Liên quan đến biến cố 30 tháng Tư 1975, có một câu nói của một quan sát viên quốc tế mà tôi rất tâm đắc: “Không có ai chiến thắng cả. Tất cả đều là nạn nhân” (There were no winners, only victims).
Nhưng tại sao lại không có người chiến thắng?
Trước hết, không còn hoài nghi gì nữa, người miền Nam chắc chắn là những người thua cuộc và từ đó, là những nạn nhân không những của chiến tranh mà còn của hoà bình với hàng trăm ngàn người bị bắt đi cải tạo, hàng triệu người liều mạng vượt biển để tìm tự do và hầu như tất cả đều sống trong cảnh vừa lầm than vừa bị áp bức.
Mỹ cũng không phải là những kẻ chiến thắng. Nói cho đúng, họ thắng trong
cuộc chiến tranh lạnh với khối xã hội chủ nghĩa bằng việc phân hoá Trung Quốc
và Liên Xô đồng thời bằng cách vô hiệu hoá hiệu ứng liên hoàn, gắn liền với
thuyết domino vốn là nguyên nhân chính khiến họ tham dự vào cuộc chiến tranh ở
Việt Nam. Về phương diện quân sự, họ không thắng không bại: họ đã rút quân ra
khỏi Việt Nam mấy năm trước khi cuộc chiến tranh chấm dứt. Tuy nhiên, về phương
diện chính trị, họ đã thất bại trong nỗ lực bảo vệ một đồng minh là chế độ Việt
Nam Cộng Hoà ở miền Nam. Sau đó, về phương diện tâm lý, họ là những nạn nhân
với hội chứng Việt Nam, một ám ảnh đầy day dứt trong lương tâm của những người
từng tham chiến. Đó là chưa kể hơn 58.000 người lính bỏ mình tại Việt Nam cũng
như hàng mấy trăm ngàn người bị thương tật trở thành một gánh nặng trong xã hội
Mỹ.
Thế còn miền Bắc?
Đương nhiên họ là những người thắng cuộc. Thắng về quân sự: đánh bại được
quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Thắng về chính trị: thống nhất được đất nước sau 20
năm chia cắt. Tuy nhiên, bên cạnh những chiến thắng ấy, họ cũng gánh chịu không
ít thất bại. Những thất bại ấy làm cho chiến thắng của họ trở thành một tai hoạ
cho mọi người.
Trước hết, như là hệ quả của việc chà đạp lên hiệp định Paris, xua quân
cưỡng chiếm miền Nam, Việt Nam phải gánh chịu sự cô lập hoàn toàn với thế giới
bên ngoài. Trừ Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa, họ không có một người bạn nào
cả. Ngay cả với một nước đồng minh thân cận từng giúp đỡ họ cả mấy chục năm,
Trung Quốc, cũng biến thành kẻ thù với hậu quả là, ngay sau chiến tranh Nam
-Bắc chấm dứt, Việt Nam phải chịu đựng thêm hai cuộc chiến tranh mới: chiến
tranh với Campuchia và chiến tranh với Trung Quốc.
Hệ quả của tất cả những điều vừa nêu là, về phương diện kinh tế, Việt Nam
hoàn toàn kiệt quệ. Lạm phát tăng nhanh; nạn đói lúc nào cũng lởn vởn trước mắt
mọi người. Trong nhiều năm, ngay cả lúa gạo, nguồn thực phẩm chính và cũng là
điểm mạnh của miền Nam, cũng bị thiếu hụt nghiêm trọng. Dân chúng phải thường
xuyên ăn độn hoặc ăn bo bo để thế cơm. Việt Nam trở thành một trong những quốc
gia nghèo khó và chậm phát triển nhất thế giới.
Về phương diện xã hội, hầu như mọi người đều bị lâm vào cảnh khốn cùng. Mâu
thuẫn giữa hai miền Nam và Bắc càng lúc càng sâu sắc. Sự thống nhất chỉ có trên
phương diện chính trị và hành chính, nhưng về tâm lý, nhìn nhau, dân chúng giữa
hai miền vẫn đầy những nghi kỵ và đố kỵ.
Về phương diện chính trị, dân chúng không còn chút tự do nào cả. Tự do tư
tưởng: Không. Tự do ngôn luận: Không. Tự do cư trú và tự do đi lại: Không. Tất
cả các quyền tự do căn bản của dân chủ, từ tự do hội họp đến tự do thành lập và
tham gia vào đảng phái đều bị tước sạch.
Có thể nói, trong hơn mười năm, từ 1975 đến 1985, khi phong trào đổi mới
xuất hiện, ở Việt Nam, dân chúng trong cả nước đều chia sẻ nỗi bất hạnh chung
xuất phát từ việc miền Bắc thắng miền Nam. Không có gì quá đáng nếu chúng ta
nói, trừ giới lãnh đạo cộng sản, tất cả mọi người đều là nạn nhân của biến cố
30 tháng Tư 1975. Không phải chỉ những người bị bắt đi học tập cải tạo hoặc bị
lùa đi kinh tế mới mới là nạn nhân: Tất cả mọi người đều là nạn nhân. Không
phải chỉ những người bị bỏ mình trên biển mới là nạn nhân, ngay cả những người
may mắn vượt thoát và được định cư ở nước ngoài cũng là nạn nhân: họ phải xa
lìa tổ quốc để sống tha hương, không lúc nào nguôi nỗi khắc khoải trông ngóng
về đất nước cũ.
Nhưng nếu mọi người đều là nạn nhân, cuộc chiến tranh Nam Bắc vốn kéo dài
hai mươi năm có thực sự cần thiết hay không?
Bộ máy tuyên truyền của miền Bắc trước năm 1975 cũng như trong cả nước sau
năm 1975 nêu lên ba lý do chính tại sao miền Bắc phát động cuộc chiến tranh ấy:
Một, để giải phóng miền Nam; hai, để phát triển chủ nghĩa xã hội sang nửa phần
lãnh thổ còn chịu khổ nạn dưới ách “áp bức” của Mỹ và “nguỵ”; và ba, để đánh
bại sự “xâm lược” của “đế quốc” Mỹ.
Xin nói về nguyên nhân thứ ba trước. Đó chỉ là một nguỵ biện. Việc Mỹ đổ cả
nửa triệu quân vào miền Nam chỉ là để giúp miền Nam chống lại sự xâm lấn của
miền Bắc. Như vậy, nó chỉ là hậu quả chứ không phải là nguyên nhân. Nói cách
khác, nếu miền Bắc không mưu toan đánh chiếm miền Nam, chả có lý do gì để Mỹ đổ
quân vào miền Nam cả.
Về nguyên nhân thứ hai, người ta dễ dàng nhận thấy là hoàn toàn không chính
đáng. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước cộng sản tại Đông Âu, hầu như ai
cũng biết chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với áp bức và nghèo đói. Mở rộng chủ
nghĩa xã hội từ miền Bắc sang miền Nam, do đó, thực chất là việc xuất cảng áp
bức và nghèo đói. Đó là một tai hoạ.
Chỉ có nguyên nhân thứ nhất là cần phân tích kỹ. Trước hết, không ai có thể
phủ nhận sự cần thiết của việc thống nhất đất nước, một di sản của tổ tiên từ
ngàn đời trước. Đó là một mệnh lệnh của lịch sử, của đạo lý và của tình cảm.
Tuy nhiên, vấn đề là: sự thống nhất ấy có thể được thực hiện bằng cách nào và
được trả bằng giá nào? Nó có cần thiết để cả nước phải trải qua hai chục năm
chiến tranh tàn khốc với trên ba triệu người bị giết chết? Lịch sử cung cấp hai
bài học chính: Thứ nhất, Đông Đức và Tây Đức đã được thống nhất mà không cần
phải trải qua cuộc chiến tranh nào cả. Thứ hai, Nam và Bắc Triều Tiên đến nay
vẫn bị chia cắt. Nhưng sự chia cắt ấy được đền bù bằng mức phát triển cực nhanh
và cực cao của Nam Triều Tiên. Sự thống nhất không sớm thì muộn, không bằng
cách này thì bằng cách khác cũng sẽ xảy ra, nhưng khi nó xảy ra, Đại Hàn cũng
đã có một nền tảng kinh tế và chính trị vững chắc là Nam Triều Tiên (như trường
hợp của Tây Đức và Đông Đức). Ở đây, sự chia cắt không có gì đáng phàn nàn hay
ân hận cả.
Chúng ta
tưởng tượng: nếu miền Bắc đừng phát động chiến tranh thì tình hình chính trị
Việt Nam hiện nay sẽ ra sao? Thì tất cả những tai hoạ nêu lên ở phần đầu bài
viết này sẽ không có. Thì cả hai miền sẽ có hoà bình và nhờ hoà bình, sẽ được
phát triển nhanh chóng. Ngay cả khi hai miền Nam và Bắc chưa được thống nhất
thì, tuy về phương diện tình cảm, vẫn là một nỗi nhức nhối, nhưng trên mọi
phương diện khác, đó lại là một điều may mắn.