Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận
số 212 (01-02-2015)
Cách
đây 85 năm (03/2/1930-2015) đã diễn ra một sự kiện quan trọng, ảnh hưởng lên
cuộc sống Đồng bào và vận mệnh Dân tộc: Hội nghị hợp nhất các tổ chức Việt
cộng: Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản
liên đoàn chính thức hợp nhất thành một đảng duy nhất lấy tên là đảng CSVN. Một bài đăng trên báo mạng ANTV ngày
31-01-2015 với nhan đề “85 năm lịch sử vẻ vang của Đảng” đã mở đầu như sau: “Chặng đường 85 năm Đảng CSVN đã ghi dấu
nhiều mốc son chói lọi. Đảng
đã đưa đưa dân tộc VN thoát khỏi xiềng xích nô lệ, áp bức và xâm lăng của thực
dân, đế quốc để hôm nay, dân tộc VN được sống trong tự do, hòa bình, phát triển
và sánh vai cùng các cường quốc 5 châu. Đảng CSVN thành lập, cuộc khủng hoảng
về đường lối và sự bế tắc về con đường cách mạng đã được giải quyết. Đảng CSVN
chủ trương làm cách mạng vô sản, gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng
xã hội chủ nghĩa; gắn mục tiêu độc lập dân tộc với mục tiêu chủ nghĩa xã hội;
gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới mà đội tiên phong là Cách mạng Xã
hội Chủ nghĩa tháng Mười Nga vĩ đại. Sự lựa chọn con đường cách mạng đó là sự
lựa chọn của chính lịch sử, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của đông đảo nhân
dân Việt Nam”.
Đó
là luận điệu tô son trát phấn mình, tuyên truyền dối gạt dân thường thấy của
Việt cộng mà chẳng ai còn xa lạ. Về cái gọi là “Đảng đã đưa dân tộc VN thoát
khỏi xiềng xích nô lệ, áp bức… được sống trong tự do, hòa bình, phát triển”,
một nghiên cứu gần đây của sử gia Phạm Cao Dương nhan đề “Lẽ ra ngay từ 1945,
Dân tộc đã có dân chủ tự do rồi” cho thấy hoàng đế Bảo Đại và thủ tướng đầu tiên của nước Việt Nam độc lập
là học giả Trần Trọng Kim cùng các bộ trưởng của ông, chỉ trong ba tháng của
năm 1945 (từ 8-5 đến 6-8), đã đưa ra nhiều đạo luật rất tiến bộ (so với thời
ấy) ngõ hầu xây dựng một chính thể dân chủ lâu dài cho đất nước và ban hành các
quyền tự do cho nhân dân. Bốn bước tiến đã được nhà vua thực hiện trong thời
gian này gồm có: 1- ban hành dụ “Dân vi quý”; 2- đích thân tham khảo ý kiến của
quan lại, thân hào, nhân sĩ có uy tín để thành lập một tân chính phủ; 3- thành
lập các hội đồng chuyên môn để ai nấy có thể tham gia việc soạn thảo hiến pháp
và các sinh hoạt quan trọng của quốc gia; 4- ban hành các đạo dụ liên quan đến
các quyền tự do cơ bản của người dân.
Trước
hết, dựa vào khẩu hiệu của Mạnh Tử, “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh” (“Dân là quý, sau đó là xã tắc, vua là nhẹ”), hoàng đế Bảo Đại đã ban
hành đạo dụ số 1 (17-3-1945) khẳng định: “Chế độ chính trị từ nay căn cứ vào
khẩu hiệu ‘Dân vi quý’”. Đã lấy dân làm trọng, đặt quyền dân
lên trên tất cả thì vua sẽ chỉ là một cơ chế tối cao điều khiển các cơ quan
chính trị để phục vụ quốc gia, tìm những phương pháp hợp với nguyện vọng của
quốc dân mà thi hành. Tiếp đến, nhà vua tham khảo ý kiến quan lại, trí
thức nhằm thành lập chính phủ thay thế cho nội các Phạm Quỳnh đã từ chức. Kết
quả là từ trung tuần tháng 6 đến thượng tuần tháng 7-1945, 4 hội đồng đã được
thành lập, gồm có: Hội đồng Dự thảo Hiến pháp, Hội đồng Cải
cách Cai trị, Tư pháp và Hành chính, Hội đồng Cải cách Giáo dục, Hội
đồng Thanh niênvới những trí thức còn để lại tên tuổi trong lịch sử như Huỳnh
Thúc Kháng, Nhượng Tống, Hoàng Đạo Thúy, Hoàng Đạo, Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang
Bửu, Vũ Đình Hoè…. Cuối cùng là ban
hành một số đạo dụ ấn định những nguyên tắc liên hệ đến các quyền tự do căn bản
của người dân. Dụ số 73 (5-7-1945) về tự do lập nghiệp đoàn; dụ số 78
(9-7-1945) về tự do lập hội; dụ số 79 (9-7-1945) về tự do hội họp. Tiếc rằng
biến cố 19-08-1945 đã xảy ra, Việt Minh cướp chính quyền và tất cả đều đã bị
dẹp bỏ. Điển hình là 20 ngày sau “Tuyên ngôn Độc lập”, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh
bãi bỏ các nghiệp đoàn trong toàn cõi đất Việt, còn Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ
Nguyên Giáp ký nghị định ngày 14-09 giải tán Hội Khai trí Tiến đức và “cấp năng
lực pháp luật” cho Hội Văn hoá Cứu quốc” (Cộng sản).
Sau
đó, ĐCS đã tìm cách tiêu diệt dần các chính đảng quốc gia để nắm trọn quyền
lực. Nó chính thức đặt ách toàn trị độc tài lên nửa nước kể từ 1954 và trọn
nước từ 1975. Để hợp thức hóa việc cướp chính quyền và tiếp tục thống trị vô
thời hạn, Đảng đã tự dựng nên một Quốc hội làm công cụ đắc lực cho mình và dùng
nó soạn thảo ra các bản Hiến pháp 1980, 1992, 2013. Các bản Hiến pháp này,
qua Điều 4 quy định: ĐCS là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước và
xã hội. Rồi để củng cố độc quyền cai trị đó, ĐCSVN còn cho mình độc quyền
sở hữu tài nguyên quốc gia (Luật Đất đai + điều 54 HP 2013), độc quyền sử dụng
lực lượng truyền thông (báo chí các loại, Luật Báo chí + điều 96 HP) và lực
lượng vũ trang (công an, quân đội, điều 65 HP), độc quyền giáo dục (Luật Giáo
dục + điều 96 HP), rồi ưu quyền về văn hóa (lấy chủ nghĩa Mác-Lênin lẫn tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, điều 4 HP) và ưu quyền về kinh tế (kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, điều 51 HP). Tất cả đã biến tự do của dân thành
một số 0 to tướng!
Đấy là “thành quả cách mạng” trên phương diện lý thuyết, pháp
luật. Rồi trên thực tế lịch sử, “thành quả cách mạng” gọi là “cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân
tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa” (xem trên) chính là đã:
(1) làm thiệt mạng hàng triệu người Việt và tàn phá
tan hoang đất Việt qua các cuộc chiến Đông Dương lần I và II mà đảng gọi là
“cuộc chiến chống Pháp, chống Mỹ, giải phóng dân tộc, giải phóng miền Nam”,
nhân dân gọi là “cuộc chiến vô ích và vô nghĩa” và lịch sử gọi là “cuộc chiến
giành độc quyền cai trị” và “cuộc chiến mở rộng biên thùy đế quốc đỏ”;
(2)
làm nghẹt thở và bế tắc chính trị triền miên trong đất nước bằng việc không
chấp nhận tam quyền phân lập, để đảng tự mình thao túng tất cả: sai quốc hội
làm luật có lợi cho mình, dùng tòa án giành công lý cho mình, biến bộ máy hành
chính làm công cụ cho mình; song song đó là quyết liệt phủ nhận và đàn áp tàn
khốc từ các tư tưởng đối kháng đến các lực lượng đối lập, bằng những điều luật
kiểm soát các thông tin, phát biểu bày tỏ tự do ngôn luận, bằng những đội ngũ
công an mạng, dư luận viên theo dõi, xuyên tạc, vu khống các nhà báo độc lập, bằng
những lực lượng an ninh, cảnh sát, dân phòng, côn đồ sách nhiễu, quấy phá, tấn
công, đánh đập, giam tù, xét xử các công dân bảo vệ nhân quyền;
(3)
làm sa sút văn hóa dân tộc và băng hoại đạo đức xã hội bằng việc khống chế hay
hạn chế các tiếng nói và sức mạnh tinh thần nằm nơi giới trí thức, văn nhân và
nơi giới chức sắc, tín đồ tôn giáo. Cụ thể và lừng danh là vụ Nhân văn Giai
phẩm (1955-1958), vụ Xét lại chống đảng và Thanh trừng phe thân Liên Xô
(1963-1973), vụ Đốt các sách văn hóa và cầm tù các nhà văn hóa ở miền Nam
(1975-1976), rồi chuỗi dài đàn áp các giáo hội bằng pháp luật: từ Sắc lệnh tôn
giáo 1955 đến Pháp lệnh tôn giáo 2004 và Nghị định tôn giáo 2012, cũng như bằng
hành động: quản chế, giam cầm, trục xuất, giết hại, thủ tiêu vô số chức sắc tôn
giáo; cấm cản, đánh đập, hành hung vô số cộng đoàn tôn giáo; mượn đểu, tịch
thu, cướp bóc vô số tài sản tôn giáo; hạn chế, cấm cản hay xuyên tạc giáo lý
của nhiều giáo hội. Nạn nhân gần nhất là Mục sư Nguyễn Hồng Quang, Mục sư Huỳnh
Thúc Khải, Giám mục Nguyễn Hữu Long, Giám mục Hoàng Đức Oanh…
(4)
làm lụn bại kinh tế và điêu đứng dân sinh qua việc áp dụng học thuyết Mác-Lênin
sai lầm và học thuyết tư bản hoang dã. Việc áp dụng học thuyết Mác-Lênin sai
lầm, chính “phó giáo sư tiến sĩ đảng”Vũ Văn Phúc, tổng biên tập tạp chí Cộng Sản vừa tự hào thừa nhận
qua bài viết trên báo ANTV nói đầu bài xã luận: “85 năm qua cho thấy Đảng đã
kết hợp đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Còn việc áp
dụng học thuyết tư bản hoang dã, với “bản sắc Việt Nam” là “kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (tức là nhắm mục tiêu làm giàu cho đảng), thì
trang mạng Chân Dung Quyền Lực từ hơn tháng nay đã minh họa hết sức chính xác
và sống động qua một loạt bài tập trung vào nạn tham nhũng của các thành viên
Bộ chính trị và Trung ương đảng, tức những kẻ có quyền lực cao nhất nước, với
những bằng chứng như giấy kê khai tài sản, nhà cửa với địa chỉ và hình ảnh rõ
ràng, rồi ảnh chụp đương sự với thân nhân hoặc bằng hữu. Chân tướng nhiều nhân
vật trong bộ máy quyền lực tham lam, cánh hẩu, siêu trộm cướp và siêu vô đạo
đang hút máu nhân dân và đất nước đã được khắc họa cách cụ thể, sắc nét tới mức
khó tưởng tượng. Từ phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đến bộ trưởng quốc phòng
Phùng Quang Thanh, từ viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Nguyễn Hòa
Bình đến Trần Văn Truyền nguyên Tổng thanh tra nhà nước... Như nhà văn Võ Thị
Hảo nói (bài Cơn sốt rét ác tính của các nhóm quyền lực), “dẫu lâu nay người
dân cũng đã hình dung sự băng hoại cao nhất của vô số nhân vật quyền lực trong
bộ máy, nhưng cũng không thể không sốc và công phẫn trước những chi tiết, hiện
trạng đã được trang blog này nêu ra, với những tiêu đề như “Cục u bướu di
căn…”, “Liên minh đen tối hút máu quân đội và nhân dân…”, “Đề nghị TƯ thanh tra
khối tài sản hàng ngàn tỉ…”. Điều đáng nói, đây chỉ là một phần những chân dung
trong bộ máy quyền lực. Người ta có thể rùng mình khi nghĩ rằng nếu tất cả chân
tướng của những “đồng chí chưa bị lộ” đều được đưa ra ánh sáng thì còn kinh
khủng tới mức nào! Nếu đúng như vậy… thì phải chăng đây là bộ máy quyền lực tội
lỗi và tham lam nhất trong lịch sử VN từ cổ chí kim?!” Và cái giá phải trả
cho bọn cướp ngày này chính là hàng chục triệu oan dân (nông dân và công nhân)
đang dở sống dở chết, biến thành vô sản!
(5)
làm sứt mẻ sự vẹn toàn lãnh thổ và gây nguy khốn cho an ninh quốc gia bằng
chính sách lệ thuộc Tàu cộng về mọi mặt, qua các công hàm bán đảo, các hiệp
định nhượng biển, các mật ước dâng đất, các cam kết hợp tác toàn diện giúp Tàu
xâm nhập đất nước như một khối ung thư đang phát triển tràn lan, để sẽ biến
nước Việt Nam thành tỉnh Âu Lạc.
Và đó
mới thực là “thành quả cách mạng” sau 85 năm hiện hữu của cái đảng mà theo lời
nhà văn Xuân Vũ, một cán bộ Cộng sản hồi chánh thời Việt Nam Cộng Hòa, “sinh
ra để làm hai việc: nói láo và làm bậy. Hễ chúng nói là nói láo, hễ chúng làm
là làm bậy”. Làm bậy ở đây là phá hoại: phá hoại kinh tế, môi trường, dân
sinh, văn hóa, đạo đức của đất nước và cả tiền đồ lẫn sinh mệnh dân tộc, không
từ bất cứ mặt nào!
BAN
BIÊN TẬP