-Nguyễn Đăng Quang-
"Đề cập đến hiện tượng bất thường tại một số tang lễ gần đây, lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh thở dài ngao ngán: Chưa bao giờ trên đất nước ta, dù ở bất cứ chính thể nào, lại có những sự việc thất nhân tâm như vậy! Sao họ lại nỡ làm những việc như thế? Những giải băng tang gắn trên những vòng hoa của bạn bè than thiết, người thân xa gần gửi hoặc trực tiếp mang viếng là sự thể hiện tình cảm của người đang sống đối với người quá cố, sao người ta lại nỡ làm điều xấu xa này? Chẳng nhẽ họ đã thực sự quên mất câu “Nghĩa tử là nghĩa tận” hay sao?"
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Năm ngoái, khi ở tuổi 99, đến giao dịch
ở ngân hàng, thấy cụ rất tinh tường, chữ viết sắc đẹp, các nhân viên ở đây đoán
cụ chưa đến 80! Cụ rất mạch lạc trong tư
duy và trí nhớ thì thật tuyệt vời! Những
sự kiện của Đảng, của đất nước, dân tộc và của cá nhân cụ trong hơn 90 năm qua
cụ nhớ rất chuẩn xác, không hề nhầm lẫn. Không chỉ nhớ chính xác mà cụ còn dựa vào tư
duy khoa học để lý giải đúng, sai, phải, trái một cách có lô-gic và biện chứng!
Trong suốt 25 năm qua, sau khi nghỉ
hưu (1990), cụ duy trì lịch sinh hoạt hàng ngày rất đều đặn và có kỷ luật. Ăn ngủ, nghỉ ngơi rất đúng giờ. Cụ mê xem thể
thao và bóng đá trên tivi, đặc biệt là giải Ngoại hạng Anh, trừ những trận quá
khuya. Mỗi buổi sáng nếu trời không mưa rét, cụ đi bộ vòng quanh hồ gần 2 km. Cụ
đánh tổ tôm đều đặn mỗi tuần ba buổi sáng. Hàng ngày cụ theo dõi tình hình
chính trị, thời sự trong nước và thế giới rất đều đặn, và thường đưa ra những
nhận định tinh tường!
Cụ khá rành Trung văn và Pháp ngữ và
có thể giao tiếp bằng tiếng Anh. Thỉnh thoảng cụ còn viết báo, làm thơ và trả lời
phỏng vấn báo chí và các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước!
Cụ có kiến thức rất sâu về y học, đặc
biệt là Đông y, và đã tự chữa bệnh cho mình và giúp nhiều người khác chữa khỏi
bệnh tật. Cụ luôn có tấm lòng vị tha và hay giúp người, đặc biệt những ai đau yếu,
bệnh tật hoặc có hoàn cảnh khó khăn, nghèo túng! Cụ thật sự là một tài sản quý
không chỉ đối với các con, cháu, chắt trong gia đình mà còn là tài sản quý đối
với đất nước, với nhân dân và ngay cả đối với ĐCSVN nếu lãnh đạo Đảng hiện nay
thật sự còn trân quý cụ!
Cụ
tham gia cách mạng từ khi còn rất trẻ. Cụ gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm
1939 khi mới 23 tuổi. Tháng 6/1940 cụ bị Pháp bắt giam, kết án 5 năm tù khổ sai
và đày đi biệt xứ tại nhà ngục khét tiếng Kontum ở Tây Nguyên. Sau khi ra tù, cụ
bắt liên lạc ngay với tổ chức và được Đảng giao nhiều trọng trách: lần lượt làm Bí thư Tỉnh ủy Phúc Yên rồi Thái
Bình.
Tháng 3/1947, Trung ương điều cụ vào
quân đội, làm Chính ủy kiêm Bí thư Khu I gồm 3 tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và Cao
Bằng do đ/c Chu Văn Tấn làm Khu trưởng. Từ năm 1948 đến 1959, cụ được rút về Tổng
cục Chính trị và làm Cục trưởng Cục Tổ chức đầu tiên của Tổng cục Chính trị
QĐNDVN do đ/c Nguyễn Chí Thanh làm Chủ nhiệm. Năm 1959 tại Sắc lệnh số 36/SL
ngày 31/8/1959 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, cụ được tấn phong quân hàm Thiếu tướng
và được bổ nhiệm làm Chính ủy Quân khu IV. Tại Đại hội Đảng tháng 9/1960, cụ được bầu là Ủy
viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (1960 – 1976), và được
phân công làm Phó Trưởng ban thứ nhất Ban Tổ chức Trung ương do ông Lê Đức Thọ
làm Trưởng ban. Cụ “trụ” được ở đây 6 tháng trong cương vị “Phó thứ nhất”, vì
giữa cụ và Trưởng ban Lê Đức Thọ, ngoài cá tính khác nhau, 2 người thường có bất
đồng quan điểm về công tác bố trí, sử dụng và đề bạt cán bộ.
Giữa năm 1961, Trung ương điều cụ làm
Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Năm 1964 cụ được cử làm Trưởng đoàn Cố vấn giúp bạn Lào.
Trước khi lên đường sang nước bạn, cụ được Chủ tịch Hồ Chí Minh thân tình mời
cơm và căn dặn: “Sang bên ấy, chú góp ý kiến để giúp bạn làm. Chú không được
làm thay bạn và tuyệt đối không được làm ông Toàn quyền”. Ngay trước hôm lên đường,
Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng, đến gặp và “nhờ” : “ Anh sang
đấy, anh kiêm giúp làm Trưởng đoàn chuyên gia quân sự luôn!”. Thế là trong hơn 9 năm ở Lào, cụ vừa là Trưởng
đoàn Cố vấn vừa là Trưởng đoàn chuyên gia quân sự giúp bạn!
Đầu 1974, khi vừa kết thúc 9 năm công
tác ở Lào, vừa chân ướt chân ráo về nước được 3 tháng thì cụ lại được bổ nhiệm làm
Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước ta tại Trung Quốc. Cụ những tưởng đi sứ lần này
chỉ khoảng 3 - 4 năm thôi, khi tới tuổi hưu là được về nghỉ. Nào ngờ nhiệm kỳ Đại
sứ của cụ tại Trung Quốc kéo dài ngoài dự tính, trên 13 năm, và cho đến nay, cụ
vẫn là người giữ kỷ lục là Đại sứ Việt Nam có nhiệm kỳ dài nhất ở một quốc gia!
Mãi năm 1987 cụ mới được rút về nước, nhưng 3 năm sau cụ mới được nghỉ hưu ở tuổi
75!
Thời kỳ cụ làm Đại sứ ở Trung Quốc là
đúng vào thời điểm quan hệ giữa 2 nước trở nên rất xấu và căng thẳng vì Trung Quốc
đưa 60 vạn quân tràn sang tàn phá và xâm lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta
tháng 2/1979! Có thể nói 13 năm làm Đại
sứ ở Bắc Kinh là cả 13 năm đấu trí căng thẳng với Bộ Ngoại giao và chính quyền
nước sở tại. Và cho đến tận bây giờ, cụ là vị Đại sứ mà Trung Quốc có lẽ “kém
vui” và “không ưa” nhất trong số các Đại sứ Việt nam từ trước đến nay ở xứ này!
Trong cuốn hồi ức “Kể lại cuộc đời”,
cụ có dành 44 trang để nói về quãng thời gian hơn 13 năm cụ làm Đại sứ tại đây. Xin trích một ý vui trong cuốn hồi ức này: “Sau khi kết thúc 13 năm công tác ở Bắc
Kinh, về nước gặp lại đ/c Ngô Thuyền, người tiền nhiệm của mình, tôi nói đùa:
“Anh thì sang Trung Quốc uống rượu, tôi thì sang cãi nhau!”.
Năm 1995, sau khi đã nghỉ hưu,
Chính phủ Lào mời cụ sang thăm lại đất nước bạn. Và dịp này, bạn đã vinh danh
và tặng thưởng cụ Huân chương “Tự do” là huân chương cao quý nhất của Nhà nước
Lào.
Để khái quát 23 năm đảm trách công
tác đối ngoại ở 2 quốc gia láng giềng, năm 1995, trưởng nữ của cụ, nhà văn kiêm
dịch giả Nguyễn Nguyên Bình, có đôi câu đối viết tặng cha nhân lễ mừng thọ cụ
80 tuổi xuân:
- Làm Cố vấn miền Tây, nhớ lời Bác,
không làm “lão Toàn quyền”, luôn nhớ chữ “Chủ quyền của bạn”.
- Đi Đại sứ nước Tầu, trung với
Nước, chẳng ngại “người Đại Hán”, giữ trọn điều “Quốc thể về ta”.
Nghỉ hưu, trở về với cuộc sống đời thường, nhưng cụ không nghỉ ngơi hoàn
toàn mà, như lời cụ, chuyển sang một cuộc đấu tranh mới! Cụ luôn trăn trở với
tình hình đất nước và rất khẳng khái lên tiếng góp ý với lãnh đạo Đảng và Nhà nước
về Cương lĩnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về đường lối lãnh đạo đất nước, về
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chính sách đối ngoại, đặc biệt về
quan hệ Việt - Trung, nhất là từ sau Hội nghị Thành Đô (1990) đến nay! Những góp ý tâm huyết của cụ tuy không được
lãnh đạo lắng nghe nhưng được tuyệt đại đa số người dân đồng tình, ủng hộ và cảm
phục! Cụ tâm sự: Là một đảng viên, một lão thành cách mạng, một quân nhân, cụ
luôn hành xử theo phương châm “Trung với Nước, Hiếu với Dân”! Cụ nói phải đặt
quyền lợi của quốc gia, lợi ích của dân tộc lên trên hết, lên trên lợi ích và
quyền lợi của Đảng chứ không thể là ngược lại, bởi vì đất nước là trường tồn,
dân tộc là vĩnh cửu! Theo tinh thần
đó, ngày 28/7/2014, với tư cách là đảng viên có 75 năm tuổi đảng, cụ là người đầu
tiên ký vào Thư ngỏ 61 (TN61) của 61 đảng viên tâm huyết gửi Ban Chấp hành
Trung ương và toàn thể đảng viên ĐCSVN, mạnh mẽ kêu gọi Đảng đổi mới tư duy và thay
đổi triệt để đường lối lãnh đạo đất nước hiện nay! Xin trích:
… “ Vì vậy, chúng tôi, những người
người ký tên dưới đây thấy cần bày tỏ suy nghĩ của những đảng viên ĐCSVN trung
thành với tâm nguyện vì nước vì dân với 2 yêu cầu chính dưới đây:
1/. ĐCSVN hãy tự giác và chủ động
thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng CNXH, chuyển hẳn sang
đường lối DÂN TỘC và DÂN CHỦ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ TOÀN
TRỊ sang DÂN CHỦ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa,…
2/. Lãnh đạo Đảng và Nhà nước phải
thấy rõ mưu đồ và hành động của thế lực bành trướng Trung Quốc đối với nước ta,
từ bỏ những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng để có đối sách trước mắt và lâu dài bảo vệ
độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, thoát khỏi
sự lệ thuộc vào Trung Quốc, xây dựng mối quan hệ láng giềng hòa thuận, hợp tác
bình đẳng, vun đắp tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.”
Một chi tiết khá đặc biệt, chắc ít bạn
đọc để ý, đó là người cuối cùng (thứ 61) ký vào TN61 này chính là nhà văn
Nguyên Bình, trưởng nữ của cụ. Đúng là “cha già, măng mọc”! Trong buổi Phái
đoàn Thành ủy Hà Nội đến nhà cụ hôm 19/11/2014 để thuyết phục và vận động cụ
rút tên khỏi danh sách những người ký vào TN61, chính hai vợ chồng bà Nguyên
Bình cùng tiếp khách với cụ. Song Phái đoàn Thành ủy lại “quên”, không vận động
bà rút tên, mà chỉ nài nỉ riêng cụ nhưng bị cụ kiên quyết bác bỏ! Không rõ về họ
báo cáo với Bí thư Thành ủy ra sao, liệu có là “Nhiệm vụ đ/c giao, chúng tôi đã
hoàn thành vượt mức” hay không? Về buổi viếng thăm này, cũng cần nhắc lại, trước
khi ra về, ông trưởng đoàn khéo léo gợi ý là cụ đã 75 năm tuổi đảng, xin cụ “tạo
điều kiện thuận lợi” để Thành ủy sớm trao huy hiệu cho cụ. Cụ liền nói “Tôi đã
75 năm đứng trong hàng ngũ của đảng. Việc trao hay không trao huy hiệu 75 năm
cho tôi thì tuổi đảng của tôi vẫn là 75, chẳng ai cho thêm và cũng chẳng ai có
thể bớt đi tuổi nào. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, tôi chưa hề bị kỷ luật,
nên việc trao huy hiệu cho tôi là việc bình thường. Điều đó chỉ có lợi và tốt
cho đảng, ngược lại thì bất lợi và xấu cho đảng! Nhưng nếu vin vào việc tôi ký
vào TN61 mà không trao huy hiệu, thậm chí kỷ luật hoặc khai trừ tôi thì tôi xin
nói rõ với các anh là trong trường hợp đó, tôi sẽ công bố quyết định mà tôi đã
trăn trở suy nghĩ nhiều năm qua!” Ông
trưởng đoàn hứa là sẽ báo cáo với lãnh đạo Thành ủy. Song đến nay đã 3 tháng rồi,
cụ chưa được hồi âm!
Ông Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng
Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, người có mặt trong buổi mừng thọ sớm cụ
Vĩnh 100 tuổi cách đây một tuần (hôm 11/2/2015), cho biết hàng ngày tập thể dục
cùng các đảng viên trong Chi bộ nơi cụ Vĩnh vẫn sinh hoạt, các đồng chí này cho
biết trên Thành ủy có chỉ đạo Chi bộ họp để lấy ý kiến xem có đồng ý trao huy
hiệu 75 tuổi đảng cho cụ hay không thì toàn Chi bộ biểu quyết 100% tán đồng là
phải làm ngay việc đó! Không rõ Thành ủy
Hà Nội có thuận theo ý kiến biểu quyết của Chi bộ cơ sở hay không, và còn định “treo”
huy hiệu kia đến bao giờ, và để nhằm mục đích gì?
Với tư cách một CCB, ngày
2/9/2014, cụ là một trong 6 vị tướng ký vào Kiến nghị của 20 sỹ quan cao cấp QĐND
và CAND (gọi tắt là KN20) kiến nghị Đảng và Nhà nước 4 vấn đề như sau, xin
trích:
- Quân đội là lực lượng có nhiệm vụ Hiến
định là bảo vệ Tổ quốc trước ngoại xâm nên cần chấm dứt ngay việc huy động quân
đội vào những sự vụ mang tính đối kháng với nhân dân như giải tỏa đất đai, ngăn
chặn các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa,…
- Việc cố tình phớt lờ cuộc chiến tranh bảo
vệ biên giới phía bắc năm 1979 và mấy trận chiến bảo vệ biển đảo không chỉ phủ
nhận lịch sử, xúc phạm đồng bào và chiến sỹ đã hy sinh xương máu vì Tổ quốc mà
còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần và quyết tâm chiến đấu của LLVT. Đó là
sai lầm không được phép tái phạm.
- LLVT cần được xác định rõ và chính xác
đối thủ, không thể mơ hồ biến thù thành bạn hoặc coi bạn là thù. Đối tượng tác
chiến của quân đội phải là những thế lực có thể đe dọa chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc trong hiện tại và tương lai, chứ không thể là những đối thủ
đã thuộc về quá khứ.
- Là người chủ và người bảo vệ đất nước,
nhân dân và LLVT phải được biết chính xác hoàn cảnh thực tế của quốc gia. Vì vậy
Nhà nước phải báo cáo rõ ràng với nhân dân về thực trạng quan hệ Việt – Trung
và về những ký kết liên quan đến lãnh thổ trên biên giới, biển đảo và các hợp đồng
kinh tế ảnh hưởng đến an ninh và chủ quyền quốc gia.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa III có tổng cộng 80 Ủy viên Trung ương và nhiệm kỳ kéo dài 16 năm (1960 –
1976). Trong số 80 UVTƯ Khóa III, hiện có 8 cụ còn sống. Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh
là một trong số 8 cụ này, nhưng là người duy nhất vẫn mạnh khỏe, minh mẫn và tư
duy vẫn sắc sảo, tinh tường! Một điểm đặc
biệt nữa là cụ Nguyễn Trọng Vĩnh, ngoài việc là một sỹ quan có thâm niên cấp tướng
lâu nhất hiện nay (56 thâm niên), cụ còn là vị tướng duy nhất trong số trên 30
tướng lĩnh được Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh tấn phong hiện vẫn còn sống khỏe
mạnh cho đến nay!
Hai năm gần đây cụ đã bắt đầu
suy nghĩ về cuộc sống vĩnh hằng ở thế giới bên kia và đã khởi bút thảo di chúc.
Vợ chồng cụ đều là lão thành cách mạng, đều là đảng viên kỳ cựu và cán bộ lãnh
đạo cấp cao. Cụ bà sinh năm 1919, kém cụ 3 tuổi, nhưng đã mất cách đây 5 năm,
hưởng thọ 92 tuổi. Hiện cụ bà đang yên nghỉ ở nghĩa trang Mai Dịch và đợi “tái
hợp” với cụ ở “thị trấn vĩnh hằng“ này! Cụ tâm sự: “Nếu nhà tôi còn sống, tôi tin chắc là bà ấy cũng ký vào TN61 như tôi và
con gái trưởng của chúng tôi!” Cụ còn thổ lộ: Nhiều đêm mơ thấy nhà tôi về
tâm tình: “Thôi, ông đừng theo tôi về đây
nữa. Ở đây tưởng là yên lành, nhưng không phải. Nhiều chuyện còn đau lòng hơn ở
trên dương gian trần thế! Ông hãy chọn một
nơi yên bình hơn mà an nghỉ. Nhất định thế nào tôi cũng sẽ tìm đến đoàn tụ với ông.
Và chúng ta sẽ tái tục lại cuộc sống như thời kỳ ở phố Lê Lai thuở xa xưa hồi trước!”
Không rõ có phải do “lời khuyên”này
hay không mà lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đã quyết định rứt khoát là một khi từ
giã thế gian này, cụ sẽ không chọn “thị trấn vĩnh hằng Mai Dịch”, mà sẽ đến với
Đài hóa thân Hoàn Vũ! Lúc đó các con, cháu,
chắt của cụ sẽ thành kính mang bình tro thiêng liêng đặt ở một nơi thật yên
bình, thanh sạch để cụ bà sẽ xin “chuyển khẩu đến đoàn tụ” với cụ ông, rồi hai
cụ sẽ thanh thản tái hiện lại cuộc sống trước đây trong căn nhà nhỏ ở góc phố
Lê Lai như hồi đầu năm 1946 thuở nào!
Đề cập đến hiện tượng bất thường tại một số tang lễ gần đây, lão tướng
Nguyễn Trọng Vĩnh thở dài ngao ngán: Chưa bao giờ trên đất nước ta, dù ở bất cứ chính thể nào, lại có những
sự việc thất nhân tâm như vậy! Sao họ lại nỡ làm những việc như thế? Những giải
băng tang gắn trên những vòng hoa của bạn bè than thiết, người thân xa gần gửi
hoặc trực tiếp mang viếng là sự thể hiện tình cảm của người đang sống đối với
người quá cố, sao người ta lại nỡ làm điều xấu xa này? Chẳng nhẽ họ đã thực sự
quên mất câu “Nghĩa tử là nghĩa tận” hay sao? Cụ cho rằng việc cắt xén, thay đổi
hoặc giật, cướp băng tang không chỉ là việc làm thất đức, phản tâm linh mà còn
là những hành động vô chính trị, vô văn hóa và nó sẽ để lại tác hại hết sức xấu
xa xấu xa! Cụ thổ lộ: “Tôi mong rằng lễ
tang tới đây của tôi sẽ không có hiện tượng độc ác và vô nhân tính này xảy ra như
nó đã từng xảy ra trong lễ tang tướng Trần Độ năm 2002 cũng như tại một số lễ
tang gần đây ở Hải Phòng, Hà Nội và một số nơi khác trong thời gian vừa qua!”
Kể lại một vài sự kiện không ăn nhập
và liên quan gì đến dịp chúc mừng lão tướng của chúng ta “Đại thọ bách niên” là
một điều không phải lẽ, song tôi đã xin phép và được cụ đồng ý, tôi chuyển tải
đến bạn đọc gần xa để mọi người có dịp biết và hiểu thêm về những ý tưởng khai
phóng và tấm lòng đức độ của một con người có thể nói là tấm gương thật sáng
cho chúng ta noi theo về mọi mặt!
Tôi xin mượn 4 câu thơ của Đại tá Bùi
Văn Bồng, nhà báo - blogger, người đồng hương với cụ, viết tặng cụ và nhờ tôi
chuyển đến cụ nhân dịp mừng cụ “đại thọ bách niên” để khép lại bài viết đã khá
dài này, như sau:
Chúc mừng Lão tướng bách niên xuân
Vững
chí bền lòng: Nước với Dân.
Pháp
khí tướng quân, tâm như Phật
Ngọn bút mạnh hơn chổi phất trần
Hà Nội ngày đầu năm Ất Mùi.
Nguyễn Đăng Quang