Hà Văn
Thùy
Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hải, bạn học thời cấp Hai trường Ngô Quyền Hải
Phòng, có lần bảo tôi: “Tớ đọc cậu rồi. Thú thật là cũng chẳng hiểu được
bao nhiêu. Nhưng này, thế giới họ có
công nhận cậu không?” Với phần lớn người Việt, “thế giới công nhận” là chuẩn mực
của chân lý. Và như vậy, chúng ta vẫn cần một vú em! Bao giờ mới thực sự khôn lớn?!
Ở thế kỷ trước, ông cha ta dốt vì không có khoa học cơ bản cũng như tài liệu
tra cứu.
Nay, học sinh phổ thông của ta ngang trình độ thế giới. Với Internet,
ta có thể tra cứu hầu hết tài liệu mình cần thì về nguyên tắc, người Việt không
thua kém bất cứ đầu óc thông tuệ nào của nhân loại. Đấy là nói về khoa học công
nghệ. Còn trong lĩnh vực lịch sử văn hóa phương Đông, chúng ta phải hơn họ bởi
những cái đó từ lâu đã thấm vào hồn vào máu chúng ta. Lẽ nào chúng ta cứ há miệng
chờ thiên hạ tìm ra rồi học? Mà những gì họ “khám phá” phải chăng đã đúng? Di sản
sai lầm của Viễn Đông Bác cổ đang còn đè nặng tâm trí dân tộc chẳng phải là bài
học đắng cay sao?
Xuất phát từ suy nghĩ như vậy, 15 năm qua tôi làm cuộc hành trình
tìm về nguồn cội. Tôi đã công bố những bài viết và những cuốn sách. Có người
tin và nhiều người hoài nghi. Nay xin tường trình việc “bếp núc” của quá trình
tìm kiếm với những thách thức ngõ hầu giúp bạn đọc hiểu thêm hành trình “tìm Đạo”.
*
Một đêm tháng Tám năm 2004, trong khi tìm tư liệu cho cuốn tiểu thuyết
đang viết thì tôi gặp dòng tin từ tờ báo tiếng Việt xuất bản ở Mỹ:“Các nhà đi
truyền học khám phá loài người hiện đại xuất hiện ở châu Phi 180.000 năm trước.
60.000 năm trước, người từ châu Phi theo ven bờ Ấn Độ Dương tới Việt Nam. Nghỉ
lại ở đây 10.000 năm, sau khi tăng nhân số, người từ Việt Nam tỏa ra các đảo
Đông Nam Á, chiếm lĩnh Ấn Độ và 40.000 năm trước đi lên chinh phục Hoa lục…” Đọc
xong bản tin, tôi ngồi lặng một lúc lâu, người như bị say sóng, trong đầu chợt
lóe lên ánh sáng như làn chớp. Một ý nghĩ chợt đến: Nếu tin này đúng, sẽ làm
thay đổi cả lịch sử và vận mệnh dân tộc! Khi xác minhđược thông tin, tôi dừng mọi
việc văn chương để tập trung đi tìm nguồn cội. Đó là quá trình tìm lời giải cho
những câu hỏi.
1.Câu hỏi thứ nhất: người
di cư đến Việt Nam theo con đường nào?
Học giả thế giới đưa ra hai quan điểm đối nghịch nhau về con đường
di cư của người châu Phi. J.Y. Chu và nhóm Đại học Texas cho rằng: “60.000 năm
trước, người hiện đại theo ven biển Ấn Độ Dương tới Việt Nam.” Trong khi đó
Spencer Wells của Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ khẳng định: “Có con đường di cư
phương nam diễn ra 60.000 năm trước. Nhưng đợt di cư thứ hai xảy ra 45.000 năm
trước, từ châu Phi, con người lên Trung Đông, vào Trung Á sau đó lan tỏa ra
toàn thế giới mới là cuộc di cư quan trọng, làm ra đại bộ phận nhân loại ngoài
châu Phi.” Hai con đường di cư tất dẫn đến kết quả trái ngược.Theo con đường
nào?
Rất may là lúc này có thêm công bố của Stephen Oppenheimer Đại học
Oxford, cho rằng “Chỉ duy nhất cuộc di cư thành công diễn ra 85.000 năm trước.
Con người qua cửa Hồng Hải sang bán đảo A Rập. Bị băng hà chặn ở phía bắc, đoàn
di cư chia đôi. Một bộ phận dừng lại trên đất Yemen, bộ phận còn lại theo ven
biển Ấn Độ, tới Việt Nam 70.000 năm trước.” Một lá phiếu bỏ cho con đường phía
nam. Tiếp đó bạn bè gửi cho tài liệu của Ballinger thuộc Hiệp Hội Di truyền học
Hoa Kỳ: “Dân cư châu Á cùng một chủng Mongoloid. Trong đó người Việt Nam có chỉ
số đa dạng sinh học cao nhất.” Phát hiện này xác nhận Việt Nam là nơi phát tích
của dân cư châu Á. Con đường di cư phía namcó thêm sự ủng hộ. Tôi yên tâmđi con
đường này. Kết quả là tôi đã đúng trong khi cáchọc giả phương Tây và Trung Quốc
theo quan điểm hai con đường dẫn tới sai lầm tai hại.
2.Câu hỏi thứ hai: Người đến
Việt Nam là ai?
Để tìm hiểu sự hình thành dân cư phương Đông
thì đáp án của câu hỏi này sẽ là biển chỉ đường. Vì lẽ, chỉ khi biết người đến
Việt Nam là ai thì mới hiểu con người sinh ra tại Việt Nam là ai rồi từ đó mới
có thể theo dõi bước chân của họ để biết sự hình thành dân cư các nước phương
Đông. Có lẽ do không chú ý đến việc người tiền sử đặt chân tới Việt Nam đầu
tiên nên không nhà di truyền nào giải quyết câu hỏi này. Rất may là trong cuốn
Nhân chủng học Đông Nam Á, Giáo sư Nguyễn Đình Khoa khám phá: “Thời đồ đá, trên
đất Việt Nam có mặt hai đại chủng Australoid và Mongoloid. Họ hòa huyết với
nhau và con cháu họ hòa huyết tiếp sinh ra bốn chủng người Việt cổ Indonesian,
Melanesian, Vedoid và Negritoid, cùng thuộc nhóm loại hình Australoid. Sang thời
kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở thành chủ thể dân cư. Người
Australoid biến mất khỏi đất này, không hiểu do di cư hay đồng hóa?” Tư liệu
này vô cùng giá trị, nó không những cho thấy, người di cư tới Việt Nam gồm hai
đại chủng Australoid và Mongoloid mà còn xác định, bốn chủng người Việt cổ được
sinh ra ở Việt Nam cùng một thời điểm, cùng một tổ tiên và là gốc của dân cư
phương Đông. Nhờ nắm được tư liệu này, tôi giải thích sự hình thành dân cư châu
Á rõ ràng và nhất quán. Không hiểu sao, tài liệu quý như thế mà các học giả thế
giới không biết đến khiến cho họ bất cập trong việc giải thích nguồn gốc dân cư
châu Á?
3. Câu hỏi thứ 3: Người
Mông Cổ từ đâu ra?
Nguồn gốc chủng Mông Cổ là chìa khóa của vấn đề
dân cư phương Đông. Nhà nhân học hàng đầu Việt Nam khẳng định: đại
chủng Mongoloid có mặt ban đầu rồi biến mất trong suốt thời đồ đá nhưng sang thời
kim khí thì xuất hiện trở lại để thay thế toàn bộ người Australoid. Người
Mongoloid vì sao biến mất? Rồi từ đâu xuất hiện? Cho đến nay khoa học thế giới
chưa có câu trả lời thỏa đáng cho hiện tượng bí hiểm này.
Từ khảo cứu của mình, tôi lý giải như sau:
i.Vì sao người Mongoloid biến mất khỏi Việt Nam?
Từ thực trạng dân cư Việt Nam thời đồ đá mà chứng
cứ là 35 cốt sọ, cho phép suy luận, đến Việt Nam do số lượng người Australoid
đông nên sau quá trình hòa huyết liên tục qua nhiều thế hệ, gen Mongoloid trong
máu các cá thể lai bị lặn còn gen Australoid trội. Cuối cùng chỉ còn duy nhất
loại hình Australoid được thể hiện. Chủng Indonesian (Lạc Việt) theo nguyên lý
di truyền đáng lẽ phải là Mongoloid nhưng trên thực tế, do lượng gen Australoid
trội nên gen Mongoloid lặn đi. Tuy nhiên chủng Indonesianvẫn mang lượng gen
Mongoloid cao nhất trong dân cư. Nói người Mongoloid biến mất chỉ đúng về hình
thức nhưng thực ra họ vẫn có mặt vì gen của họ không mất đi mà ở lại trong máu
huyết của con cháu là người Việt cổ.
ii. Người Mongoloid phương Bắc xuất hiện từ đâu?
Cho đến nay, các học giả thế giới cũng chưa đồng
ý với nhau về việc người Mongoloid xuất hiện ở châu Á như thế nào? Stephen
Oppenheimer cho rằng, từ khu vực giữa Ấn Độ và Pakistan, người Mongoloid theo
hành lang núi Hymalaya đi lên Mông Cổ. Một nhánh khác theo ven biển Đông Nam Á
đi vào Hoa lục. Peter Bellwood lại cho rằng, đó là do một nhóm dân cư từ
Malaysia đi vào lục địa.
Trong khi đó, dựa vào bốn gợi ý:
a. Người
Mongoloid có mặt ở Việt Nam 70.000 năm trước;
b. Di cốt
người Mongoloid tại Lưu Giang Quảng Tây 68.000 năm tuổi;
c. Người North
Mongoloid xuất hiện trên đất Mông Cổ 40.000 năm trước;
d. Một sốkhảo cứu di truyền cho rằng
người Mongoloid cũng từ Đông Nam Á đi lên.
Tôi đưa ra giả thuyết:
70.000 năm trước, khi tới Việt Nam, phần lớn
người Mongoloid gặp gỡ hòa huyết với người Australoid để sinh ra người Việt cổ.
Trong khi đó có một số nhóm riêng rẽ đi lên Tây Bắc Việt Nam rồi dừng lại trước
bức thành băng giá. Họsống tách biệt ở đây trong khoảng 30.000 năm. Nhiều khả
năng bộ xương người Mongoloid Lưu Giang Quảng Tây là dấu tích của nhóm người
này.
40.000
năm trước, khi khí hậu được cải thiện, họ theo hành lang phía Tây Hoa lục đi
lên đất Mông Cổ. Do giữ được gen Mongoloid thuần chủng, họ được nhân học gọi là
chủng Mongoloid phương Bắc (North Mongoloid).
4. Người
Mongoloid phương Nam từ đâu ra?
Chủng người Mongoloid phương Nam là bí ẩn lớn
của lịch sử thế giới.Họ xuất hiện tại văn hóa Ngưỡng Thiều 7000 năm trước nhưng
nay là chủng người đông nhất hành tinh. Năm 2005 học giả Zhou Jixu cho rằng họ
từ phía nam lên. Điều này không đúng vì thời đồ đá ở phương nam không có người
Mongoloid.
Tôi cho rằng khoảng 7000 năm trước, người
North Mongoloid sống ở bờ Bắc còn người Việt Australoid sống ở bờ Nam Hoàng Hà
có sự tiếp xúc trao đổi vật phẩm nên xảy ra quan hệ trai gái. Phần nhiều đàn
ông Mông Cổ vượt sông, kể cả cướp bóc. Những con lai Mông – Việt mang mã di
truyền South Mongoloid ra đời trên đất Việt, trong cộng đồng Việt nên là người
Việt, sau này được nhân học gọi là người Việt hiện đại. Người Việt cổ sống
ở lưu vực Hoàng Hà chủ yếu là người Indonesian,trong máu có lượng gen Mông Cổ
cao nhất. Do vậy khi được thêm một lượng nhỏ gen Mông Cổ từ người đàn ông trên
bờ Bắc, con lai sẽ chuyển sang chủng Mongoloid phương Nam. Đến lượt mình, những
con lai này khi hôn phối với đồng bào người Việt cổ, cũng sinh ra con cháu mang
mã di truyền Mongoloid phương Nam. Do vậy, số lượng người Mongoloid phương Nam
tăng nhanh, thay thế người Việt cổ Australoid, trở thành chủ thể dân cư lưu vực
Hoàng Hà.
5. Người Hán là ai?
Cho đến nay, nguồn
gốc người Hán vẫn là thách đố với khoa học thế giới. Học giả phương Tây cũng
như của Đại học Phúc Đán Trung Quốc cho rằng “người nông dân Trung Quốc – một
cách gọi người Hán- từ Siberia xuống. Mà tổ tiên họ từ Tây Á lên khoảng 45.000
năm trước.” Nhưng theo tôi, sự thật như sau. Người Việt hiện đại Mongoloid
phương Nam từ 7000 năm trước là chủ nhân lưu vực Hoàng Hà với hai trung tâm
Thái Sơn và Trong Nguồn. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ phương Bắc đánh chiếm miền
Trung Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế. Hàng vạn người Việt (Mông Cổ phương Nam)
phải chạy xuống Nam Dương Tử. Cuộc chiến kéo dài khiến cho nhiều lớp người phải
tỵ nạn. Người Việt còn ở lại lưu vực Hoàng Hà một phần trở thành dân cư nhà nước
Hoàng Đế, phần trở thành những nước nhỏ hay bộ tộc độc lập người Việt, tiếp tục
kháng chiến. Điển hình là nước Ư Việt trên đất Hà Nam tiếp tục chiến đấu cho tới
thời nhà Thương. Sau đó, những tiểu quốc “Đông Di” này liên kết với nhà Chu, diệt
nhà Thương rồi trở thành chư hầu của nhà Chu, trong đó có nước Sở. Diệt nhà Tần,
Lưu Bang người Hán Thủy nước Sở, lấy tên quê đặt tên nước là Hán quốc nên người
Việt nước Sở trở thành người Hán. Do dân cư Nam Dương Tử và Nam Hoàng Hà cùng một
chủng tộc nên nhà Hán mở rộng lãnh thổ tới đâu thì người vùng mới chiếm tự
nhiên trở thành người Hán. Trình bày trên cho thấy, Tổ tiên người Hán là lớp con cháu
do người Việt sinh ra 7000 năm trước và sống tại lưu vực Hoàng Hà.
6. Sự hình
thành dân cư Việt Nam
Học giả phương
Tây và Trung Quốc, theo quan niệm hai con đượng di cư tới Đông Á cho rằng, dân
cư Việt Nam được hình thành từ hai lớp. Con đường phía nam cho ra lớp người bản
địa chủng Australoid. Con đường phương bắc
sinh ra người nông dân Trung Quốc chủng Mongoloid phương Nam. Một
lượng lớn người nông dân Trung Quốc tràn xuống, trùm lên người bản địa, làm nên
dân cư Việt Nam.
Theo tôi, quan niệm
đó không phù hợp với sự thật. Bởi lẽ, nếu hình thành như vậy thì người Việt Nam
phải là con cháu của người Trung Quốc. Theo nguyên lý di truyền học, chỉ số đa
dạng sinh học của tổ tiên cao hơn con cháu. Lẽ đương nhiên, người Việt Nam phải có chỉ số đa dạng sinh học
thấp hơn người Trung Quốc. Nhưng trên thực tế, các nghiên cứu di truyền đều
khẳng định người Việt Nam có chỉ số đa dạng
sinh học cao nhất trong dân cư Đông Á. Điều này hoàn toàn phủ định quan niệm
trên và xác nhận người Việt cổ là tổ tiên của người Trung Quốc.
Từ khảo cứu của
mình, tôi khẳng định, đúng là dân cư Việt Nam được hình thành từ hai lớp. Nhưng
quá trình như sau: 40.000 năm trước, nguời Việt cổ từ Việt Nam đi lên, trở
thành dân cư đầu tiên của Hoa lục. 7000
năm trước, tại Nam Hoàng Hà, người Việt cổ tiếp xúc với người Mông Cổ
phương Bắc, sinh ra người Việt hiện đại chủng Mongoloid phương Nam. Sau năm
2698 TCN, do cuộc xâm lăng của người Mông Cổ phương Bắc, một bộ phận người Việt
hiện đại di cư về phương nam, đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa di truyền dân
cư Nam Dương Tử, Việt Nam và Đông Nam Á sang chủng Mongoloid phương Nam. Do
trong máu người Việt Nam cũng như Đông Nam Ácó sẵn một lượng gen Mongoloid được
tổ tiên truyền lại từ 70.000 năm trước nên khi nhận thêm gen Mongoloid, người
Việt cổ chuyển nhanh sang chủng Mongoloid phương Nam.Cuộc chuyển hóa di truyền
kéo dài gần hết nửa sau thiên niên kỷ III TCN. Tới 2000 năm TCN, toàn bộ dân cư
Việt Nam mang mã di truyền Mongoloid phương Nam. Do số người từ Trung Quốc trở
về không nhiều nên không làm cho chỉ số đa dạng sinh học của người Việt Nam giảm
đi.
7. Ai là người trồng lúa đầu tiên
Câu hỏi về người
trồng lúa đầu tiên ở châu Á được quan tâm nhiều của học giới quốc tế. Nhiều nhà
di truyền dựa vào hai gen đặc biệt của cây lúa trồng Oryza japonica để xác định
thời gian và địa điển đầu tiên thuần hóa lúa. Tuy nhiên không thành công vì di
truyền cho kết quả không chính xác. Trong khi đó kết quả khảo cổ tìm ra cây lúa
trồng đầu tiên liên tục được thay đổi khiến cho kết luận đưa ra liên tục bị phủ
định. Chỉ tới năm 2012, các nhà khoa học phát hiệncây lúa trồng sớm nhất 12.400
năm trước tại Tiên Nhân Động tỉnh Giang Tây, xác nhận người Lạc Việt là chủ
nhân đầu tiên của cây lúa trồng. Dựa trên hàng loạt di chỉ trồng lúa ở Nam
Dương Tử và lưu vực Hoàng Hà, tôi nhận định, người Lạc Việt thuần hóa cây lúa ở
Tiên Nhân Động rồi đưa tới Giả Hồ Hà Nam 9000 trước và hạ du Dương Tử làm nên
nghề trồng lúa ở đây. Những người Việt tỵ nạn từ lưu vực Hoàng Hà trở về nửa
sau thiên niên kỷ III TCN, là con cháu những người nông dân xưa mang cây lúa
lên phương Bắc. Nay trở về cùng đồng bào của mình xúc tiến việc trồng lúa tại
vùng Ngũ Lĩnh. Họ hoàn toàn không phải là người đầu tiên mang nghề trồng lúa xuống
phương Nam như học giả phương Tây và Trung quốcnhận định.
8. Về lịch sử và văn hóa của tộc Việt
Lịch sử và văn
hóa là kết quả hoạt động xã hội của cộng đồng người. Trước đây do chưa biết người
Việt là ai, người Hán là ai nên nhận định về lịch sử của người Hán, người Việt
đều không chính xác. Nay khi khoa học khám phá người Việt là cội nguồn dân cư
phương Đông, ta có đủ cơ sở kết luận rằng:
i. Tiếng Việt là
chủ thể làm nên ngôn ngữ Trung Hoa.
ii.Chữ Việt là chủ
thể làm nên chữ viết Trung Hoa.
iii. Văn hóa Việt
là cội nguồn của văn minh phương Đông.
*
Với cuốn TIỀN SỬ
NGƯỜI VIỆT, tôi đã hoàn thành tâm nguyện tìm lại cội nguồn văn hóa dân tộc. Là
nhà sử học nghiệp dư, đồng thời cũnglà nhà nghiên cứu nghiệp dư,tôi trực tiếp
đưa kết quả nghiên cứu của mình lên sách sử. Trong cuộc đua khám phá lịch sử
phương Đông, tôi đã về đích trước. Trong khi tôi giải quyết xong những vẫn đề
cơ bản của lịch sử văn hóa phương Đông thì học giả thế giới lạcvào mê lộ ngay từ
khi rời châu Phi.Một câu hỏi được đặt ra: Ai là người công nhận Hà Văn Thùy?
Các nhà (sao) chép sử quốc doanh ư? Không bao giờ! Bởi lẽ trong đầu họ, “thời
tiền sử của người Việt Nam kéo dài tới 800.000 năm. 140.000 năm trước, người
“đi thẳng” chuyển hóa thành người Homo sapiens, tổ tiên dân tộc Việt Nam!” (1)
Học giả thế giới ư? Càng không! Nhiều năm nữa, sau khi ra khỏi mê lộ, họ sẽ hạ
cố phán: “Hà Văn Thùy có nhữngphát hiện hợp lý nhưng tác giả mang tinh thần dân
tộc cực đoan nên thiếu khách quan!”Người ủng hộ tôi là dân tộc Việt. Chính là
qua đối thoại với những người Việt này mà Giáo sư người Mỹ Liam Kelley từ chỗ
phản bác tôi quyết liệt, đã ngộ ra là “có một “Lịch sử bên lề” viết phiên bản mới
của tiền sử Việt Nam,đang trở thành trung tâm.” (2)
TIỀN SỬ NGƯỜI VIỆT
là cuốn sách tích chứa năng lượng vĩ đại, giải thoát người Việt khỏi cái bóng
Trung Hoa, giúp dân tộc Việt phục hưng để đảm trách sứ mệnh dẫn dắt nhân loại
trong kỷ nguyên mới.
Tài liệu tham khảo.
1.
Trần Quốc Vượng. Lịch sử Việt Nam. NXB Giáo dục. H, 2012
2.
Liam C. Kelley.The centrality of“fringe history”: Diaspora,
the Internet and a new version of Vietnamese prehistory.
International Journal of Asia Pacific Studies 30 Jan
2020