Nguyễn Quốc Tấn Trung
Bằng một thay đổi rất nhỏ trong Luật Điều ước Quốc tế vào giữa năm 2016,
Việt Nam có ý định “lách” ra khỏi toàn bộ các văn kiện luật quốc tế. Kể từ đây,
họ có thể viện dẫn đạo luật này để chính thức từ chối thực thi các công ước
nhân quyền quốc tế khi cần thiết.
Các đại biểu Quốc hội bấm nút thông qua một đạo luật vào tháng 4/2016. Ảnh: Hoàng Long / VietNamNet. |
Đạo luật này được thông qua ngày 09/4/2016, thay thế cho luật năm 2005. Một
trong những sửa đổi quan trọng nhất của luật mới chỉ nằm vỏn vẹn trong 3 chữ mà
luật cũ không có:
“Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn
đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.” (Khoản
1, Điều 6).
Đây không phải là một thủ thuật pháp lý mới mẻ. Trên thực tế, nó được sử
dụng khá nhiều trên thế giới, với tên gọi là “bảo lưu ưu thế hiến pháp”
(constitutional reservation).
Bùa hộ mệnh
Bút sa, gà chết. Khi ràng buộc quốc gia mình vào các nghĩa vụ quốc tế, các
nhà đàm phán luôn luôn phải tìm cách bảo vệ đến mức tối đa chủ quyền quốc gia.
“Bảo lưu ưu thế hiến pháp” là một phương án mà họ có thể tính đến khi ký
kết các điều ước quốc tế.
Một trong nước đầu tiên áp dụng thủ thuật này là Hoa Kỳ vào năm 1988, khi
họ ký Công ước về Ngăn ngừa và Trừng trị Tội ác Diệt chủng. Cụ thể, chính phủ
Hoa Kỳ tuyên bố:
“Không điều khoản nào trong Công ước có thể bắt buộc Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ
thực hiện các hoạt động lập pháp hoặc hành vi nhà nước khác trái ngược với quy
định của Hiến pháp của Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ vốn được giải thích bởi Hoa
Kỳ”.
Dù gây tranh cãi lớn trong nước cũng như quốc tế vì có liên quan đến một
vấn đề nhân quyền quan trọng, điều này không gây bất ngờ cho giới quan sát.
Suốt nhiều năm trước đó, Quốc hội Hoa Kỳ đã cảnh báo Tổng thống Ronald
Regagan rằng họ sẽ chỉ chấp thuận thông qua công ước nói trên nếu Tổng thống làm
rõ với các nước khác rằng: Hiến pháp Hoa Kỳ luôn có vị trí tối cao trong việc
điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong lãnh thổ Hoa Kỳ, bất kể nghĩa vụ
pháp luật quốc tế của họ ra sao.
Dù nhiều quốc gia Châu Âu như Hy Lạp, Ireland, Norway hay Thuỵ Điển chính
thức phản đối phương pháp “bảo lưu ưu thế hiến pháp”, Hoa Kỳ vẫn thành công
trong việc duy trì hình thức nói trên.
Tuy nhiên, đôi khi chính phủ Hoa Kỳ cũng rơi vào tình thế “gậy ông đập lưng
ông” khi phản đối các bảo lưu tương tự của các nước khác.
Cũng vào năm 1988, Công ước Vienna về các Chất ma túy và Chất hướng thần bị
Colombia bảo lưu điều khoản dẫn độ với lý do rằng dẫn độ chính công dân nước họ
là vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp Colombia. Hoa Kỳ phản đối và cho rằng
Colombia đang “xem nhẹ nghĩa vụ của mình theo Công ước so với Hiến pháp quốc
gia”.
“Bảo lưu ưu thế hiến pháp” khiến cho việc xác định hiệu lực và trách nhiệm
thực hiện công ước của quốc gia bảo lưu rất mơ hồ, nếu không muốn nói là không
thể kiểm soát theo pháp luật quốc tế. Điều này là bởi quốc gia sở tại có thể sử
dụng công cụ pháp lý nội địa (vốn do họ nắm giữ 100% quyền kiểm soát, thậm chí
khi cần có thể thay đổi tùy ý), để phủ nhận nghĩa vụ quốc tế đã cam kết bất kỳ
lúc nào.
Phương pháp này trở nên ngày càng phổ biến, đặc biệt đối với các Công ước
liên quan đến quyền con người.
Năm 1990, Hàn Quốc muốn bảo lưu ưu thế hiến pháp đối với Công ước Quốc
tế về Quyền Dân sự và Chính trị. Chính phủ Anh khi đó đã phản đối vì cho rằng
họ không thể hiểu được với điều khoản bảo lưu như vậy thì hiệu lực của Công ước
ở Hàn Quốc sẽ như thế nào.
Với áp lực ngoại giao từ chính phủ Anh, Hàn Quốc đã rút lại hai bảo lưu của
mình.
Việt Nam – “kẻ ăn gian” thầm lặng
Việt Nam thường được biết đến là một quốc gia thân thiện và tích cực tham
gia các công ước quốc tế, nhưng việc thực hiện các công ước quốc tế, đặc biệt
trong lĩnh vực nhân quyền luôn nhận được một dấu hỏi lớn từ các chuyên gia lẫn
người dân trong nước.
Trong Luật Ký kết và thực hiện Điều ước quốc tế tiền nhiệm, chúng ta không
có dòng chữ “trừ Hiến Pháp” như đã trình bày ở đầu bài. Tức là ở mức độ nào đó,
chúng ta chấp nhận rằng điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có
hiệu lực cao hơn Hiến pháp.
Điều đó đã không còn đúng nữa kể từ ngày 01/7/2016, khi Luật Điều ước Quốc
tế mới có hiệu lực. Nói cách khác, Điều 6 của Luật Điều ước Quốc tế là một
tuyên bố “bảo lưu ưu thế hiến pháp” cho toàn bộ mọi điều ước mà Việt Nam là
thành viên.
Điều khoản luật này tương đối nguy hiểm vì ba lý do.
Một là, Việt Nam
tránh đi việc phải công khai đưa ra từng bảo lưu và tiếp nhận những phản hồi,
đánh giá của cộng đồng quốc tế. Như đã trình bày ở trên, việc đưa ra tuyên bố
bảo lưu và tiếp nhận các ý kiến phản đối, ủng hộ bảo lưu có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong mối quan hệ quốc tế, tạo cơ chế thảo luận, trao đổi thông
tin giữa các chính phủ và từ đó tạo nên một điều ước có thể kiểm tra, giám sát
và thực hiện trên thực tế. Tạo ra một điều khoản “bảo lưu ưu thế hiến pháp” bên
trong pháp luật nội địa không những đi ngược lại các giá trị pháp luật quốc tế,
mà còn đặt một câu hỏi lớn cho thực tế thực hiện của các công ước đó.
Hai là, quy định này khiến chính phủ Việt Nam toàn quyền
kiểm soát phương thức thực hiện các nghĩa vụ quốc tế nói chung và các nghĩa vụ
nhân quyền nói riêng, mà không cần quan tâm đến nội dung nghĩa vụ thật sự của
Điều ước (nếu chính phủ muốn như thế).
Giả sử, khi bạn đọc trong Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị
rằng:
“...Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền đó là có
lý do và theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã quy định.” (Khoản 1, Điều
9).
Điều bạn đang thật sự đọc là:
“…Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền đó là có
lý do và theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã quy định – trừ trường hợp
Hiến pháp Việt Nam có quy định khác”.
Hay rõ ràng hơn, khi bạn đọc thấy rằng:
“Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp”
(Khoản 1 Điều 19).
Điều bạn đang thật sự đọc là:
“Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp
– trừ trường hợp Hiến pháp Việt Nam có quy định khác”.
Trong khi đó, Hiến pháp Việt Nam lại tạo ra một khoảng trống vô biên cho
nhà nước giải thích mà không có cơ chế bảo hiến nào. Ví dụ:
“Điều 25: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền
này do pháp luật quy định.“
Ba là, điều
khoản này xung đột với Công ước Vienna về Luật Điều ước Quốc tế, mà Việt Nam là
thành viên từ năm 2001. Điều 27 của Công ước này quy định rõ: “Một bên không
thể viện dẫn những quy định của pháp luật trong nước của mình làm lý do cho
việc không thi hành một điều ước.”
Với những phân tích nói trên, rõ ràng, trong tương lai gần, các nhà lập
pháp và luật gia Việt Nam cần nghiêm túc xem xét lại phương án “bảo lưu ưu thế
hiến pháp” trong pháp luật quốc gia như thế này.
Tài liệu tham khảo:
- Chương “Reservation”, Modern Treaty Law and Practice, Anthony Aust, Cambrigde University Press, 2013.
- Chương “International Transaction”, Brownlie’s Principle of Public International Law, Jame Crawford, Oxford University Press.
- Luật Điều ước Quốc tế 2016
Nguồn: Theo Luật Khoa