Tiếng hát của tử thần đã chiếm lĩnh những con đường đi
về nơi đất nước. (Cánh Thiên Nga – Tagore)
Bốn mươi năm trước, trong giờ khắc hấp hối khi quân đội miền Nam đã tan vỡ, dinh Độc Lập đã
thất thủ thì ngôi trường thiếu sinh quân nhỏ bé tại Vũng Tàu vẫn đứng vững,
oanh liệt giữa tiếng súng kháng cự trong những giờ phút cuối cùng của miền Nam.
Nhắc lại câu chuyện này tôi muốn mở đầu một chuỗi những mẩu chuyện về cách hành
xử đáng kính của những người trẻ trong các tình huống vô vọng mà tôi cho đó là
nhân cách, là di sản của dân tộc Việt. Một điều mà chúng ta phải nhìn nhận là
trong xã hội hiện nay di sản đó đang tiêu hao, mòn mỏi từng ngày.
Vào những ngày cuối tháng tư năm 1975, trường Thiếu Sinh Quân chỉ còn lại khoảng hơn 100 học sinh ở độ tuổi từ 8 đến 17. Những em này do nhà ở các tỉnh xa nên gia đình chưa đón về kịp. Khi được ban quản trị thông báo là các em phải tự lo cho chính mình, nhà trường đã hết trách nhiệm với các em; thoạt đầu, như đám gà con mất mẹ, bọn trẻ đã hoảng loạn, sợ hãi, bỏ chạy tứ tán. Thế nhưng cuối cùng, những đứa trẻ chưa thành người lính này đã tập họp lại, và đã đánh trả khi bộ đội Bắc Việt cho một tiểu đoàn quân chính qui tiến chiếm ngôi trường thân yêu của các em. Trận đánh kéo dài suốt sáu tiếng đồng hồ, cho đến khi các em nhận được tin Sài Gòn đã đầu hàng theo lịnh của tướng
Như thường lệ, hai thiếu sinh quân lớp lớn đã
tiến ra trước sân cỏ. Các thiếu sinh quân tuổi từ tám đến mười bảy tập họp
thành hai tiểu đoàn. Tất cả đứng nghiêm trước cột cờ, bắt súng chào và làm lễ
hạ Kỳ đúng theo lễ nghi quân cách. Đó là buổi lễ chào cờ cuối cùng, các em hát
quốc ca với những khuôn mặt đầm đìa nước mắt. Vừa mới hôm qua, dưới ngọn cờ này
các em đã được học tập, được đào tạo để mai kia trở thành những người lính sẵn
sàng ngã xuống dưới ngọn cờ để bảo vệ tổ quốc. Hôm nay mọi việc đã đổi thay!
Không ai có thể biết tâm trạng của các em lúc đó ra sao? Khi bài hát chấm dứt
và khi lệnh tan hàng của một em liên lớp 12 ban ra, thình lình những đứa trẻ oà
lên khóc, rồi cứ thế chúng ôm lấy nhau khóc nức nở!
Cùng lúc đó ở ngoại quốc, bản tin về Sài Gòn
thất thủ đến với các sinh viên VN du học như sét đánh ngang tai. Chị Bùi thị
Bạch Phượng một du học sinh tại Đức đã chia sẻ trong một bài viết của chị: “Tin khủng khiếp đến lúc trời còn tờ mờ tối,
sau một đêm khắc khoải, mất ngủ vì lo âu. Hồn tôi chơi vơi trong một khoảng
không nào đó, đôi bàn chân hình như đã lìa mặt đất, đầu óc trống trải, mông
lung. Ðến sáng hôm sau, bọn chúng tôi vào giảng đường đại học, tìm chút hơi ấm
từ bạn bè cùng chí hướng, nhìn nhau trong ngấn lệ, không biết chảy ra tự lúc
nào”.
Tại Pháp, như đoán trước định mệnh của đất nước, ba
ngày trước khi miền nam mất, sinh viên Trần Văn Bá cùng Tổng Hội sinh viên
Paris đã tổ chức “Ngày để tang cho chiến sĩ”. Trên đường phố Paris, gần 300
sinh viên du học đã đi tuần hành trong im lặng. Đầu chít khăn tang trắng, họ
lặng lẽ đi qua các đường phố của khu Latin rồi đứng lại trước tòa Đại Sứ Mỹ tại
công trường Concorde để phản đối sự bội bạc của người Mỹ trong chiến cuộc Việt
Nam!
Miền Nam mất, những sinh
viên du học như những đứa con côi cút mất lối về. Giấy thông hành của họ do
chính phủ VNCH cung cấp coi như hết hiệu lực, tất cả đều phải xin thông hành tị
nạn. Nhiều sinh viên ở Đức, ở Pháp đã kể lại cảm giác đau thương khi phải cầm
cuốn sổ thông hành mới với hàng chữ “Vô tổ quốc”. Tuy nhiên, những người trẻ bơ
vơ này chưa bao giờ coi mình là những người vô tổ quốc. Mỗi năm, vào dịp 30/4
các sinh viên này đã họp nhau lại, cùng thức sáng đêm để đi dán bích chương.
Cùng nhau tổ chức những đêm không ngủ và những buổi hội thảo về tình hình đất
nước, về thảm trạng thuyền nhân…
Vào đầu xuân năm 1976, Trần
Văn Bá và các sinh viên thuộc Tổng Hội sinh viên Paris đã cùng nhau tổ chức Tết
tại Hội Trường Palais de la
Mutualité với chủ đề “Ta Còn Sống Đây”. Nhiều anh chị sinh viên
đã bồi hồi kể lại nỗi xúc động của họ trong đêm đó. Hàng ngàn người có mặt đã
rơi lệ khi nghe sinh viên Trần Văn Bá cất tiếng hát lớn bài hát “Hồn Tử Sĩ”.
Lịch sử đã sang trang, thế giới đã quay mặt, quê hương đã mất dấu; nhưng xương
máu và những hy sinh của các thế hệ cha anh vẫn luôn hiện hữu và là ngọn đuốc
soi đường cho thế hệ trẻ. Khơi dậy được tình yêu nồng nàn đối với tổ quốc trong
lòng những sinh viên VN, Trần Văn Bá đã trở thành linh hồn của lớp người trẻ tị
nạn.
Là một thanh niên trẻ với bầu nhiệt huyết và
niềm khao khát được dấn thân cho quê hương, Trần Văn Bá tin rằng những chuyển
đổi đất nước chỉ có thể phát xuất từ Quốc Nội, anh tham gia lực lượng “Mặt Trận
Thống Nhất các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam” và xâm nhập về Việt Nam.
Anh bị cộng sản bắt và bị tử hình vào ngày 8/1/1985. Điều cuối cùng bạn bè còn
giữ lại là những suy tư anh viết trong thư gởi về Paris năm 1982: “ …Phần
tôi cũng bình thản thôi, cực thì có, nhưng tôi sống trọn vẹn với con người của
tôi, với quê hương nghèo đói. Con đường tôi chọn rất chông gai, nhưng dù sao
tôi cũng phải đi tới cùng…”
Tại
Nhật, sinh viên Ngô Chí Dũng khi ấy mới 24 tuổi, anh là con chim đầu đàn của Uỷ
Ban Tranh Đấu Cho Tự Do Của Người Việt. Sau khi miền Nam mất, trong tình cảnh
hoang mang cực độ của hầu hết các sinh viên du học tại Nhật, Ngô Chí Dũng đã
cùng một số anh chị em sinh viên làm việc ngày đêm để tranh đấu thành công hai
vấn đề bức thiết quan trọng lúc ấy. Thứ nhất là chính quyền Nhật đồng ý gia hạn
chiếu khán cho các kiều bào ta và các sinh viên đang sinh sống tại Nhật, thứ
hai những sứ quan Pháp, Bỉ, Anh
và Hoa K ỳ… đã hứa cấp chiếu khán cho bất cứ ai muốn đến các
quốc gia này định cư. Cùng với các sinh viên du học tại Nhật, Ngô Chí Dũng đã
tích cực giúp đỡ những gia đình thuyền nhân trong các trại tị nạn. Anh tốt
nghiệp nghành Kỹ Sư Hoá Học thuộc Viện Đại Học Meisei tại Tokyo năm 25 tuổi.
Nhưng cũng như Trần Văn Bá, Ngô Chí Dũng tin rằng sự chuyển đổi đất nước chỉ có
thể xảy ra tại môi trường Quốc Nội và với cái quan niệm rằng muốn giải quyết
vấn đề của đất nước thì chính mình phải nhập cuộc, chính mình phải đi đầu. Anh
bỏ lại cuộc sống êm đềm và một tương lai đầy hứa hẹn ở Tokyo để trở về với quê
hương. Anh tham gia “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam” và hy
sinh trên đường công tác.
Cách sống và hành xử của những người trẻ trong hoàn
cảnh tuyệt vọng của đất nước cho thấy một thế hệ thanh niên đầy nhân cách,
trong sáng và vững vàng. Một thế hệ kế thừa tinh thần Nguyễn Thái Học, những
con người sống có lý tưởng, có mục đích, có trách nhiệm với xã hội, có tình yêu
thương và niềm tin vào những giá trị tốt đẹp; do đó, dù ở trong hoàn cảnh vô
vọng họ không dễ dàng đánh mất chính mình. Và đó chính là di sản của một dân
tộc đã tồn tại qua hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử. Di sản đó đã khiến cả
một thế hệ thanh niên miền bắc sẵn sàng lao vào lửa đạn đến nỗi nhà thơ Hoàng
Trần Cương bảo nếu đem ghép những chiếc áo của đồng đội anh lại chắc cũng đủ căng
lên thêm một bầu trời. Và cô
giáo Nguy ễn Thị Mai thì bồi hồi viết trong nhật ký: “Chưa bao giờ máu gửi nhiều theo những lá đơn
/ Chưa buổi lên đường nào tình nguyện đông như vậy”. Nhưng đó là chuyện của
ngày xưa, ngày nay di sản của dân tộc Việt đang bị nhấn chìm trong một vùng nước
xoáy.
***
Chiến thắng 30/4/75 đã từng làm cả thế giới phải
cúi đầu nể phục một dân tộc anh
hùng. Trong niềm hân hoan của chiến thắng ngày ấy, không một
ai có thể tưởng tượng một dân tộc hào hùng, bản lĩnh lại có thể cam tâm chịu
nhục như ngày hôm nay. Một quốc gia độc lập với một quân đội hùng mạnh mà từ
lãnh đạo đến tướng tá đều câm lặng, khuất phục nhìn từng phần chủ quyền của đất
nước bị tước đoạt, bị mất trắng, mất đau đớn trong các hiệp ước với Bắc Kinh…
Thử hỏi một cuộc duyệt binh vĩ đại mừng 40 năm chiến thắng, với 6000 người tham
dự cùng các lực lượng võ trang và các khí tài hiện đại như lời Trung tướng
Nguyễn Trọng Nghĩa thì có ý nghĩa gì? chỉ thấy bật lên một niềm đau có chiến
thắng nào cay đắng đến vậy? Sau cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, hàng ngàn
những vành khăn tang đã chít trên mái đầu vợ con của người lính miền nam, hàng
ngàn những thanh niên miền bắc ra đi không trở lại, giấy báo tử rơi đầy mái rạ;
chỉ để đổi lấy một đất nước đói nghèo lệ thuộc, tụt hậu, lầm than…
Nhiều blogger trong nước nhận
định rằng di sản lớn nhất của 40 năm chiến thắng là sự sợ hãi, nhu nhược, hèn kém
và li tán. Dẫu sao tôi vẫn tin rằng di sản của 40 năm không thể nào vượt thắng,
không thể nào tiêu diệt được di sản của mấy ngàn năm dân tộc. Hãy nhìn những
khuôn mặt rất trẻ trong cuộc tuần hành cho cây xanh, hãy nghe Nguyễn Mai Trung Tu ấn 15 tuổi nói
về cái quyết tâm dành lại quyền con người của em. Giữa giòng xoáy của bạo lực và
sự sợ hãi, các em là những đốm lửa đủ sáng, đủ tin cậy, đang nương vào nhau để
thắp sáng và vực dậy di sản của dân tộc. Di sản đó không thể bị tiêu diệt khi
chúng ta còn những người con gái Việt trẻ trung kiên cường như Nguyễn Đặng Minh
Mẫn, Nguyễn Phương Uyên, Đỗ thị Minh Hạnh…khi chúng ta có những chàng trai bản
lĩnh, nhiệt huyết như Lê Qu ốc
Quân, Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hoà, Trần Vũ An Bình… Bạo lực, nghịch cảnh không
chỉ là rào cản ngăn chặn ước mơ của chúng ta, mà chính nó còn thúc bách con người
bước đến với ước mơ ấy. Trong ý nghĩa đó, mọi nguy cơ đều ẩn chứa một cơ hội,
một thách đố … Và chỉ trong nguy cơ con người mới động tâm tìm ra sức bật để
sinh tồn và để vượt lên một tầm cao mới.
Bốn mươi năm đã quá đủ để người
tù vừa rời khỏi trại giam vẫn vững vàng bước chân, để người dân ngừng lời than
oán cùng sát vai nhau đòi lại cái quyền làm chủ đất nước này. Hàng trăm người ở
Cam Ranh đã xuống đường đòi quyền được đối thoại, hàng ngàn người ở Bình Thuận đã
xuống đường đòi giải quyết môi trường ô nhiễm, hàng ngàn người ở Hà Nội đã tuần
hành để bảo vệ cây xanh, và hàng chục ngàn công nhân đã xuống đường để phản đối
điều 60 Luật Bảo Hiểm Xã Hội… Những bước chân dồn dập của người dân trên các nẻo
đường đất nước đang làm rung chuyển chế độ độc tài.
Tôi nghĩ đến Nguyễn Đặng Minh Mẫn, người thiếu
nữ vừa mới bị biệt giam tuần rồi và câu nhắn của cô qua một tù nhân lương tâm. Quả thật Minh Mẫn vẫn “ trước sau như một” .Tám năm tù với biết
bao nhiêu lần biệt giam không khuất phục nổi người thiếu nữ nhỏ nhắn này. Như
bao nhiêu người trẻ đang chịu trù dập, bách hại cho quê hương mình, Minh Mẫn chính
là cánh thiên nga trong lời thơ của thi sĩ Tagore và tôi tin rằng ban mai thế nào
cũng đến, bóng tối sẽ tan đi và tiếng đập cánh của thiên nga sẽ xé vòm trời rực
rỡ.
Nguyệt Quỳnh