Nguyễn Minh Cần
một đảng viên CS phản tỉnh, hiện cư trú tại Nga.
Cho nên đòi hỏi của dân chúng, nhất là các nhà trí thức và các chiến sĩ dân chủ phải xóa bỏ điều 4 HP là điều rất hợp lý và rất chính đáng, vì điều 4 chi phối phần lớn những điều khác trong HP, chi phối toàn bộ sinh hoạt của xã hội Việt Nam. Gần đây, Khối 8406 vận động cuộc biểu tình trên mạng đòi xóa bỏ điều 4 HP cũng là một việc làm rất có ý nghĩa.
Nhân dịp kỷ niệm 85
năm ngày thành lập đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), chúng tôi thiết nghĩ những
đảng viên CS còn có lương tri, còn có lòng yêu nước, thương dân, nên khách quan
nhận định lại ĐCSVN mà mình đang có chân trong đó, thực ra nó như thế nào.
Những việc nó đã làm trong suốt 85 năm qua như thế nào? Công và tội của nó đối
với dân, với nước ra sao? Để từ đó xác định thái độ cần phải có đối với ĐCSVN
mà mình đang có chân và đã từng phục vụ. Tất nhiên, chúng tôi không nói chuyện
với đám nịnh thần, đám bồi bút cung đình, bọn dư luận viên… những kẻ chỉ biết
cúc cung phục vụ cái ác vì chút bỗng lộc được bọn độc tài toàn trị thí cho.
Thiết nghĩ có mấy điều đáng suy nghĩ sau đây:
Điều thứ nhất. Có thể nói không ngoa là rất hiếm có một
đảng chính trị nào giống như ĐCSVN, coi sinh mạng con người hết sức rẻ rúng.
Xin các bạn cứ ngẫm mà xem! Đọc các chuyện kể của những nhân vật đã từng ở
trong ĐCS hay những người đã từng bị ĐCS đày đọa, rồi nhìn kỹ vào thực tế, thì
thấy rằng quả là ĐCSVN “giết người như ngóe”. Ai chống Đảng – Đảng diệt! Ai
chưa chống Đảng, mà Đảng nghĩ là người đó có thể có ngày sẽ chống Đảng – Đảng
cũng diệt! Những người có quan điểm khác với Đảng – nhất là người thuộc các
đảng yêu nước không cộng sản – thì Đảng cho “đi mò tôm”, tức là bỏ rọ trôi
sông. Ai bị Đảng nghi, ngay cả đối với đảng viên của Đảng – chẳng cần chứng cớ
gì hết, chẳng cần điều tra gì hết – Đảng “thịt”. Người nơi khác lơ ngơ đi lạc
vào A-Tê-Ka (ATK, an toàn khu) của Đảng – Đảng “thịt” ngay, để giữ bí mật của
Đảng. Người cảm tình với Đảng từ nơi xa lần mò tìm đến ATK của Đảng mà không có
ai trong ATK chứng nhận – Đảng cũng “thịt”. Thậm chí, trong kháng chiến, người
dân có mang vật gì trong người, chẳng hạn, chiếc khăn lau mặt, có ba màu: xanh,
trắng, đỏ, Đảng nghi là gián điệp – Đảng “thủ tiêu”. Đã có biết bao nhiêu mạng
người đã bỏ xác vì những lý do vớ vẩn như thế! Mà chỉ cần một cái hất đầu, một
cái nháy mắt, một ngón tay đưa lên… của cán bộ thôi, chứ không cần phải có bất
kỳ giấy tờ, quyết định, chữ ký lôi thôi gì cả - thế là một, hai hay nhiều mạng
người “đi toong”! Chính cái đầu óc “coi mạng người như ngóe” đó, mà Đảng nhất
quyết bác bỏ “nhân tính”, chỉ thừa nhận “giai cấp tính”, mà nghĩ cho cùng có
khi đó lại là “thú tính”. Xin hãy nghĩ mà xem: cái lối giết người bị quy là
“địa chủ” trong cải cách ruộng đất (CCRĐ), như chôn sống, hay chôn người đến cổ
rồi cho trâu bừa qua nhiều lần cho đến chết, giam người ở chuồng trâu rồi bỏ
đói cho chết; cái lối giết người Hoa trong chuyến ĐCSVN đuổi trên 300 nghìn
người Hoa về nước, có nơi đã thu vàng bạc của người ta rồi, cho lên tàu xua về
nước lại còn cho tàu đuổi theo xả súng giết chết hết hay đục thuyền cho đắm…
đến nỗi xác người nằm san sát nhau lềnh bềnh trên sông như củi rều vậy. Như thế
gọi là gì? “Giai cấp tính” ư? Rõ ràng là “thú tính”! Và cái lối tàn sát dân
lành kiểu này có khác gì lối giết người của bọn phát-xít? Và như vậy, ĐCSVN có
khác gì bọn khủng bố quốc tế thuộc các giáo phái cực đoan ngày nay?
Thế nhưng, hễ ai – các nhà trí thức, các đảng viên của Đảng – dám đề cao “nhân
tính” thì Đảng liền phê cho là “mất lập trường”, là tư tưởng xét lại, là quan
điểm tư sản, phản động, là không có “đảng tính”. Chính vì thế mới xảy biết bao
nhiêu vụ oan khiên suốt trong 85 năm tồn tại của ĐCSVN. Nào là các vụ giết hàng
trăm lãnh tụ và đảng viên các đảng yêu nước không cộng sản, như Việt Nam Quốc
Dân đảng, đảng Đại Việt, v.v… những năm sau khi ĐCS cướp được chính quyền, để
không còn ai có thể cạnh tranh quyền lực với Đảng nữa. Ngay cả đối với những
người yêu nước cùng ý hệ với Đảng, nhưng khác về đường lối, như những người
Trotskistes Việt Nam đã từng một thời hợp tác tốt đẹp với những người CS ở miền
Nam, ĐCSVN cũng không tha – phải giết hết! Vì sao? Vì hồi 1937-38, Nguyễn Ái
Quốc từng hùa theo Stalin, lu loa chửi bới thậm tệ những người Trotskistes là
“một lũ bất lương, những con chó săn của chủ nghĩa phát-xít Nhật và chủ nghĩa
phát-xít quốc tế”, “đàn chó Trotskistes”, “những kẻ đầu trâu mặt ngựa”, “những
đứa không còn phẩm giá con người, những tên sẵn sàng gây mọi tội ác”, “kẻ thù
của nền dân chủ và tiến bộ”, “bọn phản bội và mật thám tồi tệ nhất”, v.v… Những
câu, chữ này còn nằm trong ba bức thư Nguyễn Ái Quốc gửi cho Trung ương (TƯ)
Đảng (xem Hồ Chí Minh Toàn tập, t.3, tr.97-100). Cho nên những ông Tạ Thu Thâu,
Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Sổ, Lê Ngọc, Lê Văn
Hương, v.v… (hồi năm 1945-46), Nguyễn Văn Linh, Lưu Khánh Thịnh, Liu Jialang
(hồi năm 1948) đã bị sát hại thê thảm! Ngay cả những đảng viên CSVN bị nghi ngờ,
dù chẳng có chứng cớ gì hết cũng bị giết hại dễ như bỡn: như vụ giết oan mười
mấy đảng viên CSVN người Hoa đã từng bị tù đày vì đấu tranh cách mạng Việt Nam
(do Lý Ban “chỉ điểm”) và vụ giết oan mấy chục đảng viên CS người Việt (trong
vụ H122 do Hoàng Quốc Việt phụ trách). Đó là chưa kể đến các vụ bắt bớ, đày đọa
trong trại tù hàng chục nghìn người đã từng làm việc dưới chế độ cũ thời Pháp
(có nhiều khi chẳng làm việc gì cho chế độ cũ, như các linh mục, các chánh
trương, trùm đạo, các nhà sư Phật giáo…) sau khi ĐCS tiếp nhận miền Bắc (theo
nghị quyết số 49/NQ/TVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước VNDCCH do Chủ tịch
Trường Chinh ký ngày 20-6-1961), còn sau 30 tháng Tư năm 1975 là vụ đánh lừa
gọi đi học ngắn ngày để bắt giam và đày đọa mấy chục năm ròng trong các trại tù
trên hai trăm nghìn người đã từng phục vụ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa (do
lệnh gọi đi học của Ủy ban Quân quản). Trong cả hai vụ đó đã có hàng nhiều chục
nghìn người phải bỏ xác trong các trại tập trung kiểu phát-xít, mệnh danh là
“trại cải tạo”. Đó là chưa kể đến các vụ thảm sát chừng bốn nghìn người thường
dân vô tội trong Tết Mậu Thân 1968, vụ bắn trọng pháo ngay trên đường người dân
lành chạy lánh nạn ở Quảng Nam – Đà Nẵng hồi 1975… Chính vì phủ nhận “nhân
tính”, nên trong kháng chiến đã từng xảy nhiều vụ tung lựu đạn vào xe đò hay
đặt bom mìn trên đường ray để nổ tung các đoàn tàu chợ (chở hành khách) giết
hại thường dân “vùng địch”.
Đặc biệt cần nói đến vụ Cải cách Ruộng đất (CCRĐ) ở miền Bắc trong những năm
1953-1956 đã tàn sát vô cùng man rợ trên 172 nghìn người dân vô tội, thậm chí
giết cả những người đã từng ủng hộ tiền, vàng, thóc gạo, quần áo cho Đảng, đã
từng che giấu, nuôi nấng cán bộ của Đảng và quân kháng chiến trong thời kỳ khó
khăn nhất. Thậm chí, không ít cán bộ, đảng viên của Đảng từng chiến đấu cho
Đảng đã bị vu oan và hành quyết trong CCRĐ. Tài liệu chính thức của ĐCS đã phải
thừa nhận là trong số 172 nghìn người bị giết trong CCRĐ thì 70% là những người
bị oan! Đây thực sự là một tội diệt chủng, một tội ác đối với nhân loại, một
tội ác tày trời đối với Dân tộc và Tổ quốc Việt Nam. Tự cổ chí kim chưa từng
xảy ra một tội ác như vậy trên Đất nước Việt Nam này! Tội ác đó không thể nào
tha thứ được! Thế mà Hồ Chí Minh và Trường Chinh, những kẻ đã gây nên tội ác đó,
vẫn ngụy biện tuyên bố “dù CCRĐ có sai lầm, nhưng thắng lợi vẫn là căn bản”.
Vẫn chưa hết, cuộc phiêu lưu của nhóm cầm quyền thân Mao là Lê Duẩn, Lê Đức
Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu… hồi đầu thập niên 60 thế kỷ trước, đã phát động
cuộc chiến Bắc – Nam, thực chất là cuộc nội chiến, vô cùng tàn khốc trên mười
mấy năm trời đã làm cho trên sáu triệu người dân Việt Nam phải bỏ mạng, đem đến
cho cả hai miền biết bao đau thương, tang tóc, biết bao thiệt hại về nhân mạng,
về của cải vật chất, về tinh thần, đạo đức và tình cảm. Đã thế, Tổng Bí thư
(TBT) Lê Duẩn, một trong những kẻ khởi xướng cuộc nội chiến, cuối cùng lại nói:
“Chúng ta chiến đấu là để cho Liên Xô, Trung Quốc và các nước trong phe xã hội
chủ nghĩa”. Một câu nói hết sức phũ phàng đối với biết bao hy sinh xương máu
của nhân dân Việt Nam!
Việc phát động chiến tranh chứng tỏ nhóm chóp bu ĐCS thân Mao hồi đó coi thường
sinh mạng người dân của cả hai miền, coi thường sinh mạng của hàng triệu binh
lính, thanh niên xung phong và dân công. Thế nhưng, khi một số cán bộ – mấy ủy
viên TƯ Đảng, nhiều cán bộ cao cấp, trung cấp, một số sĩ quan trong quân đội,
gồm mấy vị tướng, nhiều sĩ quan cấp tá, ở trong nước và ngoài nước đã phản đối
chiến tranh, phản đối đường lối thân Mao của bọn chóp bu CS, thì họ bị quy là
“phần tử xét lại chống Đảng”, bị vu khống “làm gián điệp cho nước ngoài” và bị
đàn áp ác liệt, bị tù ngục nhiều năm, thậm chí có những cán bộ đã bị chết trong
tù.
Chính việc ĐCSVN phủ nhận “nhân tính” đã đem lại hậu quả nguy hại rất nghiêm
trọng cho đạo đức xã hội, là ngày nay trong dân gian, người dân học đòi Đảng
cũng coi thường tính mạng con người: cái thói độc ác ngày càng phổ biến, chỉ vì
một việc cỏn con thôi, người ta sẵn sàng chém giết nhau. Một nhà báo trong nước
đã phải kêu lên: “Chưa bao giờ các hành vi vô nhân tính, vô đạo đức trong các
mối quan hệ xã hội, kể cả giữa những người thân trong gia đình lại xuất hiện
với một tần xuất dày đặc trên báo chí như hiện nay.”
Điều thứ hai. Từ khi ra đời cho đến nay, 85 năm ròng
rã, ĐCSVN đã tỏ rõ là một đảng vô cùng gian dối, thường xuyên dối trá, lừa gạt,
chẳng những đối với địch, mà cả đối với dân, cả đối với đảng viên của Đảng.
Đảng luôn luôn nói dối trắng trợn, nói một đằng, làm một nẻo. Thí dụ thì nhiều
vô kể. Chỉ xin đưa ra vài chuyện thôi. Cú lừa gạt đau đớn nhất là đối với “bạn
đồng minh gần gũi, thân cận nhất” của Đảng (tầng lớp nông dân) là khẩu hiệu
“Người cày có ruộng”. Khi cần lôi kéo nông dân theo Đảng làm cách mạng, ĐCS
tung ra khẩu hiệu đó lên, ra rả quanh năm suốt tháng; khi làm CCRĐ, ĐCS vẫn còn
hò hét cái khẩu hiệu đó. Nhưng, khi CCRĐ vừa xong, nông dân chưa kịp thụ hưởng
gì trên mảnh đất mới được chia, thì ĐCS đã vội lùa họ vào cái gọi là hợp tác xã
bậc thấp, rồi nhanh chóng đưa lên bậc cao, lấy ruộng của nông dân cho ban quản
trị, thực tế là ĐCS, quản lý; biến nông dân từ người chủ ruộng thành người “làm
công ăn điểm” để rồi “Mỗi người làm việc bằng hai/Để cho chủ nhiệm mua đài
sắm xe/Mỗi người làm việc bằng ba/Để cho chủ nhiệm xây nhà lát sân” v.v…
Vẫn chưa hết, đến năm 1980, sau khi ĐCS đã nắm quyền trên cả nước, Đảng liền
thảo Hiến pháp (HP) của cái gọi là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(CHXHCNVN), đưa ra điều 19 HP chuyển quyền tư hữu đất đai (tức là toàn bộ thổ canh
thổ cư, nói nôm na là ruộng đất) của nông dân và của nhân dân nói chung
sang cái gọi là “sở hữu toàn dân”! Tuyên bổ đất đai là “sở hữu toàn dân”, có
nghĩa là ĐCS đã “quốc hữu hóa” đất đai, hay nói chính xác hơn “đảng
hữu hóa” ruộng đất của nông dân và nhân dân. Từ đây, quyền tư hữu ruộng đất
của người dân hoàn toàn bị xóa bỏ, và ruộng đất bây giờ thực tế nằm trong tay
sở hữu của ĐCS là đảng độc tôn thống trị đất nước. Từ đây, ĐCS thực tế đã
tự biến mình thành một tên siêu đại địa chủ. Đến những lần sửa đổi
HP 1992 và HP 2013, điều khoản về đất đai vẫn giữ nguyên nội dung giống
như HP 1980, tức là tước đoạt quyền tư hữu ruộng đất của người dân,
nhất là nông dân. Từ nay, nông dân chỉ được Nhà nước chuyên chính vô sản cho
quyền sử dụng. Khi nào cần thì Nhà nước chuyên chính sẽ cưỡng chế tước đoạt
lại! Và cái lối “quốc hữu hóa”, nói đúng hơn là “đảng hữu hóa” này chỉ có
lợi cho đám quan lại CS cầm quyền ở các địa phương. Bọn này tha hồ áp bức nông
dân, cưỡng chế cướp đoạt ruộng đất của nông dân, tự biến chúng thành những địa
chủ mới, những cường hào đỏ, biến nông dân thành hàng triệu “dân oan” khốn khổ,
hàng chục năm trời đi khiếu kiện khắp các cửa quan một cách vô vọng, chịu biết
bao tủi nhục, bị đánh đập, thậm chí bị giết thê thảm. Đấy, sự lừa gạt bỉ ổi,
khủng khiếp nhất đối với nông dân là như vậy. Cái vết thương đau đớn này trên
cơ thể Dân tộc vẫn còn rướm máu mãi.
Một sự lừa gạt trắng trợn nữa là sau khi phát động cuộc nội chiến dưới chiêu
bài “giải phóng miền Nam”, để kích động người dân tham gia cuộc chiến, những kẻ
gây chiến phải ra sức nói dối, ra sức lừa gạt, nào là người dân ở miền Nam dưới
ách Mỹ Diệm bị khốn khổ vô cùng, nào là chế độ miền Nam độc tài, gia đình trị
ghê gớm, người dân không có chút tự do, xã hội thối nát, sa đọa, người ta còn
dựng lên biết bao chuyện bẩn thỉu, như tổng thống Diệm ngủ cả với em dâu, vợ
Ngô Đình Nhu v.v. và v.v… Ngày nay, sự thật như thế nào thì chắc mọi người đã
thấy rõ. Ngay trong ngày đầu tiên khi quân miền Bắc mới vào Sài Gòn, nhà văn
Dương Thu Hương, lúc bấy giờ là thanh niên xung phong, thấy và hiểu được Sự
thật, và chị đã ngồi bên vệ đường khóc ròng!
Còn biết bao chuyện lừa
dối, phỉnh gạt khác nữa không thể kể hết. Nào là “Nhà nước công
nông”, “nông” thì đã rõ như cái thí dụ vừa kể trên, còn “công” thì đồng lương
mà “Nhà nước công nông” trả cho công nhân, viên chức là “đồng lương bóc lột”,
“đồng lương chết đói”, thực tế chỉ đủ ăn trong mười ngày. Nào là “chuyên chính
vô sản”, thực tế có anh vô sản nào được xơ múi gì ở cái “chuyên chính” đó,
chung quy chỉ là một lũ quan tham lại nhũng tham quyền cố vị, thậm chí những
tay hoạn lợn, cai cao su, lưu manh đường phố… khoác cái áo “vô sản lưu manh”
(từ ngữ của ông Marx) chễm chệ ngồi trong Bộ Chính trị (BCT), làm TBT ĐCSVN,
làm Chủ tịch nước, làm bộ trưởng công an để nắm chặt “chuyên chính” mà đè đầu
cưỡi cổ “thằng dân”. Nào là “dân làm chủ, cán bộ là đày tớ của dân” – điều này
chẳng cần bình luận gì nữa, dân ta đã chế nhạo quá nhiều rồi. Nào là những hứa
hẹn huy hoàng trong “Chương trình Việt Minh”: xóa bỏ mọi thứ thuế, tự do ngôn
luận, tự do lập hội, tự do tín ngưỡng, dân chủ, tự do, hạnh phúc,… nhưng khi
ĐCS nắm chính quyền rồi thì tất cả những thứ đó chỉ là những lời nói suông. Nhà
báo Trần Đĩnh kể về “nghệ thuật” lừa đảo siêu đẳng của ủy viên BCT Tố Hữu trong
việc mua ngôi nhà của bà Lợi Quyền, một nhà tư sản ở Hà Nội đã từng quyên góp
nhiều vàng và nhà cửa cho ĐCS. Bà còn lại một ngôi nhà, Ban tuyên huấn TƯ muốn
mua; người ta đặt giá thì chê đắt không mua. Đùng một hôm, xe tuyên huấn chở
mấy bao tiền đến, đắt mấy cũng mua. Ba ngày sau, đổi tiền! Trần Đĩnh nhận xét
rất hay: “Tố Hữu, nguyên Trưởng ban tuyên huấn TƯ đã hạ thời cơ tuyệt hảo chấm
dứt cơ nghiệp đại gia tư sản Lợi Quyền có tiếng ở Hà Nội. Bằng giấy lộn. Ai cứ
bảo nhà thơ trên gió trên mây.”
Việc ĐCSVN cho công an
lập ra những tổ chức “kháng chiến” cuội, “phục quốc” cuội để đánh lừa thanh
niên yêu nước ở miền Nam, làm cho hàng nghìn người mắc bẫy để tống họ vào tù.
Đó cũng là một tội ác kinh tởm.
Trên đây là những chuyện
đối nội, còn về đối ngoại thì không thiếu chuyện ĐCSVN gian dối, lừa gạt trắng
trợn dư luận thế giới. Chuyện ông Hồ Chí Minh sang Pháp nói dối như thế nào,
nhiều người đã biết. Chẳng hạn, có tờ bảo hỏi thẳng: ông có phải là Cộng sản không? Ông Hồ chối đây đẩy: Không! Trả lời câu hỏi của báo
Journal de Genève, ông tuyên bố như đinh đóng cột: “Các bạn của chúng tôi không
nên lo chủ nghĩa Mác-xít sẽ du nhập vào đất
nước chúng tôi”. Trên báo Le Pays
ông cũng đã nói: “Những lý thuyết Mác-xít
không thể áp dụng ở nước chúng tôi được”. Còn trong cuộc phỏng vấn ngày 25-6-1946,
trả lời đảng viên Xã hội Pháp Daniel Guérin hỏi về cái chết của Tạ Thu Thâu,
ông Hồ đã nói như sau: “Ce fut un patriote et nous le pleurons... Mais tous
ceux qui ne suivent pas la ligne tracée par moi seront brisés”, tạm
dịch: “(Tạ Thu Thâu) là một nhà ái quốc, chúng tôi đau buồn khi hay tin ông
mất... Nhưng tất cả những ai không theo con đường tôi đã vạch đều sẽ bị tiêu
diệt”. Ông Hồ giả dối làm ra vẻ đau buồn về cái chết của nhà ái quốc Tạ Thu
Thâu, trong lúc đó chính ông ta biết quá rõ ai là người ra lệnh giết ông Thâu,
và chắc chắn ông ta cũng không thể quên ba bức thư ông gửi cho TƯ những năm
1937–38 chửi bới thâm tệ những người Trotskistes.
Việc ĐCSVN vi phạm Hiệp
định Genève 1954, để lại vũ khí, cài lại cán bộ ở trong Nam, vi phạm Hiệp định
ngừng bắn năm 1973, hay là những vi phạm thường xuyên các Công ước quốc tế về
nhân quyền, về chống tra tấn v.v. và v.v… càng nổi bật sự gian trá quen thuộc
của tập đoàn cầm quyền ĐCSVN. Có thể họ biện bạch rằng đứng trên lập trường vô
sản, đánh lừa quốc tế, tức là đánh lừa bọn đế quốc, là đúng đường lối giai cấp
và chỉ có lợi cho ta thôi. Họ không hề nghĩ rằng làm như thế là có hại cho quốc
thể, là tạo thêm nỗi quốc nhục cho Đất nước Việt Nam: đã mang danh tên ăn mày
quốc tế vác bị đi xin khắp thế giới lại còn muốn quàng thêm cái danh xưng thằng
bạc bịp quốc tế nữa thì thanh danh của Tổ quốc Việt Nam mãi mãi bị chôn vùi
dưới ba thước đất, làm sao còn ngẩng mặt lên trước thế giới văn minh được?
Điều thứ ba. ĐCSVN thực tế là
một đảng độc tài toàn trị, phản dân chủ. Ngay từ sau khi cướp được chính quyền,
để củng cố quyền lực độc tài toàn trị Đảng đã ra sức tiêu diệt mọi đảng phái
yêu nước có thể tranh chấp quyền lực với ĐCS hoặc đánh quỵ mọi thành phần có
tiềm năng chống đối để bảo đảm cái mà Lenin gọi là гегемония пролетариата,
tiếng Pháp là hégémonie du prolétariat, tức là địa vị độc tôn của giai cấp vô
sản, thực ra là của ĐCS (Hà Nội dịch là độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô
sản). Để bảo đảm cái địa vị độc tôn đó thì trong tất cả các cơ
quan nhà nước – lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong tất cả các
cơ quan chuyên môn, như bệnh viện, trường học, bảo tàng, nhà hát, rạp chiếu
bóng, v.v…, trong tất cả các đoàn thể xã hội, trong tất
cả các cơ quan truyền thông, tất cả các báo chí của
Đảng… đều phải do các đảng viên CS nắm giữ địa vị chủ chốt. Dù rằng ở một số bộ
và cơ quan nhà nước có thể có người ngoài đảng trên danh nghĩa là bộ trưởng, vụ
trưởng, giám đốc, v.v… nhưng đảng viên CS hay đảng đoàn CS những nơi đó vẫn là
người có thực quyền quyết định, còn các vị ngoài đảng chỉ “làm vì”. Đó là
nguyên tắc bất di bất dịch của Đảng. Đối với các lực lượng có tiềm năng chống
đối Đảng, tính ra chỉ còn giới trí thức và giai cấp tư sản thì ĐCS chủ trương
phải “cải tạo” họ. Ở nông thôn, từng lớp phú nông đã bị đánh gục trong CCRĐ
rồi, nên Đảng không lo. Học theo Trung Cộng, ĐCSVN chủ trương cải tạo trí thức
bằng cách “chỉnh huấn”, rập khuôn theo bài bản “chỉnh phong” của Mao Trạch
Đông. Trong “chỉnh huấn”, buộc những người trí thức phải tự bộc lộ, tự kiểm
điểm, tự xỉ vả những thói hư tật xấu của mình, họ còn phải khai báo về xuất
thân của mình, nếu thuộc về những giai cấp gọi là “đối tượng của cách mạng” như
địa chủ, tư sản… thì họ phải tố cáo, xỉ vả và căm thù ngay cả bố mẹ, ông bà mình.
Tất nhiên, đây là điều sỉ nhục lớn đối với người trí thức biết tự trọng, nhưng
nếu anh ta chịu đựng được thì tỏ ra rằng anh ta đã khuất phục giai cấp vô sản,
tức là ĐCS, và anh ta sẽ được Đảng sử dụng. Tuy vậy, Đảng vẫn không hoàn toàn
tin anh ta, còn những điều anh ta đã bộc lộ với Đảng thì Đảng ghi vào hồ sơ lý
lịch và theo dõi anh ta suốt đời. Hơn nữa, dù được Đảng sử dụng, nhưng bao giờ
Đảng cũng kỳ thị, phân biệt đối xử với trí thức. Cái đó gọi là “chủ nghĩa thành
phần”. Cái “chủ nghĩa” quái gở này áp dụng không chỉ cho cán bộ, nhân viên, sĩ
quan và binh lính, mà cả cho học sinh, sinh viên, nhất là khi xét duyệt cho họ
vào đại học hay đi nước ngoài. Cái “chủ nghĩa” này đã hủy diệt biết bao tài
năng của tuổi trẻ! Giáo sư Tạ Quang Bửu bị thất sủng chính vì đã phản đối cái
“chủ nghĩa” này.
Còn nếu người trí thức có
thái độ ngang bướng, không phục tùng Đảng, hoặc lời ăn tiếng nói không vừa ý
lãnh đạo thì Đảng sẽ mở trận đấu tranh không khoan nhượng. Đó là trường hợp đối
với các văn nghệ sĩ, các giáo sư trong vụ án “Nhân Văn-Giai Phẩm” hồi giữa
những năm 50 thế kỷ trước. Hậu quả của việc ĐCSVN đánh “Nhân Văn-Giai Phẩm” là
cả một nền văn hóa, giáo dục, văn học, nghệ thuật miền Bắc bị lụn bại, méo mó,
què quặt trong mấy chục năm ròng, và cả một lớp tinh hoa của dân tộc tiêu biểu
cho trí tuệ và sức sáng tạo đã bị đánh gục, bị vùi dập, bị dìm xuống bùn đen
trong nỗi sợ triền miên làm cho sự tiết tháo, nhân cách của giới trí thức miền
Bắc Việt Nam bị sa sút nặng nề. Đó là một tội ác của ĐCSVN đối với trí tuệ của
dân tộc.
Còn việc cải tạo công
thương nghiệp, chủ yếu là để tước đoạt (từ ngữ của Marx) phương tiện sản xuất,
cơ sở kinh doanh của giai cấp tư sản, lại là một đòn chí tử nữa ĐCS đã giáng
xuống những mầm mống đang lên của nền kinh tế non yếu của Đất nước làm cho nó
càng thêm suy bại.
Mặc dù ĐCS đã độc quyền
thao túng bộ máy cai trị gồm cả chính quyền lẫn các tổ chức và đoàn thể xã hội,
đã nắm chắc hệ thống chuyên chính vô sản, nhưng sau những sai lầm nghiêm trọng
trong CCRĐ, sau những sai lầm và thất bại nặng nề về kinh tế, xã hội, đã làm
cho đời sống người dân cực kỳ khó khăn, thua kém rất nhiều so với thời còn dưới
chế độ cũ, thì uy tín của ĐCSVN ngày càng sa sút trầm trọng. Vì thế, tập đoàn
cầm quyền CSVN thấy cần phải bắt chước ĐCSLX dưới thời trì trệ của TBT Brezhnev
đã đưa điều 6 vào HP LX 1977, thì họ cũng đã đưa điều 4 vào HP CHXHCNVN 1980.
Và sau này họ vẫn giữ nguyên cả trong HP 1992 và 2013. Đây là âm mưu dùng HP để
thể chế hóa sự độc quyền cai trị và địa vị độc tôn của ĐCSVN, siết chặt hơn nữa
chế độ độc tài toàn trị của một nhúm nhỏ mấy người trong BCT TƯ Đảng, nhằm chặn
đứng con đường dân chủ hóa xã hội, con đường đa nguyên, đa đảng và tam quyền
phân lập. Cho nên đòi hỏi của dân chúng, nhất là các nhà trí thức
và các chiến sĩ dân chủ phải xóa bỏ điều 4 HP là điều rất hợp lý và rất chính
đáng, vì điều 4 chi phối phần lớn những điều khác trong HP, chi phối toàn bộ
sinh hoạt của xã hội Việt Nam. Gần đây, Khối 8406 vận động cuộc biểu tình trên
mạng đòi xóa bỏ điều 4 HP cũng là một việc làm rất có ý nghĩa.
Cũng nên thấy rằng một
khi ĐCS cầm quyền buộc phải ghi điều đó vào HP thì chứng tỏ là chế độ thống trị
CS đã rệu rã, rung rinh và có cơ sụp đổ, vì thế tập đoàn thống trị phải dùng
điều đó để siết chặt hơn nữa nền thống trị CS. Trước đây, khi mới cầm quyền,
dân chúng còn hy vọng, còn tin tưởng vào ĐCS, họ không cần đưa điều đó vào HP
mà vẫn chuyên chính được. Bây giờ, hy vọng và tin tưởng đã mất hết, nên điều đó
là tối cần thiết cho kẻ thống trị. Cho nên TBT Nguyễn Phú Trọng và các ủy viên
BCT khác đều nói: “Bỏ điều 4 HP là tự sát!”. Nhưng đó cũng chính là tiên triệu
báo trước sự sụp đổ không xa của chế độ độc tài. Đấy, năm 1977, ĐCSLX đưa điều
6 vào HP thì 13 năm sau, Liên Xô sụp đổ và ĐCSLX tan tành! Vì thế, ngày nay,
các quan chức CSVN phải tính chuyện đường dài, họ bắt chước các lãnh tụ CS họ
Kim ở Bắc Triều Tiên, hay họ Castro ở Cuba, dần dần cài người thân trong gia
đình vào bộ máy lãnh đạo từ tỉnh lên đến TƯ để dùng lối cha truyền con nối mà
đảm bảo sự độc quyền thống trị của họ. Còn một cách nữa: chuyện mới xảy ra gần đây thôi. Theo báo Nhân
Dân ngày 29-1-2015, tại hội nghị cán bộ do Ban Tổ chức TƯ triệu tập ngày
27-1-2015, ông Tô Huy Rứa, ủy viên BCT, trưởng Ban Tổ chức TƯ đã cho biết cuộc
họp Ban Chấp hành TƯ lần thứ 10 vừa qua đã thông qua danh sách
gồm 290 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết cho Đại hội XII, và danh sách 22 ủy
viên BCT và ủy viên Ban Bí thư (BBT) cho khóa XII. Đây quả là một “sáng kiến tân kỳ”, chưa từng
thấy của ĐCSVN: bất chấp Điều lệ Đảng, toàn bộ nhân sự của ĐCSVN khóa XII sắp
tới đã được hội nghị TƯ Đảng lần thứ 10 khóa XI, gồm 197 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết khóa XI
quyết định xong xuôi. Toàn bộ danh sách các vị ủy viên trong BCT và trong BBT
khóa XII cũng quyết định xong. Như thế là hội nghị TƯ lần thứ 10 đã làm thay
cho toàn bộ quá trình đại hội từ cơ sở đến Đại hội toàn quốc lần thứ XII cả
trong việc ứng cử, lựa chọn, bầu cử các cấp ủy từ dưới lên trên cho đến Ban
Chấp hành TƯ, BCT và BBT khóa XII. Tập đoàn thống trị hiện nay cố đấm ăn xôi,
quyết bảo đảm cho kỳ được là tập đoàn cầm quyền sắp tới phải theo ý chí của họ.
Quả là một sự độc tài, chuyên quyền trắng trợn không thể tưởng tượng nổi.
Điều thứ tư. Hãy nhìn lại trong 85 năm qua, ĐCSVN đã làm được gì cho dân,
cho nước.
ĐCSVN rất thích kể công về thời trước. Mà nhiều khi cái “công” đó chưa hẳn là
công thật. Đảng thường tự hào là Đảng đã cướp được chính quyền từ tay Nhật,
Pháp, về sau gọi đó là Cách mạng tháng Tám. Nhưng lịch sử chứng minh rõ ràng đó
là sự dối trá: Việt Minh (tức là ĐCS) đã cướp chính quyền không phải từ tay
Nhật, Pháp, mà là từ tay Chính phủ Trần Trọng Kim. Chính phủ Trần Trọng Kim là
ai? Thực ra, họ không phải là “chính phủ bù nhìn” cho Nhật như Việt Minh và tờ
Cờ Giải Phóng của ĐCS đã vu cáo họ, mà là một chính phủ do vua Bảo Đại lập ra
sau khi Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945) gồm nhiều trí thức yêu nước nổi tiếng
trong cả nước, chẳng những họ có trí tuệ, có tư tưởng, mà còn có đức hạnh đứng
ra gánh vác việc nước vì mục đích giành độc lập thật sự cho Việt Nam. Vì điều
kiện phức tạp hồi bấy giờ, Chính phủ đó chỉ tồn tại trong bốn tháng thôi. Nhưng
trong thời gian ngắn ngủi đó họ đã làm được nhiều việc lớn: đã cố thu hồi đất
Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp, như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng nhằm
giữ được toàn vẹn lãnh thổ; đã tổ chức việc cứu đói cho dân miền Bắc; đã Việt
hóa nền giáo dục, và việc này đã có ảnh hưởng lâu dài cho cả những thời kỳ và
nhiều thế hệ sau này; đã cải tổ thuế má, tư pháp; đã vận động và tổ chức thanh
niên, sinh viên (tổ chức Thanh niên Tiền tiến) đưa thanh nên vào sinh hoạt
chính trị, xã hội… Đại diện của Chính phủ Trần Trọng Kim đã năm lần gặp đại
diện của Việt Minh (ĐCS) để bày tỏ lòng mong mỏi hợp tác với Việt Minh để cùng
lo việc nước, nhưng đại diện của Việt Minh đã khước từ vì chủ trương của ĐCS
là: ĐCS phải là đảng cầm quyền, duy nhất cầm quyền.
ĐCS thường kể công và tự hào đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi.
Nhưng cũng có lắm ý kiến bác lại rằng: nếu ĐCS có chính sách mềm dẻo hơn thì
chưa chắc đã cần phải đổ máu kháng chiến chống Pháp trong gần 10 năm. Nếu cứ
tiếp tục đứng trong Khối Liên hiệp Pháp (theo Hiệp định sơ bộ 6-3-1946) mà đấu
tranh thì cuối cùng Pháp cũng phải trả lại độc lập cho ta, giống như các nước
thuộc địa khác đã được Pháp trả lại độc lập, chẳng phải tốn máu xương mà còn
được độc lập sớm hơn ta nhiều. Đấy, cái “công” đó cũng chưa hẳn là công thật!
ĐCS còn tự hào đã lãnh đạo chiến tranh chống Mỹ giải phóng miền Nam. Nhưng cuộc
chiến Bắc – Nam, thực chất là cuộc nội chiến, mà những người lãnh đạo thân Mao
hồi đó, như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu… đã phát động, do sự
xúi giục và mưu đồ của Mao Trạch Đông: “Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được
nhờ”. ĐCSVN phải chịu trách nhiệm trước Dân tộc về cái tội đã phát động cuộc
nội chiến này gây ra biết bao đau thương, tang tóc, tốn biết bao máu xương của
Dân tộc: trên sáu triệu người đã bỏ mạng. Cái “công” này không phải là công mà
chính là tội, tội ác.
Về đối ngoại, từ chỗ suy tôn “Mao Trạch Đông là Lenin của thời đại ba dòng thác
cách mạng Á-Phi-La”, chửi Liên Xô là “xét lại hiện đại”, rồi lại kình địch với
Trung Quốc, chửi Mao, tiến hành chiến tranh với Campuchia Pol Pot, chiếm đóng
Campuchia, Lê Duẩn và ĐCSVN lại quay ngoắt chạy theo LX, tuyên bố coi LX là Tổ
quốc thứ hai (nhưng, thực ra trong nội bộ CSVN vẫn coi LX là “xét lại hiện
đại”) cốt để xin viện trợ nhằm tiếp tục chiến tranh, rồi ký kết Hiệp ước Tương
Trợ với LX. Đến khi bị Trung Cộng tung 300 nghìn quân đánh một trận trên suốt
đường biên giới phía Bắc, ĐCS lại chửi Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp, ghi
hẳn điều đó vào HP. Còn khi Liên Xô và các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và
Mông Cổ sụp đổ, ĐCSVN bơ vơ, bị cô lập hoàn toàn, thì nhóm chóp bu CSVN là
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng lại muối mặt bay đến Thành Đô
(3-4.9.1990) hạ mình khuất phục Trung Cộng, chui đầu vào dây thòng lọng của
Trung Cộng. Sau đó, CSVN lại tự nguyện quàng thêm vào đầu “vòng kim cô” “mười
sáu chữ vàng” của Giang Trạch Dân ban, mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc mới. Sở dĩ
nhóm chóp bu của ĐCSVN phải quy phục như vậy là vì muốn cứu cái chế độ độc tài
toàn trị của chúng, cứu cái địa vị thống trị của chúng trên đầu trên cổ người
dân. Từ đó đến nay, nhóm cầm đầu ĐCSVN tiếp tục tự biến mình thành những tên
“thái thú” nhượng đất, nhượng biển cho TQ; mặc cho Trung Cộng làm mưa làm gió
trên Biển Đông, cấm đoán, săn đuổi, đánh chìm tàu thuyền của ngư dân, bắn giết
ngư dân; mặc cho Trung Cộng làm sân bay, củng cố công sự trên các đảo Việt Nam
đã bị chúng chiếm; mặc cho chúng làm thêm những đảo nhân tạo… Còn trên đất liền
thì sao? Bất chấp sự phản đối của các nhà trí thức và nhân dân, ĐCSVN cho Trung
Quốc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, nơi xung yếu nhất của Tổ quốc, trên diện
tích hàng chục nghìn hec-ta rừng, với hai nhà máy Tân Rai, tỉnh Lâm Đồng và
Nhân Cơ, tỉnh Đak-Nông, với hàng nghìn công nhân, lao động Trung Quốc
đang chiếm cứ ở đó. Gần 80% các công trình quan trọng trên cả nước Việt Nam đều
do Trung Quốc trúng thầu xây dựng. Các tỉnh miền biên giới đã cho Trung Quốc
thuê trên 300 nghìn hec-ta rừng đầu nguồn của 18 tỉnh phía Bắc trong 50 năm.
Trung Quốc được phép lập nhiều khu dân cư nhiều nơi trên đất Việt Nam. Nền kinh
tế Việt Nam bị Trung Quốc lũng đoạn nặng nề. Văn hóa Trung Quốc cũng xâm nhập
sâu vào Việt Nam. Viện Khổng tử cũng đã khai trương tại Đại học Việt Nam. Một điều
đáng chú ý nữa là gần đây một đoàn cán bộ cao trung cấp của Đảng đã đưa sang
đào tạo ở Trung Quốc. Đó là chưa nói tới việc Trung Cộng còn tác động đến quyết
định chọn lựa các nhân vật quan trọng trong cơ cấu Việt Nam mà nhiều người đã
biết. Như vậy là với đường lối đối ngoại hiện nay, rõ ràng là nhóm cầm quyền
trong ĐCSVN đã phản bội lại quyền lợi của Đất nước và Dân tộc Việt Nam.
Về đối nội cần nói rõ rằng, trong lúc khuất phục Trung Cộng thì nhóm cầm quyền
ĐCSVN lại ra sức đàn áp những người yêu nước Việt Nam đứng lên đấu tranh đòi
Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam; đàn áp các cuộc biểu tình tố cáo và phản
đối những vi phạm bờ cõi và biển đảo Việt Nam, phản đối việc đưa giàn khoan dầu
vào lãnh hải Việt Nam. Thậm chí việc đồng bào kính viếng các tử sĩ Việt Nam
trong cuộc chiến Việt Trung 1979 cũng bị cấm cản, xua đuổi. Bộ mặt phản nước
hại dân của nhóm cấm quyền ĐCSVN ngày càng rõ rệt.
Về đối nội, trong 40 năm kể từ khi cuộc chiến tranh Bắc – Nam chấm dứt, một
thời gian dài với đường lối phiêu lưu, duy ý chí của tập đoàn Lê Duẩn, Đất nước
đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khốn khổ, dù Lê Duẩn luôn luôn huênh
hoang hứa hẹn mọi điều tốt đẹp. Đến thời “đổi mới” có dễ chịu hơn một chút,
kinh tế bắt đầu phát triển, nhưng ban lãnh đạo ĐCSVN vẫn bảo thủ, cứ khư khư
giữ chặt địa vị của mình, chỉ đổi mới về kinh tế, mà nhất định không đổi mới về
chính trị. Hơn nữa, đổi mới kinh tế mà Đảng lại cứ kiên trì cái phương châm
trái khoáy: “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, cho nên dù
có những tiến bộ về kinh tế nhưng đà phát triển không mạnh làm cho sự tụt hậu
so với các nước láng giềng trong khu vực, như Singapore,Thái Lan, Indonesia,
Malaysia, v.v… ngày càng lớn. Phải nói rằng ở Việt Nam chưa bao giờ nạn tham
nhũng, cửa quyền trầm trọng và tràn lan như bây giờ. Từ trên xuống dưới hiện
tượng tham nhũng rất phổ biến, nó làm cho nền kinh tế phải gánh chịu những
thiệt hại nặng nề, đồng thời làm cho cuộc sống người dân càng thêm khó khăn.
Đám cầm quyền luôn miệng nói tham nhũng đã trở thành quốc nạn, làm ra vẻ hò hét
chống tham nhũng, dọa sẽ “hốt, hốt hết”, nhưng tham nhũng vẫn không hết mà càng
nặng nề thêm. Vì sao? Vì cái chế độ cực quyền toàn trị không cho người dân cất
tiếng nói, không cho báo chí được tự do ngôn luận, cho nên cái gọi là quyền lực
thứ tư không thể nào phát huy tác dụng. Hơn nữa, dưới chế độ độc tài đảng trị,
không có tam quyền phân lập, không có tư pháp độc lập nên không thể trừng phạt
được những cán bộ đảng viên tham nhũng nắm giữ các địa vị cao. Biết bao nhiêu
vụ bị tố cáo đều đã “chìm xuồng”, mà có nhiều trường hợp các nhà báo dũng cảm
tố cáo thì lại vô tù.
Dưới chế độ toàn trị của ĐCS, quyền công dân cũng như quyền con người không hề
được tôn trọng, người dân không cảm thấy mình là người chủ của Đất nước, trong
lúc đó ĐCS lại o bế công an, cảnh sát, lại sử dụng bọn côn đồ trong việc đàn áp
dân lành, biến công an, cảnh sát thành những kiêu binh, tha hồ nhũng nhiễu,
hành hạ, đánh đập, tra tấn, thậm chí đánh chết người dân. Số người bị công an đánh
chết, bị tật nguyền không phải là ít. Trong khi đó, tệ nạn xã hội, rượu chè, cờ
bạc, xì ke ma túy, đĩ điếm lan rộng, chẳng những ở thành thị mà tràn lan đến cả
vùng nông thôn. Đạo đức xã hội ngày càng băng hoại đến nỗi tiến sĩ Hà Sĩ Phu đã phải kêu lên: “Hãy nhìn
vào thực tiễn xã hội: Có bao giờ người Việt Nam lại thờ ơ trước nguy cơ vong
quốc, nguy cơ bị đồng hóa như bây giờ? Có bao giờ sự thờ ơ trước đau khổ của
đồng loại, sự đâm chém, băm chặt nhau dễ dàng như cơm bữa, sự nhố nhăng mất
gốc, sự phô bày thú tính, sự vênh váo rởm đời, sự hành hạ người yêu nước một
cách ngang nhiên, sự nịnh bợ kẻ nội xâm và ngoại xâm… lại được tôn vinh trước
thanh thiên bạch nhật như bây giờ? Có bao giờ sự thành thật thua sự giả dối,
người lương thiện lại sợ kẻ gian manh, người yêu nước lại bị lép vế, bậc thức
giả lại bị cười khinh, công lý lại bị nhạo báng một cách thảm hại như bây giờ?”
Đấy, kết quả nhãn tiền của “đạo đức cộng sản” và việc “xây dựng con người mới,
xã hội chủ nghĩa” của Hồ Chí Minh và ĐCSVN như thế đó.
Điều thứ năm. ĐCSVN là một đảng rất bảo thủ, thủ cựu, muôn năm vẫn nhìn thế
giới, nhìn Đất nước và Dân tộc qua cái lăng kính Marx-Lenin quá cũ kỹ và lệch
lạc. Chủ nghĩa Marx-Lenin mà loài người đã vứt vào sọt rác hàng mấy chục năm
rồi, dân ở các nước vốn là nôi của chủ nghĩa đó đã vĩnh biệt nó từ lâu rồi, thế
mà cho đến ngày nay, từ đại hội Đảng kỳ này qua kỳ khác vẫn lặp đi lặp lại mãi
“phải kiên trì chủ nghĩa Marx-Lenin”. Nghe quá nhàm tai đến nỗi dân phải kêu
lên “mãi mãi cái loa rè”, “già rồi đâm lú”. Buồn cười nhất là dưới thời TBT Đỗ
Mười, ông ta vẫn nhai đi nhai lại “hai phe, bốn mâu thuẫn”, cái công thức từ
đời xửa đời xưa CS dùng để nhận định tình hình thế giới. Nhóm cầm quyền trong
Đảng cứ khư khư ôm cái cũ, không dám, và cũng không đủ trí tuệ, để nhận ra cái
mới, cái năng động của mầm non, cái tương lai, để dám đi những bước sáng tạo.
Cái thói quen của họ là bắt chước “hai ông anh”, cứ LX, TQ làm gì thì rập khuôn
làm theo. Ban lãnh đạo, nhất là BCT, BBT già cả không có sức sống của tuổi trẻ
để vươn tới trí tuệ, văn minh và tiến bộ, nên ĐCS mãi mãi lạc hậu, dù họ vênh
vang tự cho mình là “đỉnh cao của trí tuệ loài người”. Nhìn vào thực tế thì
thấy rõ ĐCSVN chống lại văn minh và tiến bộ, chống lại chế độ dân chủ đích
thực. Thế mà có ai đề xuất cái mới thì BCT đã vội kêu lên “đổi mới, nhưng không
được đổi mầu”. Đã thế, nội bộ ban lãnh đạo chóp bu luôn luôn gầm ghè lục đục
nhau, cấu xé nhau, và mỗi người đều lợi dụng chức, quyền để trục lợi và tham
nhũng!
Chỉ nêu lên năm điểm như thế thôi cũng đủ để mỗi người đảng viên còn
có tấm lòng trong sáng vì nước vì dân, có tinh thần tự trọng hãy tự mình lựa chọn: ánh sáng hay bóng đêm, đức hạnh
hay tội ác, dân chủ hay độc tài, văn minh, tiến bộ hay dã man, lạc hậu, vì Tổ
quốc và Dân tộc hay vì một đảng, thậm chí một nhúm độc tài… Mỗi người sẽ tự hỏi và tự quyết định: có nên tiếp tục ở trong cái ĐCS này nữa không hay rời bỏ nó? Cái đảng khủng bố, gây
chiến. Cái đảng phạm tội diệt chủng, phạm tội ác với loài người và với Dân tộc.
Cái đảng gian dối, lừa gạt, lật lọng. Cái đảng trong 85 năm qua đã gieo rắc bao
đau thương, tang tóc, khổ cực, tủi nhục cho mấy chục triệu con người. Cái đảng
đang tham quyền cố vị, bám vào quyền lực để thống trị Dân tộc và Đất nước. Cái
đảng đang thuần phục và rước kẻ thù vào nhà.
Ngày nay, ĐCSVN đang là
khối u ác tính bám vào cơ thể Dân tộc, cơ thể Đất nước. Nếu không dũng cảm làm
một cuộc phẫu thuật để vứt bỏ khối u đó đi mà để nó di căn thì Dân tộc và Đất
nước chắc chắn sẽ mất vào tay Trung Cộng đầy tham vọng bành trướng. Lẽ nào
người đảng viên còn có tấm lòng trong sáng yêu nước thương dân, có tinh thần tự
trọng mà không dám rời bỏ cái đảng tội ác đã phản lại cuộc cách mạng ĐCS từng
rêu rao và hứa hẹn?
Chính lúc này là lúc phải
quyết định! Rời bỏ cái đảng mang tội ác với dân, với nước này sớm được ngày nào
càng tốt ngày đó. Đừng có hy vọng là những kiến nghị hay ho, những đề nghị sáng
suốt, những yêu cầu thiết tha của các trí thức, các cán bộ, đảng viên, các lão
thành cách mạng, cũng như của nhân dân có thể chuyển hóa được được những cái
đầu đã bê-tông hóa của đám cầm quyền vì cái đít của chúng quen ngồi ghế cao bao
giờ cũng thích leo cao hơn nữa và bám chắc hơn nữa vào cái ghế của chúng. Đừng có hy vọng đại hội Đảng kỳ tới sẽ có thay
đổi gì tốt đâu. Câu nói dân gian khi xem tuồng chèo: “Vô ra vẫn thằng cha lúc
nãy!” Đại hội Đảng cũng chỉ là một lớp tuồng chèo, “vô ra vẫn thằng cha lúc
nãy” thôi.
Chúng tôi rất thông cảm có nhiều bạn đang phân vân, ngập ngừng, do dự. Đó là
điều rất tự nhiên trước một quyết định quan trọng. Nhưng khi đã dám quyết định
bước ra khỏi cái đảng độc tài, dối trá, tham nhũng này rồi, thì các bạn sẽ thấy
tâm hồn nhẹ nhõm, thoải mái lạ thường. “Vòng kim cô” trên đầu bạn sẽ biến mất
lúc nào không hay. Việc đó sẽ mở ra một chân trời mới để bạn có thể cống hiến
sức lực và trí tuệ của mình cho những công việc có ích cho Tổ quốc và Dân tộc.
Tin chắc rằng những người dũng cảm, như các anh Nguyễn Chí Đức, Phạm Đình Trọng
và nhiều người khác… đã ra khỏi ĐCSVN cảm thấy thấy nhẹ nhàng, rất thoải mái,
vì bây giờ các anh đã thực sự là những con người tự do.
6.2.2015