báo hiệu cho các nước trong khu vực biết là sự đối tác
mạnh với Hoa Kỳ và các nước sẽ không cản trở được Trung Quốc bào
vệ lợi ích ở Biển Đông, chứ nói gì đến ngăn chặn.
Bắc Kinh gần
đây nói rằng những chỉ trích chống Trung Quốc về Biển Đông sẽ bị lực
phản hồi giống như một lò xo xoắn ốc. Hải quân Trung Quốc đã thao diễn
các cuộc tập trận thường niên từ ngày 8 đến 9 tháng 5 năm 2016 tại Biển Đông
nhằm phô trương sức mạnh quân sự của mình ở khu vực tranh chấp. Thông qua chiến lược quân sự hóa ,Trung Quốc tìm cách ngăn chặn các nước
trong khu vực liên kết thành liên minh chống Bắc Kinh hay có lập trường gây
tổn hại cho lợi ích của Trung Quốc. Quân sự
hoá đối với dân chúng và thành phần chính trị ưu tú trong nước không
chỉ đáp ứng mệnh lệnh chính danh dân
tộc, động viên sự năng động của giới lãnh đạo mà
còn cân bằng lợi ích của nhiều thành phần trong nền chính trị Trung
Quốc .
Phương hướng
và mức độ tập trung quyền lực của Tập kể từ khi ông nổi lên trên chính trường
Trung Quốc có thể không phải là một dấu hiệu của kẻ mạnh mà là một chỉ
dấu cho mức độ của những thách thức và những vấn nạn phân hoá, chia rẽ và đấu đá trong hệ thống mà ban lãnh đạo đảng , nhà nước đang trực diện.
Các yếu tố
động lực (và giới hạn)
Bên cạnh áp
lực cơ cấu xuất phát từ mối quan hệ không chắc chắn giữa Trung Quốc và Hoa
Kỳ, chính các yếu tố nội chính, đặc biệt là sự bất ổn chính trị gia tăng và chủ nghĩa dân tộc đang trỗi
dậy đã thúc đẩy (và hạn chế) bước ngoặt quyết đoán của Trung Quốc cũng như
quân sự hóa trong vùng biển tranh chấp.
Những tác
động kinh tế xã hội của các chương trình cải cách và phát triển kéo dài hàng
thập kỷ kể từ những năm 1970 –nối kết
với các vấn đề liên quan đến các dân tộc thiểu số ở Tân Cương và Tây
Tạng - đã đưa ra nhiều thách thức chính trị ngày càng lớn mạnh cho giới tinh
hoa cầm quyền của ĐCSTQ. Những thách thức này bao gồm bất an xã hội, các cuộc
phản kháng công cộng, các tranh chấp trung ương- điạ phương, tham nhũng, xáo trộn chính trị, cũng như khoảng cách phát triển giữa các thành phố duyên hải và nội địa.
Hàng trăm ngàn vụ xô sát của quần chúng [qunti shijian] là dấu hiệu cho
thấy sự xói mòn niềm tin và tính chính danh của chính quyền. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã trở nên rất nhạy cảm với những lời chỉ
trích công khai dưạ trên nền tảng của chủ nghĩa dân túy, dân tộc.
Đối với giới
tinh hoa cầm quyền, viện dẫn và kêu gọi tình cảm dân tộc như một con đường
chính danh chính trị là điều quan trọng. Vì Biển Đông được coi là sân sau hàng hải (ao nhà) của Trung Quốc, điều
này càng đòi hỏi chính quyền ĐCSTQ phải có những hành động cứng rắn hơn để
tăng cường niềm tin của một người bảo vệ lợi ích Trung Quốc, hoặc tối thiểu
phải tránh bị coi là quá nhu nhược trong việc bảo vệ các chủ quyền đất nước.
Mệnh lệnh dân tộc chủ nghĩa được biểu
hiện qua sự tham gia ngày càng đông đảo của nhiều tác nhân địa phương và phi
nhà nước mà quan điểm và hành động của những tác nhân này rất có ảnh
hưởng đến các chính sách Biển Đông của chính quyền.
Những tác
nhân đa dạng này không chỉ bao gồm các cơ quan hành chính và thực thi
như Cơ quan Đại dương Nhà nước(State OceanicAdministration ), Chỉ huy thi hành Luật Thủy sản và Cục Cảnh sát Hàng hải, mà còn có cả
quân đội, chính quyền tỉnh và địa phương, các công ty
năng lượng, doanh nghiệp nhà nước, chuyên gia và nhà nghiên cứu, ngư nhân, cư dân mạng
và các phương tiện truyền thông. Trong số các tác nhân mới này, Quân đội
Giải phóng Nhân dân (PLA) nói riêng đã chọn cách tiếp cận ngày càng tích cực
và quyết đoán đối với các vấn đề hàng hải. Bên cạnh nỗ lực ảnh hưỡng vào
công luận thông qua các tuyên bố chính thức và không chính thức trên các phương
tiện truyền thông, mạng internet và hội thảo, PLA cũng tìm cách định hình
một chính sách hàng hải của Trung Quốc thông qua việc giả định một cơ chế
kiểm soát độc lập đối với một số khía cạnh vận hành sự hiện diện quân đội
Trung Quốc, cung cấp đào tạo cho các cơ quan thực thi pháp luật hàng hải và
thực hiện các cuộc tập trận chung ở Biển Đông.
Sự tham gia
ngày càng tăng của các tác nhân khác nhau đã tạo ra sự đa diện lợi ích, triển vọng và hoạt động ,nhưng cũng đưa đến vấn đề thẩm quyền bị phân
tán trong Chính sách hàng hải của Trung Quốc.
Mỗi cơ quan
tìm cách diễn giải và bảo vệ quyền hàng hải của Trung Quốc xét theo lợi
ích tổ chức của chính họ. Vì vậy, chính quyền Bắc Kinh luôn gặp khó
khăn trong việc phối hợp hành động của các tác nhân khác nhau.
Một mâu thuẫn có
chủ ý
Chính sách
Biển Đông của Tập nổi bật với một mâu thuẫn có chủ ý: đưa ra một cây gậy
cứng (và tìm cách biến nó thành một loại bình thường ), nhưng đồng thời tìm
cách hạn chế phạm vi và tác động của sự quyết đoán bằng cách bổ sung một
loạt biện pháp cà rốt kinh tế và vật chất cho các nước trong khu vực.
Mâu thuẫn này - cũng như mức độ và cường độ quân sự hóa của Trung Quốc ở
Biển Đông - là kết quả của những nỗ lực của giới tinh hoa ĐCSTQ tạo sự cân
bằng của hai con đường cạnh tranh: chính danh hoá năng lực thực hiện
và chính danh hóa chủ nghiã dân tộc - trong bối cảnh của thách thức kép
từ bất ổn nội chính và áp lực cơ cấu gia tăng vào chế độ.
Về mặt cơ
cấu , áp lực của các hoạt động cân bằng của Hoa Kỳ
gia tăng dọc theo duyên hải, liên kết với Nhật ở vùng biển Hoa Đông và
một số các quốc gia nhỏ hơn ở Biển Đông - đã đào sâu tâm thức bị bao vây
của Bắc Kinh. Trước những sức ép ngày càng phát triển như vậy, giới
tinh hoa chính trị của Trung Quốc đã nhận định rằng cách tiếp cận chính để
giảm áp lực từ trên xuống - có thể kếo dài một thời gian - là thông qua các
nguyên tắc ngoại giao và kinh tế địa lý hơn là phương cách quân sự. Do đó,
Trung Quốc đã nỗ lực phát huy mối quan hệ các nước lớn kiểu mới,
[xinxing daguo guanxi] để củng cố hoà bình và ổn định với mọi cường quốc,
đặc biệt là Hoa Kỳ. Chiến lược toàn cầu này thực hiện song song với chiến
lược ngoại giao khu vực và tới năm 2014 được đưa vào sáng kiến Vành đai
và Con đường [yidai yilu]. Sáng kiến chủ trương thay đổi bối cảnh kinh tế
địa lý và địa chính trị xung quanh Trung Quốc thông qua một loạt các sáng kiến
kết nối khu vực để kiến tạo lại trật tự an ninh lâu dài ở châu Á- Thái
Bình Dương.
Mặc dù có
quyết tâm tăng cường mối quan hệ láng giềng, Trung Quốc của Tập Cận Bình vẫn khẳng
định yêu sách chủ quyền của mình bằng cách đẩy mạnh các dự án cải tạo và mở
rộng các đảo nhân tạo tại bảy địa điểm trong khu vực tranh chấp kể từ năm 2014
để thiết lập một thực tế mới ở tâm điểm hàng hải của biển Á châu .
Sự tương tác giữa các lực đẩy cơ cấu và nhu cầu trong nước đã thúc ép và
hạn chế phạm vi, cường độ và mức độ của sự thay đổi quyết đoán của Trung Quốc
trong chính sách Biển Đông. Vì các vấn đề nội bộ gia tăng và các điều kiện
của môi trường bên ngoài thay đổi,Trung Quốc đã tìm cách cải thiện mối bang
giao với Mỹ và đồng thời định hình lại trật tự khu vực Châu Á và cung cấp hàng
ngàn khu vực thông qua sự kết nối sâu
sắc hơn. Nỗ lực
của Trung Quốc hội nhập hơn nữa vào các khu vực được đông viên từ nhận thức tất
yếu của lãnh đạo ĐCSTQ sẽ tạo điểu kiện thuận lợi cho tăng trưởng
kinh tế và phát triển bền vững , một mục
tiêu trung tâm để duy trì tính chính danh của đảng.
Trong
mắt giới tinh hoa, các mục tiêu khác của sáng kiến Vành đai và Con đường - như cải thiện
các mối quan hệ thương mại và đầu tư bằng
xây dựng đường sắt xuyên lục địa, đường cao tốc, đường ống dẫn năng
lượng, cảng và khu công nghiệp giữa Trung Quốc và các quốc gia trong các khu
vực ngoại vi , khu vực Đông Nam, Nam, Trung và Tây Á – được dự kiến sẽ phục
vụ một loạt mục đích tăng cường lẫn nhau.
Tất cà sẽ
bao gồm : bù đắp những thuyên giảm
của mậu dịch, đầu tư vào thị trường Hoa Kỳ và châu Âu sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bằng cách mở rộng liên kết kinh tế với các khu vực gần hơn về mặt địa
lý;- đáp ứng nhu cầu thặng dư sản xuất của các ngành công nghiệp thép và xi
măng để cân bằng lại sự phát triển của chính mình thông qua kết nối các khu vực phía tây kém phát triển
và các tỉnh trung tâm với châu Âu và phần còn lại của châu Á; - tăng cường an toàn năng lượng bằng cách đa dạng hóa các nguồn năng
lượng, đường vận chuyển và khai thác tài nguyên; - thúc đẩy khu vực hoá, quốc tế hoá và phát huy các mối quan hệ
phụ thuộc của khu vực đồng Nhân dân với các nước ngoại vi.
Kết luận
Tóm lại,
nhu cầu chính trị trong nước đã buộc Trung Quốc phải hành xử khôn khéo
trong việc bảo vệ chủ quyền [weiquan] và duy trì ổn định [weiwen]. Giới tinh
hoa chính trị Trung Quốc bị áp lực tìm sự cân bằng tốt nhất cho sự dung
hoà các biện pháp chính trị.
Ở Biển Đông,
Trung quốc đã chọn biện pháp chủ yếu dựa vào lực lượng bảo vệ bờ biển và các
cơ quan thực thi pháp luật dân sự, thay vì các lực lượng hải quân, để khẳng
định lợi ích của mình. Trung quốc
tiếp tục chiếm đoạt các đảo và xây dựng các căn cứ quân sự ở các khu vực
đang tranh chấp mà không gây ra sự đối đầu trực tiếp. Kết quả cuối cùng, mà Bắc Kinh muốn đạt là cách hành xử không
gây ra phản ứng dữ dội trong toàn khu vực dẫn đến
bất ổn môi trường khu vực và làm suy yếu các nỗ lực chính danh thực hiện.
Bắc Kinh đã tìm cách bù đắp các tác động tiêu cực của các biện pháp quyết đoán của mình bằng
các nỗ lực trấn an và khích lệ.
Thông qua
các tiến trình hợp tác và hội nhập đang diễn ra, Trung Quốc muốn chuyển hoá
quan hệ với các quốc gia có yêu sách và các nước láng giềng thành quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau, lưỡng lợi
và an ninh chung. Sự sinh động này có thể sẽ tồn tại trong những năm tới, một
phần vì sự bất an liên quan đến mối bang giao Mỹ-Trung và phần khác do những thách thức trong nước mà các nhà lãnh đạo chính quyền và nhà
nước Trung Quốc đang đối đầu.
KUIK
Cheng-Chwee là Giáo sư về Nghiên cứu Chiến lược và Quan hệ Quốc tế tại Đại
học Quốc gia Malaysia và là nghiên cứu viên của Viện Nghiên cứu Trung Quốc tại
Đại học Malaya
Nguồn :KUIK
Cheng-Chwee, China’s “Militarisation” in the South China Sea: Three Target
Audiences, East Asian Policy April/June 2016