08 juillet 2016

Thấy gì ở «triều đại» họ Kim và ở đại hội lần thứ VII của đảng Lao Động bắc Triều Tiên

Vương Thuyên

 


 

Trong năm nước cộng sản còn tồn tại trên thế giới (Trung quốc, Việt Nam, Lào, bắc Triều Tiên, Cu Ba), bắc Triều Tiên là nước thuộc loại hạng «đặc biệt» trên nhiều lãnh vực.

Là một đắt nước vừa khép kín vừa độc tài đảng trị́, bắcTriều Tiên lại áp dụng chính sách cha truyền con nối như thời phong kiến xa xưa. Thật khó thấy một chế độ nào trên thế giới, ở vào thế kỷ 21, lại bắt dân chúng làm con tin và buộc họ phải tôn sùng lãnh tụ như thánh sống.
 
 


Dù dân số chỉ có 23-24 triệu nhưng bắc Triều Tiên có hơn ngoài một triệu quân chưa kể cảnh sát vũ trang và dân quân. So với tỷ lệ dân số, Bắc Triều Tiên có một quân đội đông nhất trên thế giới. Một phần lớn tổng sản lượng quốc nội (GDP) được chi dùng cho quân đội và phát triển vũ khí hạt nhân trong khi dân chúng bị đói kém triền miên một phần vì thiên tai bão lụt và phần lớn do chính sách phá sản của kinh tế quốc doanh. Nếu lãnh tụ «số một» mới ngoài ba mươi, các lãnh đạo khác ở tuổi «thất thặp cổ lai hy» thậm chí còn có nhiều người trên 85 tuổi còn tiếp tục ngồi ở Bộ Chính trị!

Trong khi các nước «anh em xhcn», cứ năm năm, tổ chức thường xuyên đại hội đảng, bắc Triều Tiên vừa tổ chức đại hội lần thứ VII từ ngày 6 đến 9-5-2016 với khoảng cách 36 năm!

Nếu đại hội lần thứ VI trong tháng10-1980 là chính thức chỉ định Kim Chính Nhật (Kim Jong-il, 1941-2011) lên «kế thừa»  Kim Nhật Thành (Kim Il-sung) thì đại hội lần này là để chính thức hoá cương vị lãnh đạo tối cao của Kim Chính Ân (Kim Jong-un) thuộc thế hệ ba.

Trong bài này, chúng tôi giới thiệu ba lãnh tụ cùa «triều đại» họ Kim và kết quả của Đại hội VII vừa qua. 

I-Đôi dòng lịch sử

Triều Tiên bị ách đô hộ của Nhật Bản trong thời gian ngắn từ 1910 đến 1945. Người dân Triều Tiên bị Nhật Bản đàn áp khắc nghiệt và họ không ngừng đứng lên chống đối. Ngày 1-3-1919, người dân Triều Tiên đứng lên hưởng ứng lời kêu gọi của tổng thống Mỹ Wilson theo đó các dân tộc đều có quyền tự quyết. Một chính phủ lưu vong được thành lập ở Thượng Hải dưới sự lãnh đạo của ông Lý Thừa Vãn (Syng Man Rhee/Ri, 李承).

Sau khi Nhật đầu hàng tháng 8-1945, người dân Triều Tiên tưởng đã lấy lại chủ quyền nhưng họ hoàn toàn thất vọng. Hai cường quốc Mỹ và Liên Xô đã thỏa thuận trên lưng của họ ở hội nghị Yalta để phân chia vùng ảnh hưởng. Quân đội hồng quân Liên Xô có nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến thứ 38 trở lên, quân đội Mỹ  từ vĩ tuyến 38 trở xuống. Sự kiện này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự chia cắt của hai miền sau này.

Ở hội nghị Moskva vào tháng 12-1945, ba ngoại trưởng Liên Xô, Mỹ và Anh quyết định đặt Triều Tiên dưới sự giám hộ của họ trong 5 năm. Người dân Triều Tiên và các đảng phái, ngoại trừ đảng cộng sản của Kim Nhật Thành (Kim Il-sung,金日成),đều cương quyết chống lại sự áp đặt này. Trước phản ứng bất ngờ này, Hoa Kỳ đưa vấn đề thống nhất Triều Tiên ra trước Hội Đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 9-1947. Liên Hiệp Quốc cho thông qua một nghị quyết theo đó một cuộc tổng tuyển cử sẽ được tổ chức trên toàn xứ để lập ra một Quốc Hội lập hiến và một chính phủ duy nhất cho hai miền. Nghị quyết của Liên Hiệp Quốc, trên thực tế, đã trở thành vô bổ vì ở phía Bắc, hồng quân Liên Xô với 125.000 quân đã mang theo một đoàn quân «giải phóng» của Kim Nhật Thành do họ huấn luyện và nuôi dưỡng ở Mãn Châu và Tây Bá Lợi Á. Trong thời gian hai năm từ 1945 đến 1947, Kim Nhật Thành đã biến miền Bắc thành một quốc gia dưới sự lãnh đạo của đảng Lao Động (Cộng sản) mà ông ta là Tổng bí thư. Vì lẽ đó, bắc Triều Tiên từ chối cuộc tuyển cử trên phần đất do họ kiểm soát. Cuộc tuyển cử chỉ được tổ chức ở phía Nam vào tháng 5-1948 với kết quả hầu như đã biết trước.

Cộng Hoà Hàn Quốc chính thức ra đời ngày ngày 14-8-1948 dưới sự lãnh đạo của Lý Thừa Vãn ở phía Nam. Ngày 9-9-1948, phía Bắc tuyên bố thành lập «Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên» do ông Kim Đấu Phụng (Kim Tu-bong, 金斗奉) đứng đầu, thực tế là Kim Nhật Thành. Nước Triều Tiên trên thực tế bị chia đôi trước khi đi đến chiến tranh giữa hai miền trong ba năm (từ 25- 6-1950 đến 27-7-1953).

Xứ Triều Tiên chính thưc bị chia đôi với Bàn Môn Điếm (Panmunjom) ở vĩ tuyến 38 làm giới tuyến.

II-«Triều đại» họ Kim qua ba thế hệ

1-«Triều đại» Kim Nhật Thành từ 1948 đến 1994

Sau khi hai miền chính thức bị chia cắt, Kim Nhật Thành (1912-1994) trở thành thủ tướng từ 1948 đến 1972 rồi sau đó trở thành chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư đảng cho đến ngày chết trong tháng 7-1994.

Sau khi có quyền lực trong tay, họ Kim lần lượt cho thủ tiêu các thủ lãnh chính thống kháng Nhật. Đặc biệt là ông Kim Đấu Phụng có lúc cư ngụ ở Diên An với Mao Trạch Đông và trở thành chủ tịch nước trong thời gian ngắn.Kế tiếp sau đó, Kim Nhật Thành lần lượt loại trừ các nhóm thân Moskva như ông Phác Xương Ngọc (Pak Chang-ok, 朴昌玉). Tàn bạo hơn nữa là thủ lãnh cộng sản trong nước ông Phác Hiến Vĩnh (Pak Hon-yong, ) bị họ Kim cho xử bắn. Từ 1948 đến 1956, có 39 trên 69 uỷ viên trung ương đảng bị «mất tích». Ở trong nước, họ Kim dựng ra chủ nghĩa tôn sùng cá nhân bắt dân chúng gọi «lãnh tụ vĩ  đại», «cha già dân tộc». Có đến 500 tượng đài của ông ta được xây cất khắp nơi trong xứ đặc biệt là tháp «chủ thể» cao 150 thước đề cao thần tượng Kim Nhật Thành. Dù chỉ là thiếu tá trong thời kỳ du kích, Kim Nhật Thành tự phong mình là «đại nguyên soái» sau khi có quyền lục. Khi chết còn được cho xây dựng lăng để bắt buộc dân chúng đến ngưỡng mộ.

    Về đời tư, Kim Nhật Thành có hai đời vợ. Vợ đầu là Kim Chính Thục (Kim Jong-suk, 金正淑, 1917-1949) có môt con trai là Kim Chính Nhật (Kim Jong-il,金正日, 1941) và một gái là Kim Kính Cơ (Kim Kyong-hee, 金敬姬,1946). Đó là «triều đại» thế hệ I kéo dài 46 năm.

2-«Triều đại» Kim Chính Nhật (1941-2011) từ 7-1994 đến 12-2011

Sau khi Kim Nhật Thành qua đời tháng 7-1994, Kim Chính Nhật lên thay thế cha.

    Cuộc đời của Kim Chính Nhật là cả một huyền thoại thần bí không những về năm sinh và nơi sinh. Theo văn kiện chính thức, Kim Chính Nhật sinh ngày16 tháng 2 năm 1942 ở núi Bạch Đầu (Paekdu), nơi cấm địa của phong trào kháng chiến chống Nhật của nhân dân Triều Tiên. Nhưng theo các chuyên gia về lịch sử Triều Tiên,  Kim Chính Nhật thực sự sinh ngày 16-2-1941 ở làng Vyatskoye gần Khabarovsk, nơi thuộc Nga Sô hiện nay vì gia đình của Kim Nhật Thành đã sang lánh nạn ở đây. Kim Chính Nhật còn được cha đặt tên Nga là Yura. Đây cũng là một trong những huyền thoại của gia đình họ Kim bịa ra để lường gạt nhân dân của họ.

Cũng theo văn kiện chính thức, từ tháng 9-1950 đến 1960, Kim Chính Nhật học ở học viện «Cách mạng Hồng Kỳ» Vạn Cảnh Đài và trung học Nam Sơn ở Bình Nhưỡng. Dù không phải là một học sinh xuất sắc, nhưng huyền thoại lại đưa ra là họ Kim đã «giảng dạy» chiến tranh du kích lúc mới lên….10 tuổi ! .Từ 1960 đến 1964, họ Kim vào học trường chính trị kinh tế của Đại học Tổng hợp Kim Nhật Thành. Sau khi tốt nghiệp, con đường hoạn lộ của họ Kim cứ theo đó mà thăng tiến vùng vụt như máy bay trực thăng. Cho đến 1974, họ Kim lần lượt được bổ nhiệm thứ trưởng, bộ trưởng, bí thư đảng và uỷ viên bộ chính trị. Tháng 10-1980, Kim Chính Nhật lúc đó mới 38 tuổi đã chính thức trở thành người «thừa kế» với cương vị bí thư đảng, uỷ viên thường vụ bộ chính trị. Tháng 4-1992, họ Kim được cha tấn phong "nguyên soái", tư lịnh tối cao quân đội nhân dân, đệ nhất phó chủ tịch Quân uỷ TW trước những nguyên soái lão thành như Ngô Chấn Vũ (O Jin-u, 吴振宇) và Thôi Quang (Choe Kwang,崔光). Họ Kim nhiều lần được gắn huy chương «anh hùng dân tộc»….

Về «thành tích» của họ Kim thì không thể kể hết. Hai «thành tích» được thế giới biết đến là việc đặt chất nổ với ý định ám sát tổng thống Hàn quốc Toàn Đấu Hoán (Chun Doo-hwan, 全头焕) ở thủ đô Rangoon trong lúc ông này đang viếng thăm chính thức Miến Điện trong năm 1983. Họ Toàn may không chết nhưng 17 người trong đó có bốn bộ trưởng trong đoàn bị tử thương. Sự kiện thứ hai là chiếc máy bay của hàng không Hàn Quốc (KAL) bị nổ trên không trung làm 115 người tử thương trong năm 1987.

Sau khi cha chết trong năm 1994, họ Kim trở thành Tổng bí thư đảng và Chủ tịch Quân uỷ TW kiêm tổng tư lệnh tối cao quân đội nhân dân, chức chủ tịch nước được ông Kim Vĩnh Nam (Kim Yong-nam), chủ tịch Quốc Hội đảm nhiệm. Cũng như cha, Kim Chính Nhật không ngần ngại loại trừ đối thủ và những thành phần chống đối thậm chí còn qui tội cho cấp dưới để làm vật tế thần.

Về tính tình của họ Kim, cũng cả là một đề tài huyền bí. Các giới am tường mô tả  họ Kim nghiện rượu ngon nhập cảng đắc tiền, ham thích mỹ nhân, thích hát kara-ok, thích làm đạo diễn chiếu bóng, thích cưỡi ngựa, thích chơi bài taro và thích đua xe thể thao vv... Họ Kim có đủ xe loại sang nhập cảng đắc tiền như Mercedes, Ford, Ferrari, Lambroghini, Lincoln vv… Về diện mạo, ông ta có bộ tóc bù xù, đôi mắt diều hâu với cặp kiến đen dầy, con người ngạo nghễ, nóng tính và đe doạ. Người ta thường thấy ông chỉ mặc một bộ quần áo kaki «truyền thống» độc nhất không mang phù hiệu. Cũng theo giới này, họ Kim bị bịnh tiểu đường và bịnh xơ gan (cirrhose) vì nghiện rượu nặng. Do có nhiều chứng bệnh, họ Kim bị đột quỵ trong tháng 8 năm 2008 và không xuất hiện trong nhiều tháng. Dù vậy, cơ quan tuyên truyền của chế độ vẫn đưa hình cho thấy họ Kim đi «tham quan» nơi này hay nơi kia nhưng không đề ngày tháng ! Trong nước, họ Kim bắt dân chúng gọi là «lãnh tụ kính ái». Hệ thống tuyên truyền còn gọi ông ta một cách lố bịch là một «nhà lãnh đạo tài ba không ai bì kịp trên thế giới». Ngày sinh nhật của hai cha con họ Kim là hai ngày lễ quan trọng của quốc gia. Ngay cả việc xuất ngoại sang Liên Xô trước đây và Trung quốc của hai cha con cũng là một đề tài bình luận trên thế giới. Do chứng bệnh tâm lý sợ máy bay rớt, hai cha con chỉ dùng xe hoả để du hành mà xe hoả phải được trang bị cực kỳ lộng lẫy với 17 toa xe bọc thép bắn không thủng.

Về đời tình ái của Kim Chính Nhật cũng là một đề tài huyền bí. Theo giới thông thạo nước ngoài, họ Kim có ba đời vợ chính thức, hai vợ bé và một «vợ hầu» không kể tình nhân qua đường. Hai người vợ bán chính thức được dư luận quốc tế chú ý là bà Thành Huệ Lâm (Sung Hye-rim,成惠琳,1937-2002), một diễn viên màn ảnh bị cưỡng bức phải từ hôn có một con trai là Kim Chính Nam (Kim Jong-nam, 金正南) sinh năm 1971. Người thứ hai là bà Cao Anh Cơ (Ko Young-hee,高英,1953-2004), một vũ nữ bắc Triều Tiên sinh ở Nhật có thêm ba con là Kim Chính Triết (Kim Jong-chul, 金正哲) sinh năm 1981, Kim Chính Ân (Kim Jong-un, 金正恩) sinh năm 1984 và một người con gái tên Kim Nhữ Trinh (Kim Yo-chong, 金汝) sinh năm 1989.

Về việc đưa con lên kế tục, họ Kim, lúc ban ban đầu, dự tính đưa Kim Chính Nam lên «kế vị» nhưng Chính Nam là cậu công tử ham chơi mà người ta thường thấy ở sòng bạc Ma Cao hơn lo «việc nước». Năm 2001, Chính Nam còn chơi ngông làm hộ chiếu giả người Saint-Dominique sang Nhật xem Disneyland bị trục xuất về nước. Có lúc người con trai thứ hai Kim Chính Triết du học ở Thuỵ Sĩ được nhắc tới nhưng vì là cậu công tử quá «yểu điệu» thiếu cương quyết không hợp với vai trò lãnh đạo nên cuối cùng người con trai thứ ba Kim Chính Ân được «tuyển chọn».

«Triều đại» thế hệ II của Kim Chính Nhật kéo dài 17 năm với nhiều thảm khóc đau thương.

3-«Triều đại» thế hệ III của Kim Chính Ân từ tháng 12-2011

Như trên đã nói, Kim Chính Ân là con thứ hai của Kim Chính Nhật và bà Cao Anh Cơ. Đặc tính của Chính Ân là hình dáng giống ông nội nhưng tính tình lại giống cha. Chính Ân được cha gửi sang du học, vào cuối thập niên 90, ở hai trường trung học quốc tế ở Bern thủ đô của Thuy Sĩ với hai tên giả là «Pak Chol» và «Pak Un»! Dù trường học cách nhà vài trăm thước, Chính Ân đến trường bằng xe riêng của sứ quán có nhân viên tình báo theo hộ tống. Thỉnh thoảng, người ta còn thấy vị đại sứ bắc Triều Tiên đến đón bằng xe Limousine. Chính Ân được mô tả là người thích đi trượt tuyết vào những ngày nghỉ lễ, thích bơi lội, thích chơi bóng rỗ và thích đua xe thể thao như cha. Hai thần tượng của Chính Ân là diễn viên chiếu bóng đánh võ người Bỉ Jean-Claude Vandamme và người chơi bóng rỗ tài ba Michael Jordan.

Sau khi về nước, Chính Ân vào học ở Học viện quân sự Kim Nhật Thành và tốt nghiệp năm 2007.

Khi Kim Chính Nhật bị đột quỵ trong tháng 8-2008 và biết mình sắp đi chầu cha và các ông Mác-Lê, ông cho tổ chức, ngày 28-9-2010, một Hội nghị đại biểu bầu cử cơ quan lãnh đạo Đảng. Ở Hội nghị đặc biệt này, Kim Chính Ân được cha phong hàm «đại tướng» bốn sao cùng với người cô Kim Kính Cơ. Đặc biệt Kim Chính Ân mặc dù chưa vào bộ Chính trị được bổ nhiệm phó chủ tịch thứ nhất ban Quân uỷ Tw trước cả các phó nguyên soái lão thành và các thành viên bộ Chính trị. Điều này cho thấy Kim Chính Nhật đã đưa con mình ở cương vị kế thừa. Đúng như dự đoán, Kim Chính Ân chính thức lên thay thế cha ở chức vụ phó chủ tịch thứ nhất ban Quân uỷ TW vì chức vụ này là người đứng đầu lãnh đạo đất nước giống như trường hợp của Đặng Tiểu Bình ở Trung Quốc. Đế cho «danh chính ngôn thuận», Kim Chính Ân tự phong «nguyên soái» trong tháng 7-2012 và lần lượt thanh trừng lãnh đạo Đảng và tướng lãnh không thần phục.

Cũng như ông nội và cha, Chính Ân «thừa hưởng» dòng máu độc tài và độc ác thậm chí còn vượt xa. Từ khi lên cầm quyền, báo chí nước ngoài cho biết Chính Ân đã loại trừ gần một trăm lãnh đạo cao cấp trong Đảng và quân đội. Từ 2012 đến nay, Chính Ân đã thay bốn bộ trưởng Quốc phòng chưa kể một số tướng lãnh cao cấp như phó nguyên soái Tổng Tham mưu trưởng quân đội và uỷ viên thường vụ bộ Chính trị Lý Anh Hạo (Ri Yong-ho, 李英浩) bị mất chức trong tháng 7-1012. Những người bị mất chức có thể nói còn nhiều «may mắn» vì không bị xử tử bằng đạn pháo phòng không (anti air craff gun) như trường hợp của ông Trương Thành Trạch (Jang Sung-thaek, 张成泽) và cựu bộ trưởng Quốc phòng Huyền Anh Triết (Hyon Yong-chol, 玄英哲). Xin nhắc lại, Trương Thành Trạch là chồng của Kim Kính Cơ, em rể của Kim Chính Nhật và dượng của Kim Chính Ân, nghĩa là người «thân thiết» trong gia đình. Khi Chính Ân kế thừa cha mới 27-28  tuổi, báo chí nước ngoài vội cho rằng họ Trương và vợ sẽ làm «nhiếp chính» giúp đỡ cháu củng cố quyền lực trong bước đầu. Vào thời điểm đó, họ Trương là uỷ viên dự khuyết bộ Chính trị, bộ trưởng Hành chính TW và một trong phó chủ tịch Quân uỷ TW và vợ Kim Kính Cơ là uỷ viên bộ Chính trị mang hàm «đại tướng». Quyền lực của hai người này rất lớn. Họ Trương được ví như nhân vật «số 2» và còn được cháu gửi làm đặc phái viên sang Bắc Kinh hội kiến với Tập Cận Bình để cải thiện quan hệ giữa hai nước. Thế nhưng, chỉ hai nâm sau, ông Trương Thành Trạch bị xử tử ngày 12-12-2013 về nhiề̀u tội «phản bội tổ quốc, phản cách mạng, phản đảng, tham nhũng, cờ bạc rượu chè, trai gái, xì ke ma tuý...». Người ta nhìn thấy trên mạng họ Trương bị còng tay dẫn đi một cách thê thảm sau cuộc họp bộ Chính trị. Hình ảnh được đưa lên mạng có mục đích cảnh báo những kẻ có ý đồ chống Chính Ân. Còn bà Kim Kính Cơ thì không ai biết số phận ra sao, có nguồn tin nói bà bị bệnh tâm thần. Điều chắc chắn là bà bị mất chức uỷ viên bộ Chính trị ở đại hội VII vừa qua. Trường hợp của cựu bộ trưởng Quốc phòng Huyền Anh Triết cũng khá hi hữu. Ông bị gán tội «bất trung và vô lễ» vì không tham dự lễ kỷ niệm lần thứ 70 ngày Nhật đầu hàng và ngủ gục trong một buổi họp với Chính Nhật. Ông bị xử tử ngày 30-4-2015. Lại còn thêm nhiều trường hợp không bình thường khác tuỳ theo tính khí của Chính Ân. Chẳng hạn, một thứ trưởng Quốc phòng bị xử tử trong tháng 10-2012 vì phạm tội uống rượu vui chơi trong thời gian để tang của Kim Chính Nhật hoặc một phó thủ tướng bị tử hình trong tháng 5-2015 vì tỏ ra không hài lòng về chính sách lâm nghiệp của lãnh tụ. Ở triều đại Chính Ân, tội phạm thượng (Lèse Majesté ) cũng bị tử hình dù người đó là một cựu tình nhân. Số là cô Huyền Tùng Nguyệt (Hyon Song-wol, 玄松月), một thành viên của đoàn Unhasa, một đoàn được gọi là đoàn «phụ nữ giải trí» giúp vui lãnh tụ có lúc được Chính Ân sủng ái. Cô này một lần không giữ được bí mật nói rằng vợ chính thức của Chính Ân tên Lý Tuyết Châu (Ri Sol-ju, 李雪珠) cũng cùng đoàn với cô. Thế là cô cùng 11 thành viên khác bị xử bắn ngày 20-8-2013 vì đã thố lộ quá khứ không đẹp vợ của lãnh tụ.

Cũng như ông nội và cha, Chính Ân cũng bị bệnh tôn sùng cá nhân lố bịch đến cao độ. Chính Ân bắt bộ máy truyền thông đảng và nhà nước gọi y là «đại thái dương của thế kỷ 21». Trong các chuyến tham quan của Chính Ân, người ta thấy một số người đi theo tháp tùng đứng ghi chép vào những quyển sổ giống nhau những «lời vàng ý ngọc» của lãnh tụ. Họ không phải là bất cứ ai mà là những bộ trưởng và tướng lãnh cao cấp. Cảnh này chưa có tiền lệ. Không ai có thể đoán được «trìều đại» Chính Ân sẽ kéo dài được bao lâu chỉ mong là ngắn ngủi.

III-Đại hội lần thứ VII của Đảng Lao Động bắc Triều Tiên sau 36 năm

Như đã nói trên, Đại hội lần thư VI được triệu tập vào tháng 10-1980 cách đây 36 năm dưới thời Kim Nhật Thành. Đại hội này được tổ chức khá rầm rộ vì có tới 118 phái đoàn nước ngoài trong đó có hơn cả chục nước cộng sản. Trung quốc cử phó chủ tịch nước Lý Tiên Niệm làm đại diện và Phi châu cũng gửi nhiều nguyên thủ quốc gia. Mục tiêu của đại hội VI là giới thiệu cho thế giới biết Kim Chính Nhật sẽ là người «thừa kế» của Kim Nhật Thành. Dươi thời Kim Chính Nhật thống trị trong 17 năm (1994-2011), không có tồ chức đại hội Đảng. Do đó, người ta thấy một số không nhỏ uỷ viên ban Chấp hành đã ngoài 80!.

Đại hội lần thứ VII trong tháng năm vừa qua được tổ chức trong tình trạng bắc Triều Tiên bị cộng đồng thế giới lên án vì không tuân thủ nguyên tắc vũ khí hạt nhân cũng như tình trạng xấu xa về nhân quyền. Bắc Triều Tiên đã cho thử bốn lần vũ khí hạt nhân từ năm 2006, hai lần dưới thời Chính Ân (tháng 2-2013 và tháng 1-2016) chưa kể những thứ nghiệm phóng tên vệ tinh đan đạo tầm trung. Ngay cả Trung quốc cũng  không được mời vì đã bỏ thăm đồng ý thanh trừng bắc Triều Tiên ở Liên Hiệp Quốc. Đại diện của các nước tây phương cũng tẩy chay tham dự buổi lễ long trọng «mừng đại hội». Chỉ có khoảng một trăm ký giả nước ngoài được mời tham dự nhưng không được vào phòng họp.

Đại hội lần này là để chính thức hoá cương vị lãnh đạo tối cao của Chính Ân sau khi củng cố quyền lực bằng những vụ thanh trừng đẫm máu như đã thấy ở trên. Hơn cả ông nội và cha, Chính Ân trở thành chủ tịch Đảng, chủ tịch Quân uỷ TW, chủ tịch Uỷ ban An ninh Quốc phòng quốc gia, Tổng Tư lệnh quân đội nhân dân...Chức chủ tịch nước, một chức vụ «trang trí» vẫn do ông Kim Vĩnh Nam (88 tuổi) đảm trách.

Phát biểu trước 3400 đại biểu tham dự, Chính Ân tuyên bố bắc Triều Tiên đã đạt được nhiều «thành tựu chưa từng có về hạt nhân» nhưng tránh nói thành tựu về kinh tế. Chính Ân đưa ra chính sách «biyungjing» nghĩa là phát triển song hành vũ khí hạt nhân và kinh tế khác với Kim Chính Nhật chủ trương chính sách «songun» tất cả cho quân đội. Các chuyên gia nước ngoài không ai tin Chính Ân có thể thành công ở chính sách song hành này.

Ban Chấp hành mới gồm có 129 uỷ viên chính thức và 106 uỷ viên dự khuyết. Bộ Chính trị có 19 uỷ viên chính thức và 9 uỷ viên dự khuyết. So với bộ Chính trị cũ với 32 người (17 chính thức và 15 dự khuyết) chỉ còn bốn người ở lại, kỳ dư bị mất chức hoặc bị buộc về hưu.

Trong năm người ở thường vụ bộ Chính trị, người ta chú ý đến hai phó nguyên soái Hoàng Bỉnh Thuỵ và Thôi Long Hải. Phó nguyên soái Hoàng Bỉnh Thuỵ vào thẳng thường vụ bộ Chính trị mà không qua uỷ viên bộ Chính trị. Đặc biệt phó nguyên soái Thôi được Chính Ân gửi đi Bắc Kinh thay thế trong dịp lễ  kỷ niệm lần thứ 70 ngày Nhật Bản đầu hàng trong tháng 9-2015 (thực tế là Chính Ân tẩy chay). Chính Ân cũng không quên đưa em gái Kim Nhữ Trinh, sinh năm 1989, vào ban Chấp hành với chức vụ phó giám đốc sở tuyên truyền cổ động. Truyền thông nước ngoài gần đây đưa tin Chính Ân đứng ra tìm hôn phu cho em gái mình trong giới quân đội...

IV-Thay lời kết

Bắc Triều Tiên là một chế độ thô bạo bị cộng đồng thế giới lên án nhưng trên bình diện địa dư chính trị, các nước trong vùng và Hoa Kỳ, một cách nghịch lý, không ai muốn chế độ Bình Nhưỡng sụp đổ!

Trước hết, Hàn Quốc qua kinh nghiệm thống nhất của nước Đức, không muốn hy sinh cuộc sống sung túc của nhân dân mình để thống nhất với miền Bắc bằng mọi giá. Theo sự phóng ước của các chuyên gia, Hàn Quốc phải bỏ ra nhiều ngàn tỷ USD trong 10 năm để năng suất của miền Bắc có được phân nửa năng suất của miền Nam hiện nay. Cái giá phải trả còn cao hơn ở Đức.

Về phía Bắc Kinh, họ không muốn bắc Triêu Tiên sụp đổ dù quan hệ giữa hai nước không còn khăng khít như dưới thời Kim Nhật Thành thậm chí còn đối kháng về chương trình vũ khí hạt nhân của bắc Triều Tiên. Bắc Kinh chẳng bao giờ muốn thấy, cũng như trước đây ở Việt Nam, một Triều Tiên thống nhất có vũ khí hạt nhân nằm trong quỹ đạo của Hoa Kỳ. Họ chỉ muốn một bắc Triều Tiên làm trái độn lâu dài để tránh được sự đổ xô của nhiều triệu người nước này trốn sang lánh nạn ở hai tỉnh Cát Lâm và Liêu Ninh nếu chế độ bị sụp đổ.

Về phía Nhật Bản, họ cũng không quên những hình ảnh xấu xa đã để lại trên đất nước Triều Tiên trong thời gian thuộc địa ngắn (1910-1945). Một Triều Tiên thống nhất sẽ làm kích thích chủ nghĩa dân tộc mà họ sẽ là nạn nhân chính. Còn Hoa Kỳ? Hoa Kỳ cũng không muốn hai miền Triều Tiên thống nhất vì họ lo ngại không còn lý do để duy trì sự có mặt của 28000 quân ở Hàn Quốc và 47000 quân ở Nhật Bản mà dân chúng của hai xứ này thường xuống đường đòi phải rút quân. Họ cũng không còn có lý do để thiết lập hệ thống tên lửa TMD (Theater missile defence). Như vậy, ảnh hưởng của họ ở Á Châu sẽ giảm nặng trong khi họ muốn xoay trục trở lại Á Châu trước sự trỗi dậy với mộng bá quyền của Trung Quốc.

Còn Nga Sô, vì lý do khu vực ảnh hưởng cũ, họ cũng muốn đóng vai trò nào đó trong bán đảo Triều Tiên.

Do đó, mọi người đều "hài lòng" tình trạng nguyên trạng (statu quo) trên bán đảo Triều Tiên, chỉ trừ người dân bắc Triều Tiên là chịu thiệt thoài nhất với chế độ bạo ngược của gia đình họ Kim.

 

Phụ lục

Sau đây là kêt quả của Đại hội VII.

Chủ tịch Đãng: Kim Chính Ân (Kim Jong-un, 金正恩, 1984)

Phó Chủ tịch (9 người): Thôi Long Hải (Choe Ryong-hae, 崔龙海,1950), Kim Cơ Nam (Kim Ki-nam, 金基南, 1928), Thôi Thái Phúc (Choe Thae-bok, 崔泰福, 1930), Lý Thọ Dũng (Ri Su-yong, 李寿勇, 1940), Kim Bình Hải (Kim Pyong-hae, 金平海, 1941), Ngô Thọ Dũng (O Su-yong, 吴寿勇, 1944), Quách Phạm Cơ (Kwak Pom-gi, 郭范基, 1939),  Kim Vĩnh Triết (Kim Yong-chol, 金永哲, 1945), Lý Vạn Kiến (Ri Man-gon, 李万建).

Ban Quân uỷ TW (13 người)

Uỷ viên trưởng : Kim Chính Ân

Uỷ viên: Kim Vĩnh Nam (Kim Yong-nam, 金永南, 1928), Hoàng Bỉnh Thuỵ (Hwang Pyong-so, 黄炳瑞, 1949), Phác Phụng Trụ (Pak Pong-ju, 朴奉柱, 1939), Phác Vĩnh Thực (Pak Yong-sik, 朴永植), Lý Minh Thù (Ri Myong-su, 李明洙, 1937), Kim Vĩnh Triết (Kim Yong-chol, 金永哲1945), Lý Vạn Kiến (李万建), Kim Nguyên Hồng (Kim Won-hong, 金元鸿, 1945), Thôi Phú Nhật (Choe Pu -il, 崔富日, 1944). Kim Kinh Ngọc (Kim Kyong-ok, 金京玉), Lý Vĩnh Cát (Ri Yong-gil, 李永吉, 1952), Từ Hồng Xán (So Hong-chang, 徐洪灿).

Thường vụ Bộ Chính trị và chức vụ (5 người)

1-Kim Chính Ân: Nguyên soái, Chủ tịch (CT) Đảng, CT Quân uỷ TW, CT Ủy ban An Ninh Quốc phòng Quốc gia (UBANQPQG), Tồng Tư lệnh quân đội nhân dân.

2-Kim Vĩnh Nam: CT đoàn Chủ tịch Hội đồng Tối cao nhân dân (Quốc hội), đảm nhiệm CT nước.

3-Hoàng Bỉnh Thuỵ:  phó nguyên soái, Chủ nhiệm (CN) Tổng cục Chính trị, ủy viên Quân uỷ TW, phó CT UBANQPQG.

4-Phác Phụng Trụ: uỷ viên Quân uỷ TW, thủ tướng.

5-Thôi Long Hải, phó nguyên soái, phó CT Ban Tổ chức, CN Uỷ ban Thể dục và Thể thao quốc gia.

Bộ Chính trị và Chức vụ (19 người)

Tiếp theo năm người trên,

6-Kim Cơ Nam: Phó CT Ban Tuyên Truyền và Lịch sử Đảng, phó CN Uỷ ban Hoà bình và Thống nhất.

7-Thôi Thái Phúc: Phó CT Ban Giáo dục và Khoa học, CT Hội đồng Tối cao nhân dân.

8-Lý Thọ Dũng: Phó CT Ban Đối ngoại TW, Trưởng Ban (TB) Đối ngoại, Bộ trưởng Ngoại giao (bị Lý Dũng Hạo thay chức bộ trưởng trong tháng 5-2016) .

9-Kim Bình Hải: Phó CT Ban Cán bộ TW, TB Cán bộ, CN Uỷ ban Kiểm chứng các đại biểu của Hội đồng Tối cao nhân dân.

10-Ngô Thọ Dũng: Phó CN Công nghiệp nhẹ.

11-Quách Phạm Cơ: Phó CN Ban Kế hoạch, TB Kế hoạch và Tài chính TW.

12-Kim Vĩnh Triết: Phó CN Công tác Mặt trận Thống nhất, TB Mặt trận Thống nhất.

13-Lý Vạn Kiến: Phó CN Xây dựng Cơ khí, TB Xây dựng Cơ khí, uỷ viên Quân uỷ TW.

14-Dương Hanh Nhiếp: Phó CT đoàn CT Hội đồng Tối cao nhân dân, phó CN Uỷ ban Hoà bình và Thống nhất.

15-Lư Đấu Triết: Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch quốc gia, phó Thủ tướng.

16-Phác Vĩnh Thực: Đại tướng, uỷ viên Quân uỷ TW, Bộ trưởng Lực lượng Quân đội Nhân dân.

17-Lý Minh Thù: Phó nguyên soái, uỷ viên Quân uỷ TW, Tổng Tham mưu trưởng quân đội.

18-Kim Nguyên Hồng: Đại tướng, uỷ viên Quân uỷ TW, Bộ trưởng An Ninh Quốc Phòng quốc gia.

19-Thôi Phú Nhật: Đại tướng, uỷ viên Quân uỷ TW, Bộ trưởng An Ninh Nhân dân, uỷ viên UBANQPQG, CN Uỷ ban Pháp luật Hội đồng Tối cao nhân dân.

Dự khuyết Bộ Chính trị và Chức vụ  (9 người)

1-Kim Tú Cát (Kim Su-gil, 金秀吉): Bí thư Thành uỷ Bình Nhưỡng.

2-Kim Năng Ngọ (Kim Nung-o, 金能午): Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Phyongan (Bắc).

3-Phác Thái Thành (Pak Thae-song, 朴泰成): Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Phyongan (Nam).

4-Lý Dũng Hạo (Ri Yong-ho, 李勇浩) : Bộ trưởng Ngoại giao.

5-Nhiệm Triết Hùng (Im Chol-ung, 任哲雄): Phó Thủ tướng.

6- Triệu Diên Tuấn (Jo Yon-jun, 赵延俊, 1937): Phó TB thứ nhất Ban Tổ chức.

7-Lý Bỉnh Triết (Ri Pyong-chol, 李炳哲): Phó TB thứ nhất Ban Tổ chức.

 8-Lỗ Quang Triết (No Kwang-chol, 魯光哲): Chuẩn tướng, Thứ trưởng thứ nhất Lực lượng Quân đội.

9-Lý Vĩnh Cát (Ri Yong-gil, 李永吉, 1952): Chuẩn tướng, phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội.

Nguồn: Mạng Baidu về Đại hội VII của đảng Lao Động bắc Triều Tiên.

朝鲜劳动党弟七届中央委员会组成人员名单

Chú thích: Chúng tôi dịch tên Triều Tiên ra tiếng Việt từ tiếng Hán.