Phạm Trần: "Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã hồ hởi nhét chữ vào miệng người dân khi viết Trong Cương lĩnh mới rằng:”Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.”
Đó là tuyên bố tự biên tự diễn của đảng CSVN. Người dân không được tham gia thảo luận hay hỏi ý kiến, nhưng buộc phải chấp nhận mọi quyết định của đảng độc tài lãnh đạo."
30 năm sau ngày nước Nga và Liên bang Xô Viết tan rã
(25/12/1991 – 25/12/2021), Thế giới Cộng sản vẫn không thể phục hồi như giấc mơ
hão huyền của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đảng Cộng sản Việt Nam.
Điều này đã thành sự thật khi Thế giới tự do, do Hoa Kỳ và các nước dân chủ
tiến bộ lãnh đạo vẫn không ngừng tỏa sáng như ngọn hải đăng dẫn đường thoát
hiểm cho các dân tộc còn bị độc tài và phản dân chủ kìm kẹp, trong đó có Việt
Nam.
Thực tế cả thế giới ngày nay chỉ còn lại 4 nước chọn Chủ nghĩa Cộng sản làm nền tảng xây dựng đất nước gồm Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Triều Tiên và Cuba. Nhưng từ khi Liên bang Xô viết tan hàng rã đám, không có thêm nước nào tuyên bố đứng vào hàng ngũ Xã hội Chủ nghĩa Cộng sản. Kết qủa này đã đem lại thất bại tiếp cho 4 quốc gia Cộng sản khi cường quốc Trung Cộng không muốn lãnh đạo khối Cộng sản như Nga thời Lênin và Stalin.
LÝ DO TAN RÃ
Còn nhớ vào năm 1992, một năm sau Thế giới Cộng sản tan hàng, ông Nguyễn Phú Trọng, khi ấy là Phó Tổng Biên tập, đã viết bài “Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã?” trên Tạp chí Cộng sản, số 4-1992, cơ quan lý luận hàng đầu của Trung ương đảng CSVN.
Theo ông Trọng, có 5 nguyên nhân làm tan rã Liên Xô:
Một
là, các lãnh đạo Nga thời đó đã “không xác lập
đúng đắn sự lãnh đạo của Đảng, buông lơi công tác xây dựng Đảng.”
Nhưng hậu qủa nghiêm trọng nhất, theo lời ông Trọng :” Với
khẩu hiệu "Trả lại chính quyền cho nhân dân", "Tất cả chính
quyền về tay Xô viết", chủ trương xoá Điều 6 trong Hiến pháp Liên Xô (là
điều khẳng định sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Liên Xô đối với toàn xã hội), họ
từng bước hạ thấp rồi phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng….xem nhẹ vấn đề lãnh
đạo Nhà nước thông qua các tổ chức đảng, làm cho hệ thống tổ chức của Đảng rệu
rã, kỷ luật lỏng lẻo, tổ chức đảng không kiểm tra, giám sát đảng viên, sức
chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng quá yếu.”
Hai là :” Phủ nhận chủ nghĩa
Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng.”
Ông Trọng phê bình :”Từ một số khiếm khuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin, người
ta đã cường điệu lên cho rằng toàn bộ chủ nghĩa Mác - Lênin "đã lỗi
thời", "sai lầm", lâm vào "khủng hoảng", "không
còn thích hợp" với thời đại ngày nay.”
Ông nói:”Trên thực tế là đã mắc mưu của chủ nghĩa
đế quốc, của các nhà tư tưởng chống cộng, hạ thấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác -
Lênin, thay đổi các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin bằng những luận
điểm của chủ nghĩa xã hội dân chủ.”
Ba là:”Coi nhẹ hoặc phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là
nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng.”
Nguyên tắc này cho phép đảng toàn trị, kiểm soát từ trên xuống dưới và thống
nhất lãnh đạo bằng kỷ luật đảng.
Ông Trọng nêu bằng chứng:”Trong Điều lệ Đảng (thông qua tại Đại hội XXVIII
của Đảng Cộng sản Liên Xô) không hề nói nguyên tắc tập trung dân chủ, mà chỉ
nhấn mạnh vấn đề dân chủ. Các bài phát biểu của những người lãnh đạo cao nhất
của Đảng chỉ nhấn mạnh vấn đề dân chủ hóa, đưa ra khẩu hiệu đa nguyên (lúc đầu
chỉ là đa nguyên ý kiến, rồi dần dần đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập),
chấp nhận cho các tổ chức đối lập ra đời.”
Tổng Bí thư Trọng kết luận:”Kết cục là sự thống nhất trong Đảng bị phá vỡ, kéo theo sự tan vỡ của khối thống nhất toàn liên bang, đất nước ngày càng lún sâu vào rối loạn, khủng hoảng.”
Bốn là :”Xa rời quần chúng, mất
uy tín nghiêm trọng trước nhân dân, không được nhân dân ủng hộ” đã khiến
đảng Cộng sản Liên Xô với 20 triệu đảng viên tan hàng.
Tuy nhiên, ông Trọng cũng
phải thừa nhận rằng:” Một thực tế đau xót là có một bộ phận cán bộ, đảng
viên trong điều kiện đảng cầm quyền (ở Nga khi đó) đã không giữ
được phẩm chất và đạo đức cách mạng.
Họ
thoái hóa, biến chất, phạm vào tham nhũng, quan liêu, hách dịch, xa dân, bị
quần chúng oán ghét.”
Năm là :” Từ bỏ chủ nghĩa quốc
tế của giai cấp công nhân, thổi lên ngọn lửa kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi.
Ông Nguyễn Phú Trọng nhận
định:”Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là đặc trưng, là thuộc tính
của giai cấp công nhân và của Đảng Cộng sản Liên Xô suốt một thời gian dài đã
đóng vai trò trụ cột trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đất nước
Liên Xô - quê hương của Lênin và Tháng Mười - đã từng là thành trì của cách
mạng và hòa bình thế giới… Tuy nhiên, mặt trái ở đây là có lúc, có bộ phận nảy
sinh tư tưởng nước lớn, muốn áp đặt, làm thay, "xuất khẩu cách mạng",
viện trợ và giúp đỡ không đúng tinh thần quốc tế của giai cấp công nhân.
Từ đó dẫn đến làm cho dân trong nước phải chịu đựng hy sinh quá lớn, kinh tế tài chính khó khăn, còn nước được viện trợ thì ỷ lại, hoặc cho là mình bị mất chủ quyền. Các nước cộng hòa, các dân tộc trong liên bang cảm thấy mình mất độc lập, không được bình đẳng…”
HY VỌNG HÃO HUYỀN
Sau khi phân tích như thế, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng, người có học hàm Tiến sỹ môn Xây dựng đảng, và là người Cộng sản bảo thủ
hàng đầu ở Việt Nam đã hồ hởi viết: ”Nhưng dù sao thất bại của chủ nghĩa xã
hội lần này chỉ là tạm thời. Quy luật khách quan không ai cưỡng lại được vẫn là
chủ nghĩa xã hội sẽ phủ định và thay thế chủ nghĩa tư bản.”
Ông Trọng khẳng định:”Chúng ta tin rằng, sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội
hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, những người cộng sản và cách mạng chân
chính sẽ rút ra được nhiều bài học bổ ích, sẽ có thêm kinh nghiệm và bản lĩnh
để tiếp tục đấu tranh cho thắng lợi cuối cùng của mục đích mà mình theo đuổi.
Không lý gì một Đảng Cộng sản to lớn, anh hùng và
kiên cường như Đảng Cộng sản Liên Xô - đảng của Lênin vĩ đại - lại cam chịu
thất bại dễ dàng như vậy.”
Cùng với giọng điệu tương
tự, 19 năm sau, đảng CSVN, dưới thời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, đã thống
nhất biểu quyết “Cương lĩnh Xây dựng Đất nước trong thời kỳ qúa độ lên Chủ
nghĩa Xã hội (Bổ sung-Phát triển năm
2011)”.
Cương lĩnh lập luận rằng:”Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát
triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những
mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất
xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc.
Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động
của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết
định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.”
Từ suy luận viển vông này,
Cương lĩnh tự an ủi:”Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại
là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại,
vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có
những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định
sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.”
Cuối cùng, Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã hồ hởi nhét chữ vào miệng
người dân khi viết Trong Cương lĩnh mới rằng:”Đi lên chủ nghĩa xã hội là
khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử.”
Đó là tuyên bố tự biên tự diễn của đảng CSVN. Người dân không được tham gia thảo luận hay hỏi ý kiến, nhưng buộc phải chấp nhận mọi quyết định của đảng độc tài lãnh đạo.
Nhưng ông Nguyễn Phú Trọng
và đảng CSVN đã không bị khiển trách, phạt kỷ luật hay trừng phạt vì đã đánh
lừa nhân dân với chiếc bánh có nhân chất độc về tương lai viển vông của
thiên đàng Cộng sản. Ông Trọng cũng đã bị lên án càng ngày càng để cho đất nước
lệ thuộc vào Trung Cộng để được an thân và được Bắc Kinh bảo đảm cho tiếp tục
cầm quyền.
NGUY CƠ TRƯỚC MẮT
Bằng chứng này đã được
nguyên Đại sứ Nguyễn Trung trình bày trong bài viết “Cùng nhau mở con đường
cải cách, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới” phổ biến ngày
22/11/2021.
Với áp lực ngày càng tăng tốc của Trung Cộng đối với Việt Nam ở Biển Đông, ông
Nguyễn Trung viết:
Nhà Ngoại giao nổi tiếng nói
thằng và nói thật cảnh báo rằng:”Trong cục diện quốc tế và khu vực rất nguy hiểm
và nhạy cảm hiện nay, Việt Nam đang bước vào thời kỳ trầm trọng của cuộc khủng
hoảng toàn diện bắt đầu từ Đại Hội VII (1991). Nghĩa là Việt Nam đang ở trong
tình thế bị uy hiếp nghiêm trọng nhất trên cả hai phương diện đối nội và đối
ngoại. Đặc biêt là: Kinh tế tuy đạt mức thu nhập trung bình thấp, song không
bền vững, đang ở thời kỳ khó khăn nhất sau 30 năm đổi mới với nhiều vấn đề cơ
bản, ách tắc, nóng chưa có lời giải (vốn, nợ, tham nhũng, kết cấu hạ tầng, quy
hoạch phát triển, môi trường, năng lượng, nước, năng lực quản trị quốc gia,
giáo dục, biến đổi khí hậu…), nội trị rối ren, an ninh quốc phòng bị uy hiếp
quyết liệt nhất trong tình thế phải đối mặt với nguy cơ bị cô lập rất cao.”
Ông Trung
nhận xét về “Đổi mới” bằng ngôn ngữ gay gắt: ”Và 30 năm đổi mới cho thấy ý
thức hệ, con đường ĐCSVN; từ đại hội VII đất nước đi vào thời kỳ khủng hoảng
toàn diện, từ mấy năm gần đây là thời kỳ trầm trọng nhất chưa từng có kể từ sau
30-04-1975. Đấy cũng là những nguyên nhân gốc gây ra lãng phí, tham nhũng và
bất công xã hội vô cùng nặng nề, cướp đi của đất nước nội lực phải có để có thể
đương đầu với mọi thách thức sống còn trong cục diện quốc tế ngày càng nóng
bỏng hôm nay. Đồng thời đã áp dụng quá nhiều chủ trương chính sách sai lầm,
bưng bít sự thật và ngu dân, kèm theo những hành động trấn áp khắc nghiệt, tất
cả khiến cho khối đại đoàn kết dân tộc bị phân hóa sâu sắc, trí tuệ và ý chí
phấn đấu vươn lên của đất nước bị tê liệt, làm tổn thương nghiêm trọng tinh
thần tự trọng dân tộc và thể diện quốc gia, lòng dân phân tán và mất lòng tin
vào sự lãnh đạo của đảng.”
Trong mối quan hệ ngoại giao với Trung Cộng, cựu Đại sứ Nguyễn Trung nói
thẳng với đảng:”Từ Hội nghị Thành Đô đến nay cho thấy đường lối ngoại giao
leo dây để giữ “đại cục”, nhưng không có nội lực vững mạnh của quốc gia làm nền
tảng, lại thêm những yếu kém của đội ngũ lãnh đạo, nên đã thất bại nghiêm
trọng. Mỗi ngày ta phải nhân nhượng một tý để giữ “đại cục” như thế, để hôm nay
là cả một cái thòng lọng không gỡ ra nổi siết trên cổ đất nước, uy tín quốc tế
giảm sút nặng nề, biên cương bờ cõi tổ quốc bị xâm phạm, đất nước lâm vào thế
vừa lệ thuộc và phụ thuộc, vừa đơn độc một cách nguy hiểm.”
Tiếp theo, ông đã kết luận về chủ trương tiếp tục kiên định Chủ nghĩa Cộng
sản lạc lõng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng như thế này:”Toàn bộ tình hình
nêu trên còn cho thấy đường lối đối nội và đối ngoại của đảng chẳng những đem
lại cho đất nước những tổn thất lớn, mà còn đẩy đất nước vào con đường phát
triển vừa lạc hậu, vừa lạc lõng trong xu thế phát triển chung của thế giới ngày
nay. Xem xét kỹ thực chất, quan sát trên thế giới sẽ thấy Việt Nam hiện
nay là nước duy nhất còn lại đang cố tìm cách níu kéo ý thức hệ có cỗi rễ là
chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa cộng sản để duy trì chế độ toàn trị và quyền
lực của đảng trong điều hành đất nước – mặc dù lãnh đạo đảng cũng thừa
nhận chưa biết cuối thế kỷ này liệu sẽ có chủ nghĩa xã hội hay không! Nghĩa là
trên thực tế về nhiều mặt sâu sắc bên trong, nước ta vẫn đang một mình một
đường đi trong thế giới hôm nay.”
Cuối cùng, cựu Đại sứ Nguyễn Trung đã lên án chế độ:”Một mình một đường đi như vậy, nước ta càng đuổi theo thiên hạ, nhưng hôm nay càng tụt hậu xa hơn và yếu đi – ngay cả so với tất cả các nước láng giềng, tiếp tục lạc lõng.
Thất bại của 42 năm đầu tiên độc lập thống nhất đất nước phải hứng chịu về
nhiều mặt chính là thất bại của việc lấy chủ nghĩa chà đạp trí tuệ và các giá
trị của tự do – dân chủ - quyền con người, là do người nắm quyền giành được một
số lợi ích phe nhóm nhưng phải hủy hoại nhiều lợi ích quốc gia và lợi ích của
dân tộc, là thất bại của xây dựng chủ nghĩa xã hội - với kết quả gặt hái được
là để mọc lên trên đất nước ta hôm nay một chế độ toàn trị khắc nghiệt, nhưng
đối với bên ngoài độc lập 42 năm mà vẫn chưa độc lập!”
Như vậy, sau 30 năm nước Nga
và Liên bang Xô Viết Cộng sản sụp đổ, nhân dân Nga và khối các nước Đông Âu đã
được hưởng dân chủ và tự do. Ngược lại, bằng chính sách cai trị độc tài và độc
đảng, đảng CSVN đã dùng bạo lực và súng đạn của Quân đội và Công an để bao vây
dân chủ và đàn áp tự do ở Việt Nam.
Do đó, đất nước tiếp tục
chậm tiến , kinh tế chỉ có thể thành công giới hạn vì không có đoàn kết toàn
dân trong và ngoài nước để xây dựng và phát triển. Nhưng nguy hiểm hơn là
lãnh đạo đảng CSVN vẫn tiếp tục cuồng tín vào khả năng sống lại của Chủ nghĩa
Cộng sản trên toàn thế giới. Thêm vào đó là sự lệ thuộc vào kẻ thù phương Bắc,
Trung Cộng ngày càng rõ rệt của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đảng CSVN để
duy trì quyền lực đã không còn lối thoát.
NẰM GỌN TRONG TAY BẮC KINH
Để bảo vệ đảng, ông Trọng đã buộc Quân đội và Công an phải “tuyệt đối trung
thành với đảng”; Đặt hai lực lượng này
dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của đảng ; Không phi chính trị hóa Quân đội; và
Kiểm soát báo chí.
Ngoài ra, đảng còn quy định :”Đảng viên không được dao động, hoài nghi, đòi thực hiện "tam quyền phân lập", "xã hội dân sự"; Đảng viên không được phản bác, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Cương lĩnh, chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quyết định, kết luận của Đảng. Phai nhạt lý tưởng cách mạng, dao động, hoài nghi; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái, đòi "phi chính trị hóa lực lượng vũ trang"...; giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.” (theo VOV.VN – Đài Tiếng nói Việt Nam --, ngày 04/12/2021)
Tuy nhiên, một số không nhỏ cán bộ, đảng viên đã “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” quay lưng lại với đảng vì những chứng hư, tật xấu của lãnh đạo vẫn diễn biến phức tạp. Tình trạng tham nhũng, quan liêu mỗi ngày một tinh vi, năm sau cao hơn năm trước. Về đối ngoại, chủ trương hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Cộng để tồn tại của ông Nguyễn Phú Trọng đã đặt đất nước vào vòng nô lệ không lối thoát của Bắc Kinh. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi đe dọa an ninh của Trung Cộng ở Biển Đông và trên đất liền.
Vì vậy, hậu qủa nhãn tiền
của “tình hữu nghị viển vông” Trung-Việt, dưới thời ông Trọng, một lần nữa nhắc
đảng CSVN phải nhớ lại lời tuyên bố ngày 25/4/2014 của Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng, trong chuyến thăm Phi Luật Tân, theo đó ông nói: ”Việt Nam kiên
quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh
thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình,
hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng
này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó".
Trong cuộc tranh chấp quyền lực năm 2011, ông Nguyễn Phú Trọng đã thành
công loại ông Nguyễn Tấn Dũng và phe cánh khỏi chính trường, nhưng liệu ông có
được tin tưởng đủ khả năng và trí tuệ để chống lại áp lực của Trung Cộng như
lời cảnh giác của Đại sứ Nguyễn Trung ? -/-
Phạm Trần
(Giáng Sinh 021)