TS.
Vũ Quang Việt
Nhà máy xơ sợi Đình Vũ đã ngừng hoạt động từ giữa năm 2015, bị âm vốn chủ sở hữu 528 tỉ đồng (tại thời điểm cuối năm 2015), chưa kể nợ phải trả gần 7.000 tỉ đồng. |
(TBKTSG) - LTS: Bộ Tài chính đang lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo Luật Quản lý nợ công. Trên cơ sở đó, TBKTSG xin giới thiệu bài viết của TS. Vũ Quang Việt như một góp ý cho dự thảo này.
Nợ công của Việt Nam là vấn đề
tranh cãi từ lâu. Nợ của Chính phủ và của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chủ
yếu dựa vào tín dụng ngân hàng và phát hành trái phiếu. Cả hai loại nợ này
có lẽ cho đến nay ít dựa vào đánh giá khả năng trả nợ mà dựa vào kế hoạch
chỉ tiêu (hay lệnh) của cơ quan chủ quản. Nợ chính phủ đòi hỏi tăng thuế để
trả nợ. Nợ doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải giảm đầu tư vì áp lực trả
nợ. Cả hai đều kìm hãm tăng trưởng trong nền kinh tế.
Một minh chứng điển hình là vấn
đề nợ của Nhật Bản trong vài chục năm qua đã làm kinh tế Nhật tiếp tục trì
trệ. Nếu không thế, phát hành tiền và tăng tín dụng để tài trợ sẽ gây lạm
phát.
Sau một thời gian kìm hãm, nợ
công ở Việt Nam có vẻ tăng mạnh, nhất là trong năm 2015 (xem bảng 3, dựa
vào số liệu chính thức).
Thông tin trình bày ở dưới bao gồm
nợ của Chính phủ (bao gồm cả nợ doanh nghiệp do Chính phủ bảo lãnh) - mà Bộ
Tài chính gọi là nợ công và nợ của DNNN. Số liệu tới năm 2015 dựa vào các
nguồn chính thức. Số liệu năm 2016 chủ yếu dựa vào ước tính của tác giả.
Khu vực công (public sector) theo
định nghĩa của Hệ thống Tài khoản quốc gia của Liên hiệp quốc 2008 bao gồm
cả Chính phủ và DNNN nên có thể coi nợ công là tổng của nợ chính phủ và nợ
của DNNN. Thông tin này là cần thiết, dù Việt Nam vẫn chỉ chú ý đến nợ
chính phủ (được gọi là nợ công), nhưng nếu DNNN nào phá sản thì việc trả nợ
là do Chính phủ chịu trách nhiệm, dù Chính phủ tuyên bố không có trách
nhiệm và nếu giả thiết cho phá sản, đất và tài sản công sẽ bị tịch biên và
thuộc về chủ nợ. Vì thế khi phân tích về nợ công, không thể bỏ qua nợ của
DNNN. Dù không đồng ý về định nghĩa, cách tốt nhất là Bộ Tài chính nên công
bố cả nợ của DNNN vào Bản tin nợ công để các nhà phân tích tùy nghi sử
dụng.
Số liệu tin cậy được cho thấy nợ
chính phủ năm 2015 là 115 tỉ đô la Mỹ, bằng 59,5% GDP và ước tính nợ chính
phủ năm 2016 lên tới ít nhất 131 tỉ đô la Mỹ, bằng 63,9% GDP. Nợ chính phủ
tăng quá nhanh, ở mức gần 35% năm 2015.
Nợ của DNNN ở đây cho thấy toàn
cảnh khoảng 3.200 doanh nghiệp với số nợ theo điều tra của TCTK năm 2014 là
4,9 triệu tỉ đồng (231 tỉ đô la Mỹ), gấp nhiều lần con số 1,5 triệu tỉ đồng
mà Bộ Tài chính đưa ra chỉ cho một số tập đoàn và công ty lớn. Ước tính
thêm cho thấy năm 2016, nợ của DNNN là 324 tỉ đô la Mỹ, bằng 158% GDP.
Như vậy, cộng cả nợ chính phủ và
nợ DNNN sau khi trừ đi phần Chính phủ bảo lãnh trùng lặp, tổng số nợ năm
2016 là 431 tỉ đô la Mỹ, bằng 210% GDP.
Với tỷ lệ nợ lớn như trên, khó
lòng nền kinh tế phát triển mạnh. Không những thế thời gian qua, do tăng
tín dụng, tăng nợ, lạm phát cuối năm 2016 đã lên đến 4,7% và có khả năng
tăng cao hơn trong năm 2017 (xem bảng 4). Điều dễ hiểu là tín dụng tăng
mạnh. Lạm phát tăng như trên sẽ đẩy lãi suất lên, có thể tới ít nhất 8%/
năm vào năm 2017, trái ngược với tình hình lạm phát và lãi suất giảm cho
đến cuối năm 2015 và những tháng đầu năm 2016. Nợ cao, lãi suất cao, khả
năng trả nợ sẽ giảm. Kinh tế khó lòng mà phát triển mạnh, nếu không nói là
có thể bị rơi vào khủng hoảng.
Vấn đề nợ, đặc biệt là nợ chính
phủ ngày càng tăng là do chi ngân sách ngày càng tăng, đưa đến thiếu hụt
ngân sách lớn, khoảng 5-6% GDP một năm. Thông tin trong quá khứ cho thấy
thường tỷ lệ chi ngân sách vượt nghị quyết của Quốc hội 30-40% (xem bài
trên TBKTSG số ra ngày 29-10-2015), mà tới hai năm sau mới biết. Như thế,
khả năng kiểm soát chi gần như không có. Cách tốt nhất để kiềm chế trong
một vài năm tới là đóng băng chi, và đóng băng tăng biên chế (dài lâu hay
tạm thời), chỉ cho phép thay thế người về hưu ở vị trí cần thiết. Nếu làm
được thế, thu ngân sách tăng, ít nhất theo tốc độ tăng trưởng kinh tế (6%),
thiếu hụt ngân sách sẽ bị xóa bỏ nhanh chóng. Chỉ có thể kiểm soát chi tiêu
nếu thống kê ngân sách cụ thể, cập nhật và theo đúng chuẩn quốc tế.
Nguồn:Thời Báo Saigon