12 février 2017

"Vợ bạn tôi được ông Nguyên Hồng dự giờ và cũng được ông khóc đấy!"




(GDVN) - Nhà giáo Phạm Toàn kể cho bạn đọc nghe câu chuyện một gia đình truyền thống làm thầy khiến ông luôn phải nghĩ và các việc ông đang làm cho giáo dục nước nhà... 


LTS – Nhà giáo Phạm Toàn gửi đến Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài viết mới của ông, giới thiệu cách làm giáo dục của nhóm Cánh Buồm tiếp theo 5 bài trước đã được chúng tôi đăng tải

Xin trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc. Văn phong và nội dung bài viết thể hiện quan điểm của tác giả và nhóm Cánh Buồm.


Vậy là từ 1 tháng 1 năm 2017 cho đến 30 tháng 1 năm 2017, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đã gửi bạn đọc 5 bài trong loạt bài giới thiệu Cách Suy nghĩ và Cách Hành động của Nhóm Cánh Buồm. 


Nhà giáo Phạm Toàn (bên trái) kể câu chuyện về làm giáo dục của mình. Ảnh Hồng Thủy





Bài thứ nhất “Cải cách nhà cải cách …” giới thiệu chung về nhóm biên soạn sách giáo khoa xã hội hóa này. Ý tưởng của bài này là: Muốn đổi mới thực sự nền Giáo dục, trước hết cần thay đổi đầu óc nhà “cải cách”.

Ý tưởng này gợi ý cho nhiều hành động khác trong xã hội, chẳng hạn như: đầu óc tiểu nông không thể làm ra một nền nông nghiệp phát triển ở đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng.



Bài thứ hai “Định nghĩa lại khái niệm Giáo dục …” giới thiệu quan điểm gốc cho mọi đổi mới sự nghiệp Giáo dục phổ thông. Định nghĩa này xác định nhà trường là nơi tổ chức sự trưởng thành của thanh thiếu niên cả dân tộc.

Định nghĩa này mang tư tưởng tổ chức việc HỌC của thanh thiếu niên thay cho việc DẠY các em.
   

Bài thứ ba “Giáo dục tạo nên sự trưởng thành về tư duy …” nói về mục tiêu tạo ra sự trưởng thành vào đời của người thanh niên.

Bài này nhói rõ phương thức nhà trường phải tạo ra một trình độ tư duy trên đủ ba mặt: khoa học, nghệ thuật, và chính trị-xã hội cho thanh niên, coi đó như là “sự ra đời lần thứ hai” về tinh thần của con người sau cuộc ra đời lần thứ nhất mang tính sinh vật học. 
  

Bài thứ tư “Bản chất của việc học …” nói rõ quan điểm lý luận của nhóm Cánh Buồm: việc học của con người có bản chất là TỰ HỌC. 


Tủ sách Tâm lý học giáo dục Cánh Buồm giới thiệu dần những công trình nghiên cứu cho thấy tự học là hành động con người có từ phút thứ nhất sau khi chào đời.

Nhóm Cánh Buồm lấy đó làm căn cứ lý giải con đường TỰ HỌC – TỰ GIÁO DỤC của trẻ em và thanh thiếu niên.     

Bài thứ năm “Cách tổ chức tự học Văn và Tiếng Việt …” bắt đầu dưa ra những nguyên tắc chỉ đạo việc tự học hai môn học khó nhất ở trường phổ thông là môn là Văn và môn Tiếng Việt. 


Nguyên tắc 1 liên quan đến người học: tự học là làm lại những hành động của người đi trước (nhà khoa học, người nghệ sĩ, nhà hoạt động chính trị-xã hội).

Nguyên tắc 2 liên quan đến nhà sư phạm là nghiên cứu những việc làm và thao tác để học sinh làm lại đúng bản chất các hành động của người đi trước.

Nguyên tắc 3 liên quan đến toàn xã hội: tôn trọng năng lực tự đánh giá của học sinh thay cho những đòi hỏi về thi cử, điểm số, khen chê…  


Kỳ này, Cánh Buồm xin giới thiệu tiếp bài viết về Chương trình học và nhiệm vụ từng bậc học.

Khi đọc bài này, kính mong bạn đọc chú ý đến việc nhóm Cánh Buồm định nghĩa lại những khái niệm quen thuộc mà xưa nay nhiều “nhà cải cách” và nhà sư phạm vẫn coi như chuyện hiển nhiên.


Chút lan man mở đầu


Cho tôi được kể câu chuyện vợ chồng bạn tôi, hai nhà giáo dạy giỏi, sau này có cô con gái đầu lòng cũng là giáo viên dạy giỏi… 

Chuyện một gia đình mà cứ buộc tôi ngẫm nghĩ, thấy nó như một giọt nước mà hình như có thể giúp ta hình dung được sự vật lớn có tên gọi là nước. 

Hai vợ chồng dạy học ở một vùng quê Bắc Giang với những đồi thông yên tĩnh. Anh khoe rằng nhà văn Nguyên Hồng từng dự giờ dạy Văn của chị, và nhà văn này đã… khóc. 

Tôi từng được nghe nhà văn Kim Lân thích kể giai thoại ông Nguyên Hồng hay khóc và ông Thế Lữ hay cười. 

Về ông Nguyên Hồng đây là chuyện tôi nhớ nhất. Một lần phải phát biểu long trọng, anh em dặn không được khóc. Tác giả "Những ngày thơ ấu" lên nói một lúc rồi dừng lại, mếu máo, “anh em dặn rồi, tôi vẫn nhớ, nhưng cho tôi khóc tí …” và ông ngồi thụp xuống, khóc hu hu…

Thế mà vợ bạn tôi được ông Nguyên Hồng dự giờ và cũng được ông khóc đấy!  

Nói tiếp chuyện hai ông bà giáo từ những năm 1960 thế kỷ trước. 

Dạy học ở một vùng quê yên tĩnh nên hai ông bà rất đông con. Năm đứa con theo nhau chào đời. Nên cô chị cả ở nhà bế em suốt. Cô chị cả mầy mò tự học. Và rồi cô vào thẳng lớp 5. Học hết lớp 10, vào đại học, cô sinh viên này mới 16 tuổi. 

Cô nàng lại tiếp tục là sinh viên giỏi. Được học cao học, được giữ lại trường. Rồi được làm tổ trưởng bộ môn – liên tục không xa nghề dạy học, từ hiệu trưởng Mẫu giáo tư gia đến giảng viên chính Đại học. 

Nhà giáo Phạm Toàn chia sẻ với giáo viên Trường Olympia về bộ sách Cánh Buồm. Ảnh do tác giả cung cấp.



Có lần, tôi hỏi cô: “Mẹ cháu dạy giỏi, bố cháu dạy giỏi, vậy thế nào là dạy giỏi? Khi cháu tự học hết lớp 4 rồi lên thẳng lớp 5, cháu thấy hai lớp học đó khác nhau ở chỗ nào?

Suy ra nữa, Tiểu học, Trung học, Đại học, Cao học… khác nhau ở chỗ nào?" Và nhiều câu hỏi khác, cô tiến sĩ 50 tuổi đáp gọn lỏn “để ý làm gì!”

Nhiều năm sau, tôi đem câu trả lời của một “giọt nước” đủ làm tràn ly ra bàn luận. Nhóm Cánh Buồm đã thảo luận chuyện này. Và nhóm muốn cùng tìm ra câu trả lời có tính chất lý lẽ cốt lõi để mà thảnh thơi làm những việc đang làm. 

Từ giọt nước ấy, nhóm đã thảo luận và thử giải đáp những câu hỏi hết sức quan trọng này: Tại sao đổi mới Giáo dục lại bắt đầu với chương trình học và sách giáo khoa? Thế nào là một chương trình học đổi mới? Thế nào là một bậc học đổi mới? 


Chương trình giáo dục


Xưa nay ta quen nói chương trình học, đó là thói quen xuất phát từ nỗi lo tổ chức nắm bắt kiến thức. 

Mối quan tâm đổi mới Giáo dục của Việt Nam có lẽ bắt đầu với Hoàng Xuân Hãn. Chương trình học do Hoàng Xuân Hãn đề xuất gắn bó chặt chẽ với công trình Danh từ khoa học của ông. [1]

Cuốn sách với gần 6 nghìn từ (tiếng Pháp) về Toán, Lý, Hóa, Cơ, Thiên văn… được chuyển nghĩa sang tiếng Việt có giá trị phương pháp luận hơn là một cuốn Từ điển.

Tác giả bàn nhiều đến cách dịch hơn là giải nghĩa các từ kèm theo cách dùng trong văn cảnh, như đòi hỏi của một cuốn từ điển. 

Nỗi lo chương trình học thời đó (kéo dài sang nhiều thời gian về sau) gắn với việc tìm cách cho học sinh nắm bắt kiến thức. 

Nỗ lực học bằng tiếng Việt thay cho học bằng tiếng Tây có phần mang khao khát dân tộc độc lập, nhưng có phần lo lắng tìm cách sao cho học sinh dễ nắm vững kiến thức, để có nhiều kiến thức. 

Kiến thức, kiến thức, kiến thức!

Nhóm Cánh Buồm chỉ thay đổi một chút: cách đi tìm kiến thức. 

Nên người, nên người, nên người! 

Đó vẫn là cách kéo dài cách tư duy ngàn đời: Ai ơi muốn nên thân người, lắng tai nghe lấy những lời mẹ ru … Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy … Bảy mươi học bảy mốt … Nhất tự vi sư bán tự vi sư (Hơn ta một nửa chữ cũng là thày dạy ta được)…

Nhóm Cánh Buồm chỉ thay đổi một chút: cách học để nên người. 

Chương trình giáo dục của nhóm Cánh Buồm làm công việc tổ chức sự trưởng thành của thanh thiếu niên.

Chương trình giáo dục Cánh Buồm tổ chức sự trưởng thành về tư duy cho thanh thiếu niên. 

Một sự trưởng thành về tâm trí, như một sự ra đời lần thứ hai của con người. Lần ra đới thứ nhất do Giời Đất và Cha Mẹ sinh ra. Lần ra đới thứ hai do cách học – cách Tự học-Tự giáo dục – của một nhà trường kiểu khác, sao cho mình tự sinh ra chính mình, mình tạo nên sự trưởng thành của chính mình.

Như vậy là, nhóm Cánh Buồm cũng chỉ thay đổi một chút đối với khái niệm chương tình giáo dục. Đó không thể và không còn là một “khung kiến thức” nữa, dù là một “khung” chuẩn, hết chê!

Chương trình giáo dục sẽ gồm ba thành tố: Kiến thức – Cách tìm kiến thức – Cách dùng kiến thức. Cái dễ đánh lừa ta, đó là cái yếu tố Kiến thức.  

Nhóm Cánh Buồm coi kiến thức chỉ như một phép thử. Tổ chức cho người học đi tìm kiến thức.

Nhưng phải có cách tìm đúng thì được kiến thức đúng – và phải có kiến thức đúng thì có cách dùng đúng, xứng đáng với con người trưởng thành. 






Như vậy, vẫn có cái trục là chương trình học, hoặc chương trình “kiến thức”, nhưng tư tưởng bao trùm phải là một chương trình giáo dục, hoặc một lý tưởng đào tạo. 

Tùy theo trình độ tư duy và năng lực tổ chức của những tác giả khác nhau mà lý tưởng đào tạo có thể khác nhau ngay trong một quốc gia. 

Chính vì thế mà chủ trương một chương trình nhiều bộ sách tuy đã là một bước tiến lớn so với sự độc quyền một bộ sách. Song sẽ là tiến bộ hơn rất nhiều nếu chủ trương nhiều chương trình nhiều bộ sách.

Bởi vì lý tưởng dào tạo của các tác giả khác nhau về tầm nhìn và năng lực tổ chức thực hiện tầm nhìn của mình.


Nhiệm vụ của từng bậc học


Ta hãy trở lại tiếp với câu hỏi đã từng đặt ra với cô bé và sau là cô tiến sĩ 50 tuổi: giữa lớp 4 và lớp 5 có gì khác nhau? 

Đây là một câu hỏi thường không được đặt ra, như ta từng thấy trong lịch sử phát triển nền Giáo dục nước nhà.

Trong quá khứ, cả nhà sư phạm và người dạy thường chỉ nhận ra chỗ khác nhau ở chỗ lớp 5 thì cao hơn lớp 4, học lớp 5 thì khó hơn lớp 4.

Nhiều người cũng chỉ nhìn câu hỏi như chuyện thoảng qua: hết Tiểu học đến Trung học, hết Trung học thì đến Đại học, và cao hơn nữa. Ít ai chú ý việc cầm quan và cách chiến trận của tiểu đoàn khác với cấp đại đoàn như thế nào. 

Nhóm Cánh Buồm ngay từ khi ra đời đã cùng nhau tự giải đáp những câu hỏi đó, mà kết quả là xác định được nhiệm vụ từng bậc học. 

Có xác định được nhiệm vụ bậc học thì mới xác định được cách học (cách tìm kiến thức, như ở sơ đồ bên trên).

Cơ quan UNESCO từ những năm 1970 đã liên tiếp cho ra đời những sách như Học cách học (Apprendre à apprendre, Learning to l earn), rồi Học cách sống (Apprendre à être, Learning to be), và cả Học cách chết (Apprendre à mourir, Learning to die). 

Nhưng đó là những sách bàn về triết học giáo dục chứ chưa đủ để là những sách về tổ chức cách học liên quan đến điều đang bàn trong bài viết này: chương trình học và nhiệm vụ bậc học. [2]

Một cách ngắn gọn nhất, cách thức nhóm Cánh Buồm hiểu để làm liên quan đến nhiệm vụ bậc học được phát biểu như sau.

Học sinh tiểu học, hình minh họa: Báo Nhân Dân.



Bậc tiểu học là bậc học phương pháp học. Phương pháp tự học (trong đó có yếu tố tự đánh giá) được hình thành dần trong suốt bậc tiểu học. Cuối bậc tiểu học, người học đã đạt mức độ trưởng thành đầu tiên, biết cách học. 

Biết cách học là biết cách làm chủ từng đối tượng theo cách tồn tại khác nhau của từng đối tượng đó:

Tiếng Việt có cách tồn tại ngôn ngữ học. Văn chương có cách tồn tại ẩn dụ, đặc trưng của mọi tác phẩm nghệ thuật. Ngoại ngữ có cách tồn tại của một công cụ để thâm nhập vào một nền văn hóa xa lạ.

Môn khoa học có cách tồn tại trong những thực nghiệm khách quan đủ sức tạo ra tư duy thực chứng khi học tiếp ở cấp trên. v.v…[3]

Lấy thí dụ: môn Tiếng Việt bậc tiểu học Cánh Buồm cho học sinh học cách nghiên cứu Ngữ âm học (lớp 1);

cách nghiên cứu sự phát sinh và phát triển của Từ vựng (lớp 2) đi từ lời nói bằng tín hiệu sang lời nói thuần Việt với các dạng từ ghép và từ láy, sang từ Hán Việt và từ mượn của phương Tây; [4]

Cách nghiên cứu lô gich của Cú pháp (lớp 3) sang cách áp dụng lô gich cú pháp vào đoạn văn và bài văn (lớp 4)…

Để từ lớp 5 các em đã có điều kiện học những yếu tố cơ bản của cách biểu đạt khoa học (dùng các khái niệm), hành chính (dùng các quy định minh bạch), và xã giao (dùng từ đồng nghĩa và các biểu đạt động nghĩa). 

Bậc trung học cơ sở (dùng theo tên gọi hiện thời) là bậc dùng phương pháp học đã được trang bị để tự tìm kiến thức.

Kiến thức tự tìm ra ở bậc học này phải vừa đủ về khối lượng và cả chất lượng hành dụng để một trang thanh niên học xong lớp 9 đủ sức vào đời. 

Việc vào đời được giả định theo ba hướng. Có em sẽ vào đời theo cách lao động để kiếm sống.

Đó là cách vào đời bình thường, lành mạnh, và con trai con gái của cả dân tộc không thể chạy đua nhau vào đại học (và thất nghiệp sau đại học). 

Việc vào đời cũng có thể là vào học thêm ở trường nghề (cũng là để được lao động “có giá” hơn). 

Và sau nữa, có con đường vào đời cho những học sinh lớp 9 có tư chất và có ước vọng đi theo con đường nghiên cứu.

Vậy là, theo lô gich đó, nhiệm vụ bậc trung học phổ thông (theo cách gọi hiện nay) sẽ là bậc tập nghiên cứu.

Vì học lên đại học sẽ phải là bậc hoàn toàn tập độc lập nghiên cứu. Nó cũng có nghĩa là điều bàn luận lâu nay về tổ chức đại học nghiên cứu hình như hơi lạc đề – tách ra như vậy, chẳng hóa ra thừa nhận có những trường đại học không nghiên cứu sao? 

Nhóm Cánh Buồm mạnh dạn đề nghị bậc trung học phổ thông này nên do các trường Đại học tự tổ chức, coi đó là bậc Dự bị đại học chuyên ngành. Làm cách này sẽ tiết kiệm thời gian và tiền bạc và nâng cao được chất lượng cho “đại học nghiên cứu”.

Xin được nhắc lại ở đây sơ đồ tổ chức giáo dục [5] đã có lần được Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam giới thiệu: [6]





Có tự học được không?


Nếu bạn đọc chú ý sẽ thấy tinh thần xuyên suốt của nhóm Giáo dục Cánh Buồm là tinh thần tổ chức dần dần quy trình tự học – tự giáo dục cho học sinh. 

Đó có là ảo tưởng không? Hết tiểu học, con em chúng ta sẽ biết cách tự học. Từ lớp 6 trở đi, việc học tiến hành hoàn toàn bằng con đường tự học. Chủ trương như vậy có liều lĩnh quá không?

Nếu không bắt tay vào việc áp dụng sách Tiểu học Cánh Buồm, nếu cứ quen nếp cũ và suy nghĩ miên man, thì chẳng có ý tưởng nào có thể thành hiện thực hết. 

Nhóm Cánh Buồm thông qua một vài cơ sở thực hành đã cho những kết quả nhìn thấy được. 

Học sinh lớp 2 làm thơ haiku – điều vẫn được coi là khó ngay cả với sinh viên đại học khoa Ngữ Văn. Đúng là khó thật, nếu giáo sư cứ giảng giải hoài về vẻ đẹp Thiền của thể thơ Nhật Bản đó. Đúng là bài thơ sau mang dáng “thiền” thật:


Một đóa hoa rụng
     đang bay trở về cành?
          ô, không phải
    Một con bướm trắng!
(Moritake)


Sách Văn lớp 2 Cánh Buồm dùng chính bài thơ mẫu ấy để huấn luyện trẻ em thao tác tưởng tượng.

Sinh viên nếu từ bé chỉ học Văn theo lối nhồi nhét và cùng chép bài văn mẫu “tả cây bàng trường em”, thì lấy đâu ra sức tưởng tượng trong trẻo để nhìn con bướm và cành hoa như bài thơ kia?  

Học sinh lớp 2 Cánh Buồm đua nhau tưởng tượng và có những bài haiku tuyệt vời.

Học sinh lớp 4 trường Olympia Hà Nội của các cô giáo Hải Hà, Thu Ngọc, … còn nhận thách thức của một nhà thơ “duy mỹ” cùng dịch một số bài thơ của học sinh lớp 11 bên Mỹ thành thơ haiku (một em còn rủ cả mẹ cùng dịch nữa). 

Học sinh lớp 4 của cô Thu Ngọc có 20 em thì có đủ 20 bài tiểu luận bàn về những vấn đề do chính các em phát hiện và luận bàn:

Ý kiến của em về việc người lớn phá rào công viên nước vào tắm miễn phí – Người lớn có nên khen con không? – Có nên so sánh con mình với con hàng xóm không? – Vì sao phải đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông? – Người già có nên suốt ngày lo giảm cân không? v.v…

Cô giáo Đinh Phương Thảo ở trường Gateway Hà Nội mới gửi cho tác giả bài này một vài điều cảm nhận về thái độ độc lập và thói quen tự học qua mấy dòng sau: 


“Dạy phần này có điều thích nhất, ấy là thường thì sau vài buổi thì kiểu gì cả lớp cũng lịch sự mời cô giáo ngồi chơi để các bạn ấy làm việc. 

Cô lon ton hỏi han gợi ý sẽ bị chê là ồn ào, mất trật tự. 

Có đề tài học trò chọn xong, cô âm thầm hoảng hốt, hết nhờ cậy ông Google đến gọi điện cho người thân, ỉ ôi trên facebook mà vẫn chưa kiếm đủ thông tin. 

Thế rồi, đến lớp thì trò mời cô ngồi, xòe ra một tập số liệu, ví dụ, rồi túm tụm với nhau tranh cãi, viết bài, kệ cô ngơ ngác".


Cho phép tôi nói vài lời cùng bạn đọc bài này nhân dịp xuân mới. Khi tôi đi dự giờ ở mấy trường đang tự chọn thực hành cách tổ chức việc học Cánh Buồm, tôi hay hỏi như thế này: cách làm của Cánh Buồm đúng hay sai? Còn chỗ nào chưa đúng không? Và tôi thường nhận được lời khích lệ. 

Nhóm Cánh Buồm xin cam đoan không mảy may chạy theo thành tích. Cánh Buồm chẳng có lợi lộc gì với những thành tích không có thật cả. 

Đời dài lắm và đời cũng ngắn lắm.


Hà Nội, mồng 6 Tết Đinh Dậu.



Tài liệu tham khảo, chú thích:


[2]Chúng tôi sẽ đề cập tới điều này, phân biệt triết học giáo dục và triết lý giáo dục, trong một bài khác.

[3]Các môn học khác nhau sẽ được nhóm Cánh Buồm báo cáo vào dịp khác. Ở bài này, chúng tôi tạm dừng ở những thí dụ “làm mẫu” là môn Tiếng Việt hoặc môn Văn.

[4]Chứ không học Từ Ngữ qua bài “văn” để cóp nhặt từng từ theo lối “gỉải nghĩa từ” và thường bắt đầu bằng “từ khó” là những từ Hán Việt theo quan điểm của nhà soạn sách (như sách Quốc Văn giáo khoa thư ra đời năm 1920 và còn kéo dài khá lâu về sau).

[5]Một nền giáo dục Việt Nam hiện đại – Kỷ yếu hội thảo “Tự học – Tự giáo dục”, nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội, 2011, 232 trang. Có thể đọc toàn văn trên mạng theo đường dẫn sau:




Nhà giáo Phạm Toàn

Nguồn: Theo GDVN