Tác giả: Nguyễn Quang Dy
KD: Tác giả Nguyễn Quang Dy vừa gửi cho Blog
KD/KD bài viết phân tích sâu sắc với cái nhìn toàn cục về TQ thông qua một loạt
sự kiện trong và ngoài nước từ Phán quyết của Tòa Trọng tài (PCA), thảm họa
Formosa đến Pháp Luân Công. Để hình dung một TQ với sức mạnh tàn bạo nhưng cũng
có không ít tử huyệt.
Cảm ơn anh Nguyễn Quang Dy
Tòa Trọng tài Thường trực ở The Hague, Hà Lan. Ảnh: PCA |
Lúc này, chỉ có hai câu chuyện làm người ta quan tâm nhất là phán quyết của
Tòa Trọng tài (PCA) và thảm họa môi trường do Formosa gây ra. Nó làm người ta
tốn nhiều thời gian vì đọc không xuể thông tin (như lạc vào rừng rậm Amazon).
Cả hai câu chuyện này đều liên quan đến Biển Đông và Trung Quốc. Còn câu chuyện
thứ ba cũng liên quan đến Trung Quốc là tội ác diệt chủng đối với Pháp Luân
Công (Falun Gong).
PCA & cái bẫy Biển Đông
Ngày 12/7 đã đến và trôi qua, nhưng dư chấn về phán quyết của PCA vẫn còn
nóng hổi. Tuy phán quyết của PCA không có giá trị cưỡng chế đối với Trung Quốc,
nhưng nó như một cái tát pháp lý và truyền thông làm Bắc Kinh đau điếng, mà
không làm gì được. Bắc Kinh chỉ có thể bịt được miệng người dân trong nước bằng
kiểm duyệt, nhưng không thể bịt được thông tin Internet và truyền thông trực
tuyến. Tập Cận Bình đã mất bao công sức để củng cố và thao túng quyền lực tuyệt
đối như một vị “hoàng đế đỏ” (không khác gì Mao), nhưng cái tát của PCA làm ông
ta mất mặt với quốc tế và quốc dân. Đó là “sự sỉ nhục quốc gia” (national
humiliation) như Bill Hayton mô tả (National Interest, 12/7/2016).
Phán quyết của PCA bác bỏ yêu sách “đường chín đoạn” của Trung Quốc vì
“không có cơ sở pháp lý” và khẳng định Trung Quốc “không có chủ quyền lịch sử”
tại với Biển Đông. Theo Bill Hayton, đoạn 270 trong Phán quyết nói rõ nhất, “Tòa
Trọng tài không tìm thấy một dấu hiệu nào cho thấy trong lịch sử Trung Quốc đã
quy định hay kiểm soát việc đánh cá ở Biển Đông…” Điều đó có nghĩa Việt Nam
có thể kiện đòi lại những đảo tại Trường Sa và Hoàng Sa đã bị Trung Quốc dùng
vũ lực cướp (như quyền hồi tố).
Tuy trước mắt, phán quyết của PCA bị một hạn chế lớn là không thay đổi được
nguyên trạng do Trung Quốc áp đăt như “việc đã rồi”, nhưng đây là một bước
ngoăt lịch sử có ý nghĩa chiến lược đối với tương lai Biển Đông. Nó làm thay
đổi cơ bản quan hệ quốc tế của Trung Quốc không những đối với các nước láng
giềng, mà còn đối với Mỹ và các cường quốc khác, để thực hiện quyền tự do lưu
thông hàng hải. Phán quyết của PCA là cơ sở công pháp quốc tế để giải quyết
tranh chấp tại Biển Đông (không còn như trước nữa).
Lãnh đạo Trung Quốc thường hay nhắc người khác rằng “Trung Quốc là một nước
lớn” (như sợ người khác không biết họ là nước lớn). Đó là một ám ảnh về tâm
thức (inferiority complex) làm cho họ ngạo mạn và thích bắt nạt người khác, với
một thái độ bề trên, nhưng lại lo mất thể diện. Phán quyết của PCA đã làm lãnh
đạo Trung Quốc mất mặt, không những đối với quốc tế, mà còn đối với trong nước,
dù họ ra sức bưng bít thông tin. Tập Cận Bình muốn người dân Trung Quốc thần
phục ông ta như một vị “hoàng đế đỏ” đầy quyền uy hoặc “Xi Dada” đầy mị dân.
Khi hoàng đế bị PCA làm mất mặt thì tất nhiên phải nổi giận lôi đình và tỏ ra
cứng rắn để thị uy, không chỉ với quốc tế mà còn với quốc nội (quan trọng hơn).
Vì vậy, không ngạc nhiên khi Tập Cận Bình chỉ thị cho quân đội “sẵn sàng
chiến đấu” và nâng mức báo động lên cấp 1 và cấp 2. Nhưng chiến đấu với ai? Có
lẽ đây là một phản ứng tất nhiên theo chính sách “bên miệng hố chiến tranh”
(brinkmanchip) và trò chơi “cờ vây” để hù dọa thiên hạ, và bắt nạt các nước
láng giềng yếu hơn. Có lẽ Trung Quốc biết thừa rằng Mỹ tăng cường lực lượng tại
Biển Đông và tiến hành tập trận chung để răn đe, nhưng Nhà Trắng không muốn đối
đầu với Trung Quốc. Quân sự hóa và tập trận tại Biển Đông là một trò chơi của
các nước lớn để thử gân nhau, và đối phó với các vấn đề nội bộ (là chính).
Biển Đông là ván bài lớn của Tập Cận Bình, để củng cố quyền lực độc tôn
(bên trong) và triển khai chiến lược “Một Vành đai, Một Con đường” đầy tham
vọng (bên ngoài) nhằm thực hiện “Giấc mộng Trung hoa” của ông ta. Nhưng quan
trọng hơn là Tập Cận Bình muốn dùng mục tiêu đối ngoại này để phục vụ mục tiêu
đối nội, là duy trì nguyên trạng chế độ. Vì vậy, phải kích động chủ nghĩa dân
tộc cực đoan của dân chúng (để “rửa mối hận lịch sử”) nhằm thuyết phục dân
chúng ủng hộ ông ta, trước nguy cơ khủng hoảng kinh tế và chính trị. Ông ta
thậm chí sẵn sàng bắt chước Mao, để thuyết phục dân chúng nghe theo. Tập trung
Quyền lực tuyệt đối (và bằng mọi giá) là ưu tiên số một của Tập Cận Bình. Vì
vậy, PCA làm bộc lộ lỗ hổng quyền lực của Tập Cận Bình, không như “hoàng đế”
mong muốn.
Biển Đông là cái bẫy và con dao hai lưỡi đối với Tập Cận Bình. Phán quyết
của PCA đe dọa lật tẩy Tập Cận Bình, vì lâu nay ông ta nói dối người dân Trung
Quốc là có chính nghĩa, được quốc tế ủng hộ. Tại sao Bắc Kinh phải nói dối là
có 60 nước ủng hộ Trung Quốc, trong khi chỉ có 8 nước (chủ yếu là mấy nước nhỏ
tận Châu Phi) lên tiếng ủng hộ? Tại sao Bắc Kinh lo ngại về phán quyết của PCA,
mặc dù lớn tiếng tuyên bố bất chấp? Tuy Trung Quốc ráo riết xây đắp các đảo
nhân tạo và quân sự hóa Biển Đông, công khai thách thức Mỹ, họ không muốn đối
đầu với Mỹ (mà chỉ muốn ăn chia kiểu nước lớn). Chính sách “bên miệng hố chiến
tranh” và trò chơi “cờ vây” để gậm dần Biển Đông bằng “lát cắt salami” theo
“đường chín đoạn”, coi Biển Đông như cái ao riêng, đang bị Mỹ và PCA lật tẩy và
ngăn chặn.
Biển Đông như cái thùng không đáy khổng lồ để Trung Quốc phung phí tiền của
xây “Vạn lý Trường thành trên cát”. Nếu ý đồ độc chiếm Biển Đông bằng “đường
chín đoạn” thất bại, thì đây có thể là nơi chôn vùi “Giấc mộng Trung Hoa” của
Tập Cận Bình. Biển Đông có thể làm trung Quốc kiệt quệ về tài chính. Riêng dàn
khoan HD981 khi cắm tại Biển Đông phải chi mất hơn một triệu USD/ngày, trong
hơn hai tháng (5-7/2014) đã mất gần 70 triệu USD. Việc bồi đắp và xây cất các
công trình quân sự trên các đảo nhân tạo rất tốn kém. Việc duy trì hoạt động
quân sự còn tốn kém hơn. Chạy đua vũ trang là một trò chơi tốn kém và nguy
hiểm, nhất là khi kinh tế suy thoái và dự trữ ngoại tệ bị chảy ra ngoài với tốc
độ hơn 1.000 tỷ USD mỗi năm. Một trong những lý do làm Liên Xô sụp đổ là vì
chạy đua vũ trang với Mỹ.
Trung Quốc ráo riết phân hóa ASEAN (chia để trị), bằng củ cà rốt (dùng tiền
để mua chuộc) và cái gậy (dùng sức mạnh để bắt nạt và ức hiếp), nên đã dồn Việt
Nam vào ngõ cụt, buộc phải xích lại gần Mỹ để thoát hiểm. Thái độ nước lớn đầy
ngạo mạn của Trung Quốc cũng phản tác dụng đối với một số nước ASEAN khác (như
Miến Điện, Indonesia, Singapore và Malaysia, v.v). Tuy ASEAN bị phân hóa, nhưng
Trung Quốc cũng bị cô lập. Phán quyết của PCA tuy không có giá trị cưỡng chế,
nhưng có giá trị phân hóa thái độ các nước đối với Trung Quốc (kể cả các nước
trong khối NATO) làm Trung quốc càng bị cô lập và mất mặt.
Một mặt trận bao vây và kiềm chế Trung quốc trong khuôn khổ một cơ chế an
ninh tập thể mới đang hình thành tại Biển Đông và Tây Thái Bình Dương, với vai
trò đứng đầu là Mỹ và Nhật, để đối trọng lại với thách thức của Trung Quốc,
theo hướng “xoay trục” (hay “tái cân bằng”). Cuộc tập trận chung gần đây gồm ba
cường quốc Mỹ-Nhật Bản-Ấn Độ (“Tam cường”) là một bước tiến theo hướng đó. Nếu
Úc quyết định tham gia tập trận chung trong khuôn khổ an ninh tập thể mới này,
thì cơ chế an ninh đó sẽ trở thành “Tứ Cường”.
Dù có thái độ cứng rắn và hung hăng đến đâu, khó có khả năng Trung quốc sẽ
liều lĩnh gây ra sự cố để làm hỏng hội nghị thượng đỉnh G-20 sẽ được tổ chức
tại Trung Quốc vào tháng 9/2016. Nhưng trong tương lai gần, cũng khó có khả
năng Trung Quốc sẽ điều chỉnh chính sách mềm mỏng hơn theo hướng chấp nhận
những tiêu chí của luật quốc tế. Theo Bill Hayton, Trung Quốc như một chiếc tàu
chở dầu khổng lồ chạy chậm, không dễ đổi hướng, nhưng có dấu hiệu mũi tầu đang
quay dần về phía luật quốc tế. Trong khi chờ đợi, các nước không nên có hành
động khiêu khích hoặc sỉ nhục Trung Quốc. Đô đốc Dennis Blair (nguyên Tư lệnh
Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương) cũng cho rằng có những phe phái trong nội bộ Trung
Quốc không muốn hung hăng và có dấu hiệu muốn hòa hoãn, tuy vẫn phải tuyên bố
cứng rắn.
Formosa & hệ quả không định trước
Nếu sự kiện Trung Quốc đưa dàn khoan HD981 vào hải phận Việt Nam tại Biển
Đông là cú sốc đối với Hà Nội và là bước ngoặt lớn thứ nhất đối với Quan hệ
Trung-Việt, xô đẩy Việt Nam xích lại gần Mỹ, thì sự kiện Formosa (và bàn tay
nhà thầu Trung Quốc phía sau) gây ra thảm họa môi trường tại Vũng Áng và các
tỉnh miền Trung là bước ngoặt lớn thứ hai, buộc người Việt Nam phải “thoát
Trung” (như một hệ quả không định trước).
Hầu hết các nhà khoa học và giới nghiên cứu (trong và ngoài nước) đều cho
rằng dự án Formosa “lợi bất cập hại”, và là một “tử huyệt” của Việt Nam. Nó
không những gây ra một thảm họa môi trường lớn, mà còn có thể gây ra một thảm
họa lớn về an ninh quốc phòng. Nó đang làm cho kinh tế suy thoái nhanh hơn, và
làm cho chính trị phân hóa mạnh hơn, trong khi lỗ hổng về an ninh và quốc phòng
ngày càng lớn và nguy hiểm hơn.
Nếu nhìn lại, Formosa có mấy đặc điểm nổi bật:
Thứ nhất, dự án Formosa tại Vũng Áng bao gồm nhà máy thép (China Steel là
chính) và cảng Sơn Dương (chưa biết ai là chính!) có ý nghĩa không chỉ về kinh
tế mà cả về chiến lược. Phải chăng vì “nhạy cảm” nên ít người nói đến ý nghĩa
chiến lược của Sơn Dương và Đèo Ngang trong “dự án kép” này. Chẳng lẽ các tướng
lĩnh và chuyên gia quân sự lại phớt lờ, trong khi quan hệ Viêt-Trung đầy bất ổn
và Biển Đông như thùng thuốc súng? Vì vậy, không ngạc nhiên khi Đại tướng Đỗ Bá
Tỵ (nguyên tổng tham mưu trưởng, nay là phó chủ tịch Quốc hội) phát biểu tại
Quốc hội (11/7/2016), “vụ việc Formosa còn là vấn đề tiềm ẩn lâu dài…không
chỉ đơn giản về kinh tế mà còn gắn với quốc phòng an ninh…”
Thứ hai, dự án Formosa tại Vũng Áng có hai ông chủ lớn liên kết chặt chẽ để
chống lưng cho nhau (như “cặp bài trùng”) là Formosa và MCC (tổng thầu Trung
Quốc) là tập đoàn nhà nước có thế lực mạnh, được Đảng & Chính phủ TQ chống
lưng (và chỉ đạo?);
Thứ ba, Formosa là tập đoàn Đài Loan có lý lịch bất hảo, đã gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng tại nhiều nơi (Đài Loan, Campuchia, và Mỹ…) nên đã được một
tổ chức quốc tế tặng giải “hành tinh đen”. Trong khi Formosa bị người Đài Loan
và một số nước khác tẩy chay, thì một số người Việt Nam lại ưu ái rước về (một
cách bất minh).
Thứ tư, không có ai ngu xuẩn đầu tư quá lớn (10 tỷ USD cho giai đoạn đầu)
vào một dự án thép khủng (7,5 triệu tấn thép/năm cho giai đoạn đầu) đúng lúc
thị trường thép suy thoái (giá đã giảm 200%), nếu họ không đánh đổi lại bằng
những lợi ích khác to lớn hơn để bù lại (như ưu đãi về giá đất, thuế và thời
gian thuê (70 năm), về cơ hội giảm chi phí bằng công nghệ thấp và hệ thống xử
lý chất thải dưới chuẩn, và những lợi ích chiến lược “khó nói”!
Thứ năm, có lẽ vì thế mà Formosa đã được một số lãnh đạo Việt Nam (đặc biệt
là tỉnh Hà Tĩnh) chống lưng và “bảo kê” như lợi ích nhóm (hoặc thế giới ngầm).
Thế lực này rất mạnh, nên những ý kiến phản biện của các nhà khoa học và quan
chức có hiểu biết đều bị vô hiệu hóa (giống như trường hợp hai dự án khai thác
Bô-xít tại Tây Nguyên).
Phải làm rõ nguyên nhân và bối cảnh như trên, thì mới có thể lý giải và
hiểu được tại sao lại xảy ra thảm họa môi trường (và khủng hoảng xã hội) như
vừa qua. Tại sao phải mất gần ba tháng Chính phủ Việt Nam mới “điều tra” xong
và công bố nguyên nhân và thủ phạm (mà ai cũng đã biết), và chủ đầu tư (Formosa)
mới chịu thú nhận, nhưng lại đổ lỗi cho nhà thầu, với lý do bị mất điện 5 ngày
(đến trẻ con cũng khó chấp nhận được). Nhưng dù sao, trong bối cảnh “nhạy cảm”,
đó là một cố gắng lớn của Chính phủ Việt Nam.
So với tội ác hủy diệt người dân Trung Quốc theo Pháp Luân Công thì tội ác
hủy diệt môi trường sống của ngư dân Việt Nam cũng đều là diệt chủng. Liệu
Formosa hoặc nhà thầu vô tình hay cố ý? Có nhiều lý do để các nhà khoa học nghi
ngờ. Nhà máy thép Formosa Vũng Áng mới “vận hành chạy thử” (commissionning) thì
tại sao lại có quá nhiều dung dịch Cynide và Phenol như vậy? Liệu có khả năng
sau mấy vụ nổ lớn ở Thiên Tân (năm 2015), Trung Quốc đã thuê Formosa tìm cách
tiêu hủy dùm những hóa chất độc của các nhà máy hóa chất Trung Quốc, và Formosa
đã đưa nó sang Vũng Áng để xả ra biển? Sự cố mất điện 5 ngày tại bộ phận xử lý
chất thải là một điều vô lý đáng ngờ. Phải chăng việc này có “lợi ích kép” là
vừa tẩu tán được một số hóa chất độc hại cho Trung Quốc, vừa hủy diệt môi
trường biển để ngư dân Việt Nam hết đường sinh sống, buộc phải bỏ ngỏ Biển Đông
cho Trung Quốc.
Ông Hà Ngọc Chiến (chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc của Quốc hội) nhận xét, “Đây
là dự án đầu tư nước ngoài được phê duyệt rất nhanh, đánh giá tác động môi
trường cũng được phê duyệt rất nhanh…Sau khi nhà đầu tư được cấp phép thì các
yêu sách cũng được đáp ứng rất nhanh và cuối cùng hậu quả thảm họa cũng đến rất
nhanh…”. Theo ông Chiến, “Formosa Hà Tĩnh là con ngựa thành Troy của
Trung Quốc, được phép hoạt động siêu tốc…nên con ngựa Formosa mới thản nhiên
thải ra các thứ hóa chất siêu độc…”
Tiếp theo thảm họa môi trường biển tại Vũng Áng và 4 tỉnh miền Trung, là
một loạt sự cố môi trường bí ẩn làm cá chết hàng loạt tại nhiều sông hồ ở Việt
Nam như sông Bưởi và Lạch Bang (Thanh Hóa), sông La Ngà (Đồng Nai), sông Hinh
(Phú Yên), sông Thương (Bắc Giang), đảo Phú Quý (Bình thuận), kênh Nhiêu Lộc
(Sài Gòn), hồ Hoàng Cầu (Hà Nội). Đây là một hiện tượng khác thường do con
người gây ra chứ không phải do thiên nhiên. Trong khi sông MeKong bị bức tử bởi
các đập thủy điện của TQ trên thượng nguồn, gây ra hạn hán tại đồng bằng Nam
Bộ, thì người ta còn định làm các dự án thủy điện trên sông Hồng (mà chắc các
nhà thầu TQ sẽ nhảy vào), có thể gây ra thảm họa môi trường tại Bắc Bộ.
Trong bối cảnh đó, việc khắc phục thảm họa môi trường do Formosa Hà Tĩnh
gây ra hầu như là vô vọng, vì những lý do mà chắc ai cũng biết:
Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam thỏa thuận nhận 500 ngàn USD của Formosa để
“phạt cho tồn tại” với lý do “khoan hồng” và “đánh kẻ chạy đi chứ không đánh kẻ
chạy lại”, vì Formosa đã hứa “bằng cả trái tim”. Không phải Chính phủ
Việt Nam dễ tin lời họ (vì cả hai đều có lý do nói dối) mà chẳng qua đây là một
chiến thuật quen thuộc để hai bên hợp thức hóa nguyên nhân gây ra thảm họa môi
trường, để cùng trục lợi. Có người nói Viêt Nam là “cổ đông không góp vốn”.
Phải chăng Chính phủ VN đã chấp nhận “chọn thép bỏ cá” (từ bỏ chủ quyền), nên
bây giờ “há miệng mắc quai”, cho nên “đâm lao phải theo lao”?
Thứ hai, dự án Formosa tại Vũng Áng có 15 nhà thầu Trung Quốc, với hơn
4.000 công nhân Trung Quốc mà đa số “làm chui”, không đăng ký, không biết
nguồn gốc, chính quyền và “cơ quan chức năng” bất lực nên lờ đi vì không quản
lý nổi. Thật trớ trêu là trước đây (1979-1980), Việt Nam đã có chủ trương cực
đoan là trục xuất tất cả Hoa Kiều (gọi là “nạn kiều”) vì lý do an ninh (sợ “đội
quân thứ năm”). Mao đã từng nói với Lê Duẩn là ông ta sẽ chỉ huy 50 triệu bần
nông Trung Quốc tiến xuống Đông Nam Á. Nay họ làm thật.
Thứ ba, trong phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội (11/7/2016) Bộ trưởng
TN-MT Trần Hồng Hà thừa nhận việc xả thải chất độc ra biển của Formosa là do
các nhà thầu Trung Quốc, “việc chuyển giao công nghệ, lắp ghép thiết bị và
vận hành hệ thống xử lý nước thải hầu hầu hết đều là nhà thầu của Trung quốc”.
Trong khi cả nhà máy có điện, chỉ có hệ thống kiểm soát và thanh lọc những hóa
chất độc hại trong nước thải là mất điện. Rõ ràng việc xả thải hóa chất độc hại
ra biển là có chủ ý. Một dự án thép đầu tư hơn 10 tỷ USD mà giải thích bộ phận
thanh lọc hóa chất độc hại bị mất điện trong “một số ngày” là điều vô lý. Một
nhà khoa học môi trường (tiến sỹ Tô Văn Trường) nói, “Tôi vẫn thiên về
nguyên nhân thủ phạm là do Formosa cố ý (đặc biệt là lỗi nhà thầu phụ Trung
Quốc) chứ không phải là sự cố. Đừng quên Formosa đã bị tai tiếng rất nhiều vì
tội hủy hoại môi trường…”
Ông Hà Ngọc Chiến cũng khẳng định, “Formosa do Trung Quốc điều hành là
chính. Cần làm rõ các nguyên nhân chủ quan của chúng ta để có giải pháp khắc
phục”. Nhưng làm rõ như thế nào, và khắc phục như thế nào, nếu đây là một
“liên minh ma quỷ” giữa chủ đầu tư (Đài Loan) với nhà thầu chính (Trung Quốc)
và các nhà thầu phụ (Trung quốc/Việt Nam) được các quan tham địa phương (Hà
Tĩnh) bảo kê, trên cơ sở lợi ích bất minh.
Như để minh họa, chiều 11/7/2016, một đoàn kiểm tra liên nghành (gồm phòng
Cảnh sát Điều tra Tội phạm Môi trường, thanh tra Sở TN-MT, Trung tâm Quan trắc
& Kỹ thuật Môi trường, Công an Thị xã Kỳ Anh) đã bắt quả tang một đoàn xe
tải của Formosa chở chất thải công nghiệp đến chôn lấp trộm tại một trang trại
bí ẩn của giám đốc Công ty Môi trường tại Kỳ Anh (ông Lê Quang Hà), tại đầu
nguồn sông Trí, gần một đập tràn cung cấp nước sinh hoạt cho hàng ngàn hộ dân
địa phương. Hàng ngàn M3 rác thải công nghiệp đã chôn tại đây. Một cán bộ công
tác tại Formosa Hà Tĩnh thừa nhận, “đây là chất thải kim loại nặng, được
lắng đọng sau quá trình xử lý nước thải…”. Chắc đây không phải lần đầu hay
lần cuối.
Như vậy thì làm sao người dân Việt Nam có thể tin được lời hứa (với cả trái
tim) của ông chủ tịch Formosa trước Chính phủ và nhân dân Việt Nam? Đó là trái
tim gì? Làm sao người dân có thể làm theo lời khuyên của ông Bộ trưởng
TN-MT Trần Hồng Hà là phải khoan hồng Formosa, “đánh kẻ chạy đi chứ không đánh
kẻ chạy lại”!
Bóng ma Pháp Luân Công
Ba thập kỷ qua, Trung Quốc đã trỗi dậy mạnh mẽ thành một cường quốc kinh tế
đứng thứ hai thế giới, có ngân sách quân sự chỉ đứng sau Mỹ. Nhưng việc đàn áp
tàn bạo Pháp Luân Công, làm gần hai triệu người Trung Quốc chết oan, và chủ
trương mổ lấy nội tạng của họ đã trở thành một “tử huyệt” của chế độ. Trong khi
vẫn chưa thoát khỏi bóng ma Cách mạng Văn hóa, thì bóng ma Pháp Luân Công đang
nổi lên đòi nợ máu.
Ngày 20/6/2016, Tổ chức Thế giới Điều tra cuộc Đàn áp Pháp Luân Công
(WOIPFG) đã công bố kết luận điều tra. Theo báo cáo của WOIPFG, ngày 20/7/1999,
Giang Trạch Dân đã ra lệnh cho các lực lượng an ninh của chế độ “nhổ tận rễ”
môn tu luyện Pháp Luân Công bằng cách “bôi nhọ thanh danh, vắt kiệt tài
chính, và hủy hoại thân thể”. Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới sự chỉ
đạo của cựu Tổng Bí thư Giang Trạch Dân đã giết trên 2 triệu học viên Pháp Luân
Công để mổ sống lấy nội tạng. Ngày 24/6/2016, phát ngôn viên của WOIPFG là Uông
Chí Viễn cho biết Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị là Trương Cao Lệ đã xác
nhận con số bị giết nói trên là hoàn toàn đáng tin. Theo WOIPFG, Trương Cao Lệ
không phủ nhận mà còn nói, “Phải ngăn cản truy cứu việc này trong cuộc họp Bộ
Chính trị…”
Theo một báo cáo của ba nhà nghiên cứu David Kilgour (cựu quốc vụ khanh và
nghĩ sỹ quốc hội Canada), David Matas (luật sư nhân quyền Canada), và Ethan
Gutmann (nhà văn Mỹ) đã được cập nhật và công bố (ngày 23/6/2016) với nhan đề
“Cập nhật vụ Tàn sát và Thu hoạch Đẫm máu” (An Update to Bloody Harvest and
the Slaughter), hơn 1,5 triệu người đã bị chế độ Trung Quốc giết để “thu
hoạch” lấy nội tạng một cách hệ thống suốt 15 năm qua, trong đó hầu hết là
những người theo Pháp Luân Công bị bắt giam.
Ngày 16/3/2016, Hạ Viện Mỹ đã thông qua “Nghị quyết 343” bày tỏ lo ngại về
những báo cáo đáng tin cậy cho rằng nhà nước Trung Quốc đã bảo kê việc “thu
hoạch” cưỡng bức lấy nội tạng những tù nhân lương tâm người Trung Quốc mà
hầu hết là những học viên Pháp Luân Công và những nhóm thiểu số hay tôn giáo.
Tội ác này đã được triển khai một cách âm thầm từ năm 2000 tại hàng trăm bệnh
viện và các cơ sở cấy ghép của Trung quốc. Các bác sỹ trong cuộc cho biết nguồn
cung cấp nội tạng là một “bí mật quốc gia”.
Kẻ cầm đầu chủ mưu đàn áp Pháp Luân Công một cách “cực kỳ ghê tởm” như tội
ác diệt chủng của phát xít Đức là cựu Tổng Bí thư Giang Trạch Dân. Những kẻ
khác cùng phe với Giang Trạch Dân đã đi đầu thực hiện chủ trương này là Bạc Hy
Lai (cựu Bí thư Trùng Khánh) và Chu Vĩnh Khang (trưởng ban Chính pháp). Theo
cựu nhà báo Trung Quốc Khương Duy Bình, thì Giang Trạch Dân đã nói với Bạc Hy
Lai, “anh phải cho thấy sự bền bỉ của mình trong việc xử lý Pháp Luân
Công…nó sẽ là tương lai chính trị của anh”. Một kẻ đầu sỏ khác cũng bị “ngã
ngựa” cùng với Bạc Hy Lai và Chu Vính Khang là Lý Đông Sinh (cựu Bộ trưởng Công
an) là người phụ trách “Phòng 610” một tổ chức bí ẩn được thành lập ngày
10/6/1999 (ngoài vòng pháp luật) để giám sát việc bức hại các học viên Pháp
Luân Công.
Nay lý do lớn nhất để Tập Cận Bình hạ bệ Giang Trạch Dân là tội ác kinh
khủng đối với học viên Pháp Luân Công. Nhưng nếu truy cứu đến cùng thì vấn đề
Pháp Luân Công trở thành con dao hai lưỡi như một tử huyệt đối với chế độ. Sau
khi đã xử lý những con hổ dữ như Bạc Hy Lai và Chu Vĩnh Khang (đã liên kết với
Giang trạch Đân định lật đổ Tập Cận Bình, nhưng bị bại lộ do Vương Lập Quân
chạy vào Tổng Lãnh sự Quán Mỹ) nên Tập Cận Bình không thể không xử lý siêu hổ
Giang Trạch Dân (có tin đã bị bắt ngày 10/6/2016).
Trong số 712 bệnh viện hàng đầu được xác định là trung tâm mổ ghép nội
tạng, thì bệnh viện Trung tâm Số 1 Thiên Tân là một điển hình. Năm 2006, họ đã
xây dựng thêm một tòa nhà 17 tầng với 500 giường dành riêng cho bệnh nhân ghép
nội tạng. Trong mấy năm qua, nhiều người tưởng rằng quy mô “thu hoạch” nội tạng
của học viên Pháp Luân Công đã giảm đi đáng kể, nhưng các tác giả của các báo
cáo điều tra nói trên phát hiện thấy không phải như vậy. Gutmann nhận xét, “chúng
ta đang nhìn thấy một bánh đà khổng lồ mà họ dường như không thể dừng được. Tôi
không tin đằng sau đó chỉ là vấn đề lợi nhuận, mà còn là vấn đề ý thức hệ, giết
người hàng loạt để che đậy một tội ác khủng khiếp mà cách duy nhất để che đậy
là tiếp tục sát hại những người biết về nó”. Nói cách khác là “giết người
diệt khẩu”.
Lời cuối: Gã khổng lồ có nhiều tử huyệt
Sự hưng thịnh và suy tàn của một quốc gia có quy luật và thường khó tránh.
Trung Quốc cũng vậy, nhưng có đặc thù riêng. Sau giải phóng (1949) chủ trương
“Đại Nhảy vọt” và “Cách mạng Văn hóa” đã đẩy Trung quốc xuống vực thẳm, với mấy
chục triệu người chết oan. Đó là một thảm họa do hệ quả của chủ nghĩa Mao cực
đoan. Nhưng điều đáng lo là chủ nghĩa Mao vẫn chưa chết, và bóng ma Cách mạng
Văn hóa vẫn còn sống.
Cuộc đàn áp đẫm máu tại Quảng trường Thiên An Môn để trấn áp phong trào đòi
cải cách và dân chủ đã để lại một vết đen trong lịch sử Trung Quốc, đến nay vẫn
chưa được bạch hóa và giải oan. Những nạn nhân của Thiên An Môn gồm hàng vạn
sinh viên và người dân Trung Quốc, cùng với các nhân vật chủ trương cải cách
như Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương. Oan hồn của Thiên An Môn cùng với oan hồn
của Pháp Luân Công đang đòi nợ máu, tạo thành một tử huyệt của chế độ. Giải oan
cũng chết mà không giải oan cũng chết.
Trung Quốc là gã khổng lồ có nhiều tử huyệt. Sau ba thập kỷ trỗi dậy thành
công về kinh tế một cách ngoạn mục, Trung quốc đang có dấu hiệu suy tàn, có thể
dẫn đến khủng hoảng cả kinh tế lẫn chính trị. Những bất ổn như đồng tiền mất
giá và chứng khoán lao dốc, xuất khẩu đình đốn và suy thoái kinh tế, nguy cơ
bong bóng bất động sản và nợ công chồng chất, dòng người và dòng tiền tiếp tục
chạy ra nước ngoài, trong khi chiến dịch “Đả hổ diệt ruồi” làm phân hóa sâu sắc
nội bộ. Thay đổi cũng chết, mà không thay đổi cũng chết.
NQD. 14/7/2016
Nguồn: Theo FB KY DUYEN