07 juillet 2020

Mỹ-Trung Quốc và các nguy cơ đối đầu


Tác giả: Lý Hiển Long, Thủ tướng Singapore
Người dịch: Trần Ngọc Cư


DĐKP: Thế đối đầu không khoan nhượng giữa Mỹ và Trung quốc đã đưa thế giới vào một sự phân liệt chưa hề có. Người ta ghi nhận trên truyền thông hai thái cực: Một bên là chống Trung Quốc bằng mọi giá mang tính chất cực đoan, thậm chí vượt qua lằn ranh kỳ thị chủng tộc Hoa. Xu hướng này chúng ta gặp nhiều trên báo chí Việt ngữ, nhất là ở hải ngoại; Bên kia thì hy vọng “hợp tác, đối thoại để lôi kéo, ảnh hưởng” như xu hướng của châu Âu. Giữa hai thái cực này là một gam màu đa dạng, tốt xấu thế nào thì tùy, nhưng có thể sẽ hiệu quả hơn hai thái cực nói trên. Singapore là một quốc gia đặc biệt: Trên 60% dân số thuộc gốc Trung Hoa, nhưng ý thức hệ lại ngã hẳn về phương Tây. Cho nên, quan điểm của Thủ tướng Lý Hiển Long rất đáng để mọi bên chiêm nghiệm.


“Trong những năm gần đây, người ta nói rằng thế kỷ tiếp theo sẽ là thế kỷ của Châu Á và Thái Bình Dương, như thể đó là điều chắc chắn. Tôi không đồng ý với quan điểm này.” Nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã đưa ra lập luận đó với Thủ tướng Ấn Độ Rajiv Gandhi vào năm 1988. Hơn 30 năm sau, Đặng tỏ ra đã biết trước. Sau nhiều thập kỷ thành công về kinh tế, châu Á ngày nay là khu vực phát triển nhanh nhất thế giới. Trong thập kỷ này, các nền kinh tế châu Á sẽ trở nên lớn hơn so với phần còn lại của các nền kinh tế thế giới cộng lại, một điều chưa từng có từ thế kỷ XIX. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, cảnh báo của Đặng vẫn còn giá trị: một thế kỷ châu Á vừa không phải là điều tất yếu vừa không thể định trước được.

Châu Á đã phát triển thịnh vượng nhờ Pax Americana [nền hoà bình do Mỹ thiết lập] tồn tại từ cuối Thế chiến II, đã cung cấp một bối cảnh chiến lược thuận lợi. Nhưng bây giờ, mối quan hệ đầy khó khăn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã đặt ra những câu hỏi sâu sắc về tương lai Châu Á và hình dạng của một trật tự quốc tế đang xuất hiện. Các quốc gia Đông Nam Á, bao gồm cả Singapore, đặc biệt quan tâm, vì họ sống ở giao điểm lợi ích của nhiều cường quốc khác nhau và phải tránh bị mắc kẹt giữa hoặc bị ép buộc vào những lựa chọn làm mất lòng phe này hoặc phe khác.

Nguyên trạng ở Châu Á chắc chắn phải thay đổi. Nhưng liệu cấu hình mới sẽ cho phép khu vực này thành công hơn nữa hoặc mang lại sự mất ổn định nguy hiểm? Điều đó phụ thuộc vào các lựa chọn mà Hoa Kỳ và Trung Quốc đưa ra, riêng biệt và cùng nhau. Hai cường quốc phải xây dựng một thoả ước chung sống hòa bình, modus vivendi, theo đó họ sẽ cạnh tranh trong một số lĩnh vực mà không cho phép sự cạnh tranh này gây độc hại cho sự hợp tác ở các lãnh vực khác.

Các nước châu Á coi Hoa Kỳ là một cường quốc thường trú có lợi ích sống còn trong khu vực. Đồng thời, Trung Quốc là một thực tế lù lù ngay trước cửa nhà họ. Các nước châu Á không muốn bị buộc phải lựa chọn giữa hai cường quốc. Và nếu một trong hai cố gắng ép buộc một lựa chọn như vậy — hoặc là Washington cố gắng kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc hoặc là Bắc Kinh tìm cách xây dựng vùng ảnh hưởng độc quyền ở Châu Á, họ sẽ bắt đầu một cuộc đối đầu kéo dài hàng thập kỷ và đưa thế kỷ châu Á từng được ca ngợi bấy lâu nay vào một nguy cơ.


HAI GIAI ĐOẠN PAX AMERICANA

Pax Americana ở châu Á trong thế kỷ XX có hai giai đoạn riêng biệt. Giai đoạn đầu tiên là từ năm 1945 đến những năm 1970, trong những thập niên đầu của Chiến tranh Lạnh, khi Hoa Kỳ và các đồng minh cạnh tranh với khối Xô Viết để gây ảnh hưởng. Mặc dù Trung Quốc gia nhập Liên Xô để đối đầu với Hoa Kỳ trong các cuộc chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam, nền kinh tế của nước này vẫn tập trung nhắm vào bên trong, có tính cô lập, và ít có quan hệ kinh tế với các nước châu Á khác. Trong khi đó, những nơi khác ở châu Á, các nền kinh tế thị trường tự do đang cất cánh. Nhật Bản là nước làm như vậy  sớm nhất, tiếp theo là các nền kinh tế mới công nghiệp hóa của Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan.

Thế lực giúp thể hiện sự ổn định và thịnh vượng của Châu Á chính là Hoa Kỳ. Hoa Kỳ thúc đẩy một trật tự toàn cầu cởi mở, hội nhập, đặt cơ sở trên luật lệ và cung cấp một chiếc dù an ninh, theo đó các nước trong khu vực có thể hợp tác và cạnh tranh hòa bình. Các tập đoàn đa quốc gia của Mỹ đã đầu tư rộng rãi vào châu Á, mang theo vốn, công nghệ và sáng kiến. Khi Washington thúc đẩy thương mại tự do và mở các thị trường Hoa Kỳ ra thế giới, thương mại châu Á với Hoa Kỳ đã phát triển.

Hai sự kiện quan trọng trong thập niên 1970 đã chuyển Pax Americana ở châu Á sang một giai đoạn mới: chuyến viếng thăm bí mật tại Trung Quốc năm 1971 của Henry Kissinger, lúc bấy giờ là cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ, đặt nền tảng cho mối quan hệ Mỹ-Trung sau nhiều thập kỷ thù địch; và việc Đặng Tiểu Bình phát động chương trình cải cách và mở cửa năm 1978, cho phép nền kinh tế Trung Quốc cất cánh. Đến cuối thập kỷ, các rào cản kinh tế đã giảm xuống và thương mại quốc tế đang phát triển nhanh chóng. Sau khi chiến tranh Việt Nam và chiến tranh ở Campuchia kết thúc, Việt Nam và các nước Đông Dương khác đã có thể tập trung năng lượng và nguồn lực của mình vào phát triển kinh tế, và họ bắt đầu đuổi kịp phần còn lại của châu Á.

Nhiều nước châu Á từ lâu đã coi Hoa Kỳ và các nước phát triển khác là đối tác kinh tế chính của họ. Nhưng giờ họ ngày càng nắm bắt những cơ hội được tạo ra nhờ sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc. Thương mại và du lịch với Trung Quốc phát triển, và chuỗi cung ứng trở nên hợp nhất chặt chẽ. Chỉ trong vài thập kỷ, Trung Quốc đã đi từ địa vị kinh tế không đáng kể đối với phần còn lại của châu Á để trở thành khu vực kinh tế lớn nhất và là đối tác kinh tế quan trọng. Ảnh hưởng của Trung Quốc trong các vấn đề khu vực đã gia tăng tương ứng.

Tuy nhiên, Pax Americana vẫn đứng vững và những thay đổi triệt để này trong vai trò của Trung Quốc đã diễn ra trong khuôn khổ của trật tự hòa bình này. Trung Quốc không ở vào vị trí có thể thách thức tính ưu việt của Hoa Kỳ và đã không cố gắng làm điều đó. Thật vậy, Trung Quốc lấy châm ngôn “che dấu sức mạnh, chờ thời cơ” của Đặng làm triết lý chỉ đạo và đặt ưu tiên việc hiện đại hóa các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, khoa học và công nghệ cao cao hơn việc xây dựng sức mạnh quân sự.

Do đó, các nước Đông Nam Á được hưởng những điều tốt nhất của cả hai thế giới, xây dựng mối quan hệ kinh tế với Trung Quốc trong khi vẫn duy trì mối quan hệ bền chặt với Hoa Kỳ và các nước phát triển khác. Họ cũng tăng cường mối quan hệ với nhau và làm việc cùng nhau để tạo ra một kiến trúc cởi mở cho hợp tác khu vực bắt nguồn từ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. ASEAN đóng vai trò trung tâm trong việc hình thành Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương năm 1989, thành lập Diễn đàn khu vực ASEAN năm 1994 và triệu tập Hội nghị cấp cao Đông Á hàng năm kể từ năm 2005.

Trung Quốc tham gia đầy đủ vào các quá trình này. Hàng năm, thủ tướng Trung Quốc tới một quốc gia thành viên ASEAN để gặp gỡ các nhà lãnh đạo của các nước ASEAN, chuẩn bị tốt để giải thích quan điểm của Trung Quốc đối với khu vực và trang bị sẵn sàng các đề xuất nhằm tăng cường hợp tác giữa Trung Quốc với các thành viên trong nhóm này. Khi phần hùn hạp của Trung Quốc trong khu vực gia tăng, họ đưa ra các sáng kiến của riêng mình, bao gồm Sáng kiến Vành đai và Con đường và Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á. Những điều này đã giúp tăng cường sự tham gia của Trung Quốc với các nước láng giềng và dĩ nhiên, làm tăng ảnh hưởng của Bắc Kinh.

Nhưng nhờ kiến trúc khu vực có tính cách cởi mở, nên ảnh hưởng của Trung Quốc không phải là độc quyền. Hoa Kỳ vẫn là một thành viên quan trong trong việc củng cố an ninh và ổn định khu vực và tăng cường tham gia kinh tế thông qua các sáng kiến như Đạo luật Sáng kiến Tái bảo đảm Châu Á [the Asia Reassurance Initiative Act] và Đạo luật BUILD [the Better Utilization of Investment Leading to Development]. ASEAN cũng có các cơ chế đối thoại chính thức với Liên minh châu Âu, cũng như với Ấn Độ và nhiều quốc gia khác. ASEAN tin rằng một mạng lưới kết nối như vậy tạo ra một khuôn khổ hợp tác mạnh mẽ hơn và nhiều không gian hơn để thúc đẩy lợi ích tập thể của các thành viên của mình,  trên phạm vi quốc tế.

Cho đến nay, công thức này đã hoạt động tốt. Nhưng cơ sở chiến lược của Pax Americana đã thay đổi từ căn bản. Trong bốn thập kỷ kể từ khi bắt đầu cải cách và mở cửa, Trung Quốc đã được chuyển đổi. Khi nền kinh tế, khả năng công nghệ và ảnh hưởng chính trị của TQ tăng theo cấp số nhân, thế giới quan của TQ cũng thay đổi. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngày nay không còn trích dẫn câu châm ngôn của Đặng về việc che giấu sức mạnh của mình và đợi thời cơ. Trung Quốc tự coi mình là một cường quốc lục địa và cũng khao khát trở thành một cường quốc hàng hải; TQ đã và đang hiện đại hóa lục quân và hải quân của mình và nhắm đến mục tiêu biến quân đội thành một lực lượng chiến đấu tầm cỡ thế giới. Càng ngày, và là một điều khá dễ hiểu, Trung Quốc muốn bảo vệ và thúc đẩy lợi ích của mình ở nước ngoài và bảo đảm những gì họ coi là vị trí chính đáng của mình trong các vấn đề quốc tế.

Trong khi đó, Hoa Kỳ, vẫn là cường quốc ưu việt về nhiều mặt, đang đánh giá lại đại chiến lược [grand strategy]của mình. Khi tỷ lệ GDP toàn cầu của mình đang suy giảm, không rõ liệu Hoa Kỳ có tiếp tục gánh vác gánh nặng duy trì hòa bình và ổn định quốc tế hay không, hay thay vào đó, liệu Mỹ có thể chỉ theo đuổi cách tiếp cận hạn hẹp hơn, “Nước Mỹ trước tiên” [America First], để bảo vệ lợi ích của mình hay không. Khi Washington đặt các câu hỏi cơ bản về trách nhiệm của mình trong hệ thống toàn cầu, mối quan hệ của họ với Bắc Kinh sẽ được thế giới xem xét kỹ lưỡng.


NHỮNG LỰA CHỌN CƠ BẢN CỦA HOA KỲ VÀ TRUNG QUỐC

Hoa Kỳ và Trung Quốc mỗi nước phải đối mặt với những lựa chọn cơ bản. Hoa Kỳ phải quyết định xem Trung Quốc có trỗi dậy như một mối đe dọa cho sự hiện hữu của mình hay không và do đó cố gắng kìm hãm Trung Quốc thông qua tất cả các phương tiện có sẵn, hoặc là phải chấp nhận Trung Quốc là một cường quốc có quyền riêng của mình. Nếu chọn con đường thứ hai, Hoa Kỳ phải xây dựng một cách tiếp cận với Trung Quốc, sẽ thúc đẩy hợp tác và cạnh tranh lành mạnh trong bất cứ lãnh vực nào có thể và không cho phép sự cạnh tranh đầu độc toàn bộ mối quan hệ. Lý tưởng nhất là cuộc thi đua này sẽ diễn ra trong khuôn khổ các quy tắc và chuẩn mực đa phương được thỏa thuận dưới loại hình đang quản trị Liên Hợp Quốc và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Hoa Kỳ có thể thấy đây là một sự điều chỉnh đau đớn, đặc biệt là với sự đồng thuận ngày càng tăng ở Washington rằng việc lôi kéo Bắc Kinh đã thất bại và một cách tiếp cận cứng rắn hơn là cần thiết để bảo vệ lợi ích của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, dù nhiệm vụ khó khăn đến bao nhiêu đi nữa, cũng rất đáng để Hoa Kỳ thực hiện một nỗ lực nghiêm túc nhằm đáp ứng nguyện vọng của Trung Quốc trong hệ thống các quy tắc và chuẩn mực quốc tế hiện nay. Hệ thống này áp đặt các trách nhiệm và các hạn chế đối với tất cả các quốc gia, củng cố niềm tin, giúp quản lý xung đột và tạo ra một môi trường an toàn và ổn định hơn cho cả hợp tác lẫn cạnh tranh.

Thay vào đó, nếu Hoa Kỳ chọn cách cố gắng kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc, thì sẽ có nguy cơ gây ra một phản ứng có thể đặt hai nước vào con đường dẫn đến nhiều thập kỷ đối đầu. Hoa Kỳ không phải là một cường quốc đang suy yếu. Nó có sức bật và các ưu điểm tuyệt vời, một trong số đó là khả năng thu hút nhân tài từ khắp nơi trên thế giới; trong số chín người gốc Hoa đã được trao giải thưởng Nobel về khoa học, tám người là công dân Hoa Kỳ hoặc sau đó trở thành công dân Hoa Kỳ. Mặt khác, nền kinh tế Trung Quốc có tính năng động to lớn và công nghệ ngày càng tiên tiến; nó không phải là một ngôi làng Potemkin phồn vinh giả tạo hay nền kinh tế chỉ huy toàn diện thuộc loại hình Liên Xô trong những năm cuối cùng. Bất kỳ cuộc đối đầu nào giữa hai cường quốc này đều khó có thể kết thúc theo cách Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, nhờ một quốc gia đã sụp đổ một cách hòa bình.

Về phần mình, Trung Quốc phải quyết định xem có nên cố gắng tìm đường trở thành một cường quốc quan trọng bất chấp mọi trở ngại, chiếm ưu thế nhờ sức nặng và sức mạnh kinh tế của mình, nhưng có nguy cơ bị đẩy lùi mạnh mẽ, không chỉ từ Hoa Kỳ mà còn từ các nước khác. Cách tiếp cận này có khả năng làm gia tăng căng thẳng và phẫn nộ, điều này sẽ ảnh hưởng đến vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc trong dài hạn. Đây là một mối nguy hiểm thực sự: một cuộc khảo sát gần đây của Trung tâm nghiên cứu Pew cho thấy người dân ở Canada, Hoa Kỳ và các nước châu Á và Tây Âu khác có quan điểm ngày càng bất lợi về Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc có những nỗ lực gần đây để xây dựng sức mạnh mềm ở nước ngoài, thông qua mạng lưới các Viện Khổng Tử, và thông qua các tờ báo và đài truyền hình quốc tế thuộc sở hữu của Trung Quốc, xu hướng này là tiêu cực.

Ngoài ra, Trung Quốc có thể thừa nhận rằng họ không còn nghèo yếu và chấp nhận rằng thế giới hiện có những kỳ vọng cao hơn về họ. Trung Quốc không còn có thể biện minh về mặt chính trị để tiếp tục hưởng các nhượng bộ và đặc quyền mà họ giành được khi nền kinh tế của họ còn nhỏ bé và kém phát triển hơn —  như các điều khoản hào phóng khi gia nhập WTO năm 2001. Một Trung Quốc lớn hơn và mạnh hơn không những phải tôn trọng các quy tắc và chuẩn mực toàn cầu mà còn phải chịu trách nhiệm lớn hơn trong việc duy trì và hiện đại hóa trật tự quốc tế, vốn nhờ nó mà Trung Quốc đã phát triển rất ngoạn mục. Trong lãnh vực nào mà các quy tắc và chuẩn mực hiện tại không còn phù hợp với mục đích, Trung Quốc nên hợp tác với Hoa Kỳ và các quốc gia khác để đưa ra các thỏa thuận sửa đổi mà tất cả có thể chấp hành.

Con đường tạo ra một trật tự mới không đơn giản. Các áp lực mạnh mẽ trong nước đã thúc đẩy và kìm hãm các lựa chọn chính sách đối ngoại của cả hai quốc gia. Chính sách đối ngoại thường ít được đề cao trong chiến dịch tranh cử tổng thống hiện nay ở Hoa Kỳ, và nếu có chăng thì trọng tâm phổ biến chỉ là biến thể của chủ đề “Hoa Kỳ trước hết”. Ở Trung Quốc, ưu tiên hàng đầu của lãnh đạo là duy trì ổn định chính trị nội bộ và thể hiện sự tự tin của một nền văn minh cổ đại đang trỗi dậy trở lại, sau khi chịu đựng gần hai thế kỷ yếu hèn và nhục nhã. Vì vậy, ta không thể coi là chuyện đương nhiên, rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ quản lý các mối quan hệ song phương dựa trên các tính toán hợp lý về lợi ích quốc gia của họ hoặc thậm chí cùng mong muốn các kết quả có lợi cho cả đôi bên. Hai quốc gia này không nhất thiết phải tự đặt mình vào một tiến trình đối đầu, nhưng người ta không thể loại trừ khả năng đối đầu giữa hai nước.


TÍNH NĂNG ĐỘNG Ở CHÂU Á-THÁI BÌNH DƯƠNG

Những động lực này sẽ diễn ra trên toàn thế giới, nhưng một đấu trường quan trọng sẽ là châu Á-Thái Bình Dương. Hoa Kỳ luôn có lợi ích quốc gia quan trọng trong khu vực này. Họ đã dùng máu và kho báu của mình để chiến đấu trong Chiến tranh Thái Bình Dương nhằm đánh bại Nhật Bản, một cuộc chiến mà Hoa Kỳ suýt mất ba vị tổng thống tương lai. Họ đã đánh hai cuộc chiến tranh tốn kém ở Triều Tiên và Việt Nam, hai cuộc chiến đã mang lại khoảng thời gian quý báu cho các nước không cộng sản ở châu Á củng cố xã hội và nền kinh tế của mình và giành được lòng dân trong việc chống lại chủ nghĩa cộng sản.

Các chính sách cởi mở, hào phóng của Hoa Kỳ đã mang lại lợi ích rất lớn cho châu Á-Thái Bình Dương bắt nguồn từ những lý tưởng chính trị sâu xa và hình ảnh tự thân của nó như “một thành phố trên một ngọn đồi” và “một ngọn đèn cho các quốc gia,” nhưng họ cũng phản ánh sự ích kỷ sáng suốt [enlightened self-interest] của mình. Một châu Á-Thái Bình Dương ổn định và thịnh vượng trước tiên là một thành phần chống lại các nước cộng sản trong thời Chiến tranh Lạnh và sau đó là một khu vực quan trọng của thế giới bao gồm nhiều quốc gia ổn định và thịnh vượng có thiện cảm với Hoa Kỳ. Đối với các doanh nghiệp Hoa Kỳ, Châu Á-Thái Bình Dương cung cấp các thị trường lớn và cơ sở sản xuất quan trọng. Không có gì đáng ngạc nhiên, một số đồng minh trung thành nhất của Hoa Kỳ, chẳng hạn như Úc, Nhật Bản và Hàn Quốc, và một số đối tác lâu dài của nó, chẳng hạn như Singapore, đều nằm tại châu Á.

Trung Quốc cũng có lợi ích sống còn trong khu vực. Ở Đông Bắc Á, Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên vẫn còn đổ bóng dài trong tâm thức người Trung Hoa. Ở Đông Nam Á, Trung Quốc nhìn thấy một nguồn năng lượng và nguyên liệu thô, các đối tác kinh tế và các tuyến đường biển quan trọng. Họ cũng thấy các điểm tắc nghẽn ở eo biển Malacca và Biển Đông phải luôn luôn được mở ra để bảo vệ an ninh năng lượng của Trung Quốc. Nhưng một điểm khác biệt quan trọng với Hoa Kỳ là, Trung Quốc coi Châu Á-Thái Bình Dương là “nước ngoài lân cận” [near abroad], xin  mượn cách diễn đạt của người Nga, và do đó rất cần thiết cho an ninh chính họ.

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã nói rằng Thái Bình Dương đủ rộng để chứa cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc. Nhưng ông cũng nói rằng an ninh châu Á nên được dành cho người Châu Á định đoạt. Một câu hỏi tự nhiên được đặt ra: Liệu Tập có nghĩ rằng Thái Bình Dương đủ lớn để Hoa Kỳ và Trung Quốc chung sống hòa bình, với những vòng bạn bè và đối tác trùng lặp lên nhau, hay nó đủ lớn để vạch đường phân chia giữa hai cường quốc, thành  các vùng ảnh hưởng của hai đối thủ? Singapore và các nước châu Á-Thái Bình Dương khác không có nghi ngờ gì về lời giải thích mà họ muốn nghe. Mặc dù họ có thể không có nhiều ảnh hưởng về cung cách mọi thứ sẽ diễn ra, nhưng họ hy vọng sẽ không bị buộc phải lựa chọn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Sự hiện diện an ninh của Hoa Kỳ vẫn còn quan trọng đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Không có nó, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ bị buộc phải dự tính phát triển vũ khí hạt nhân; cả hai đều là các quốc gia ở ngưỡng hạt nhân [nuclear threshhold states] và chủ đề đã thường xuyên xuất hiện trong các thảo luận công khai của họ, đặc biệt căn cứ vào khả năng vũ khí hạt nhân ngày càng tăng của Triều Tiên. Những phát triển như vậy rất may vẫn còn là giả thuyết, nhưng viễn cảnh của chúng không có lợi cho sự ổn định ở Đông Bắc Á cũng như các nỗ lực chống phổ biến vũ khí hạt nhân trên toàn cầu.

Ở Đông Nam Á, Hạm đội thứ bảy của Hoa Kỳ đã đóng góp cho an ninh khu vực kể từ Thế chiến II, đảm bảo rằng các tuyến đường biển vẫn khai thông an toàn, điều này đã thúc đẩy thương mại và kích thích tăng trưởng kinh tế. Mặc dù có sức mạnh quân sự ngày càng tăng, Trung Quốc sẽ không thể đảm nhận vai trò an ninh của Hoa Kỳ. Khác hẳn với Hoa Kỳ, Trung Quốc có các yêu sách cạnh tranh về hàng hải và lãnh thổ ở Biển Đông với một số quốc gia trong khu vực vốn luôn luôn coi sự hiện diện của hải quân Trung Quốc là một nỗ lực nhằm thúc đẩy các yêu sách đó.

Một trở ngại khác khiến Trung Quốc không thể đảm nhận vai trò an ninh mà Hoa Kỳ hiện đang nắm giữ phát sinh từ việc nhiều nước Đông Nam Á có các khối dân số gốc Hoa đáng kể, mà mối quan hệ của họ với đa số phi-Trung Hoa [non-Chinese] thường rất tế nhị. Các quốc gia này cực kỳ nhạy cảm về bất cứ nhận thức nào cho thấy rằng Trung Quốc có ảnh hưởng không nhỏ đối với thiểu số người Hoa sống tại nước họ — nhất là gợi lại lịch sử sự  hậu thuẫn của Trung Quốc đối với cuộc nổi dậy của phiến quân cộng sản ở Đông Nam Á cho đến đầu những năm 1980. Những nhạy cảm đó sẽ hạn chế vai trò của Trung Quốc trong các vấn đề Đông Nam Á trong một tương lai tương đối gần.

Singapore là quốc gia Đông Nam Á duy nhất có dân số đa chủng trong đó người Hoa chiếm đa số. Trên thực tế, đây là quốc gia có chủ quyền duy nhất trên thế giới có một sự phân phối dân số như vậy ngoài chính Trung Quốc. Nhưng Singapore đã thực hiện những nỗ lực rất to lớn để xây dựng một bản sắc dân tộc đa sắc tộc chứ không phải là một bản sắc Trung Quốc. Và Singapore cũng hết sức cẩn thận để tránh làm bất cứ điều gì có thể bị hiểu lầm là cho phép mình được sử dụng như thứ tay sai ngu đần của Trung Quốc. Vì lý do này, mãi cho đến năm 1990 Singapore mới thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, khiến nước này trở thành quốc gia Đông Nam Á cuối cùng, ngoại trừ Brunei, đã làm như vậy.

Tất nhiên, Singapore và tất cả các nước châu Á khác muốn xây dựng quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc. Họ hy vọng sẽ tận hưởng thiện chí và sự hỗ trợ của một cường quốc quan trọng như vậy và tham gia vào sự phát triển của TQ. Chuỗi cung ứng toàn cầu —  dù để làm máy bay, điện thoại di động hay mặt nạ phẫu thuật — liên kết Trung Quốc và các nước châu Á khác lại với nhau. Nội cái kích thước của Trung Quốc đã khiến TQ trở thành đối tác thương mại lớn nhất của hầu hết các quốc gia châu Á khác, bao gồm mọi đồng minh hiệp ước của Hoa Kỳ trong khu vực, cũng như Singapore và gần như mọi quốc gia ASEAN khác.

Thật sẽ rất khó khăn, có thể nói gần như không thể, để Hoa Kỳ thay thế Trung Quốc làm nhà cung cấp chính của thế giới, cũng như người ta không thể tưởng tượng được việc Hoa Kỳ không cần đến thị trường Trung Quốc, nước nhập khẩu hàng hóa Mỹ lớn thứ ba, sau Canada và Mexico. Nhưng Trung Quốc cũng không thể thay thế vai trò kinh tế của Hoa Kỳ tại Châu Á. Hệ thống tài chính toàn cầu phụ thuộc rất nhiều vào các định chế tài chính Mỹ và đồng Nhân dân tệ không thể thay thế đồng đô la Mỹ làm đồng tiền dự trữ của thế giới trong một sớm một chiều. Mặc dù các nước châu Á khác xuất khẩu sang Trung Quốc nhiều hơn sang Hoa Kỳ, nhưng các tập đoàn đa quốc gia của Hoa Kỳ vẫn tạo thành nguồn đầu tư nước ngoài lớn nhất ở nhiều nước châu Á – Thái Bình Dương, bao gồm cả Singapore. Các công ty lớn của Trung Quốc đang bắt đầu đầu tư ra nước ngoài, nhưng phải mất nhiều năm nữa Trung Quốc mới có được các tập đoàn đa quốc gia cùng quy mô và mức độ tinh vi như các công ty có trụ sở tại Hoa Kỳ, liên kết các chuỗi sản xuất toàn cầu lại với nhau, liên kết châu Á với nền kinh tế toàn cầu và tạo ra hàng triệu việc làm.

Vì những lý do này, các nước châu Á – Thái Bình Dương không muốn bị buộc phải lựa chọn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Họ muốn vun đắp mối quan hệ tốt với cả hai. Họ không thể làm mất lòng Trung Quốc, và vì thế các nước châu Á khác sẽ cố gắng hết sức để không để bất cứ tranh chấp nào chi phối mối quan hệ chung với Bắc Kinh. Đồng thời, những quốc gia châu Á đó coi Hoa Kỳ là một cường quốc thường trú có lợi ích sống còn trong khu vực. Họ ủng hộ Hoa Kỳ — một số nước tỏ ra công khai hơn một số nước khác— khi Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tuyên bố rằng Hoa Kỳ có ý định “tái quân bình” chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Châu Á. Họ tự an ủi rằng, mặc dù chính quyền Trump đã đưa ra các vấn đề về chi phí và chia sẻ gánh nặng với bạn bè và đồng minh, nhưng nó cũng đưa ra một chiến lược cho khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương và tuyên bố ý định xây dựng Bộ chỉ huy quân sự Ấn Độ-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ.

Nhưng những quốc gia châu Á này cũng nhìn nhận rằng Hoa Kỳ là một siêu cường toàn cầu, với những mối bận tâm xa rộng và những ưu tiên cấp bách trên toàn thế giới. Họ nhận ra thực tế là, nếu căng thẳng gia tăng — hoặc thậm chí tệ hơn, nếu xung đột xảy ra— họ không đương nhiên ỷ y vào sự hổ trợ của Hoa Kỳ. Họ chắc chắn sẽ làm bổn phận của mình để bảo vệ đất nước và lợi ích của họ. Họ cũng hy vọng Hoa Kỳ hiểu rằng nếu các quốc gia châu Á khác thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc, điều đó không nhất thiết có nghĩa là họ đang ra tay chống lại Hoa Kỳ. (Và tất nhiên, các quốc gia châu Á này cũng hy vọng có được sự hiểu biết tương tự từ phía Trung Quốc, nếu họ tăng cường mối quan hệ với Hoa Kỳ.)


KIẾN TRÚC CÓ TÍNH KẾT NẠP TOÀN KHU VỰC

Hoa Kỳ và Trung Quốc không phải là những nước lớn duy nhất có nhiều ảnh hưởng trong khu vực; những nước liên hệ khác cũng có vai trò quan trọng. Nhật Bản, đặc biệt, có nhiều đóng góp cho khu vực, với quy mô và mức độ tinh tế của nền kinh tế Nhật. Dưới thời Thủ tướng Shinzo Abe, nó đã đóng góp tích cực hơn trước. Chẳng hạn, sau khi Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương [TPP] năm 2017, Nhật Bản đã bước lên vị trí lãnh đạo. Nhật thúc đẩy 11 thành viên còn lại hoàn thành Hiệp định Toàn diện và Tiến bộ về Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), một hiệp định kết hợp các nước phát triển và đang phát triển ở cả hai bên Thái Bình Dương và là một bước tiến tới thương mại tự do ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Ấn Độ cũng hưởng nhiều ảnh hưởng tiềm năng. Dưới thời Thủ tướng Narendra Modi, Ấn Độ đã tuyên bố thay đổi chiến lược thông qua Chính sách Hành động hướng Đông [Act East Policy] và các quốc gia khác mong muốn nhìn thấy chính sách này biến thành hành động. Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á kết nạp Ấn Độ làm thành viên vì các thành viên khác hy vọng rằng khi nền kinh tế Ấn Độ phát triển, New Delhi sẽ nhận ra nhiều giá trị hơn trong hợp tác khu vực. Ấn Độ cũng là một trong những quốc gia ban đầu đàm phán để hình thành Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực [the Regional Comprehensive Economic Partnership, viết tắt RCEP], một hiệp định thương mại tự do được đề xuất nhằm mục đích hợp nhất tất cả các nền kinh tế lớn ở châu Á-Thái Bình Dương, tương tự như Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (hiện nay là Hiệp định Mỹ-Mexico-Canada) đang liên kết các quốc gia Bắc Mỹ. Sau các cuộc đàm phán rộng rãi, Ấn Độ năm ngoái đã quyết định không tham gia RCEP; 15 quốc gia tham gia còn lại đang tiếp tục đi tới, mặc dù không có Ấn Độ, một cái gì đó quan trọng đã bị mất đi.

Như hầu hết các nước châu Á nhận ra, giá trị của các thỏa ước này vượt lên trên các thành quả kinh tế mà chúng tạo ra. Chúng là những nền tảng cho phép các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương hợp tác với nhau, phát triển phần đóng góp cho sự thành công của nhau và cùng nhau hình thành kiến trúc khu vực và các quy tắc chi phối nó. Những dàn xếp khu vực như vậy phải có tính cách thông thoáng và bao gồm nhiều thành viên. Dù theo thiết kế hay do hậu quả, chúng không được loại bỏ bất cứ nước nào, làm suy yếu các thỏa thuận hợp tác hiện có, tạo ra các khối đối thủ [rival blocs] hoặc buộc các quốc gia phải chọn phe phái. Đây là lý do tại sao các thành viên CPTPP đã bỏ ngõ cánh cửa cho Hoa Kỳ đăng nhập trở lại và tại sao các quốc gia đang làm việc để thành lập RCEP vẫn hy vọng rằng Ấn Độ sẽ gia nhập một ngày nào đó trong tương lai.

Đây cũng là cơ sở để các nước châu Á – Thái Bình Dương hổ trợ các sáng kiến hợp tác khu vực như các khái niệm Ấn Độ-Thái Bình Dương khác nhau do Nhật Bản, Hoa Kỳ và các quốc gia khác đưa ra, cũng như Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc. Nhiều quốc gia châu Á khác coi việc ủng hộ Sáng kiến Vành đai và Con đường như một đường lối xây dựng nhằm đáp ứng ảnh hưởng ngày càng to lớn của Trung Quốc trong khu vực. Nếu được thực hiện tốt đẹp và có kỷ luật tài chính, các dự án của sáng kiến này có thể tăng cường hợp tác khu vực và đa phương và giải quyết nhu cầu cấp thiết về cơ sở hạ tầng và sự kết nối tốt hơn giữa nhiều nước đang phát triển. Một số dự án như vậy đã bị chỉ trích vì thiếu minh bạch hoặc tính khả thi, nhưng không có lý do gì để cho rằng tất cả các dự án của sáng kiến này, theo định nghĩa, sẽ áp đặt gánh nặng tài chính không thể chịu đựng lên các quốc gia hoặc ngăn cản chúng phát triển sự liên kết với các nền kinh tế lớn khác. Những hậu quả như vậy cũng sẽ không phục vụ lợi ích của Trung Quốc, vì chúng sẽ làm suy yếu vị thế và ảnh hưởng quốc tế của cường quốc này.

Phát triển các thỏa thuận khu vực mới không có nghĩa là từ bỏ hoặc đứng ngoài các định chế đa phương hiện có. Các tổ chức và định chế đa phương khó giành được này tiếp tục mang đến cho tất cả các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia nhỏ hơn, một khuôn khổ để làm việc cùng nhau và thúc đẩy lợi ích tập thể của họ. Nhưng nhiều định chế đa phương hiện tại đang khẩn cấp cần cải tổ: chúng không còn hiệu quả, do các thực tế kinh tế và chiến lược hiện tại. Chẳng hạn, kể từ khi kết thúc Vòng đàm phán thương mại Uruguay năm 1994, WTO ngày càng gặp khó khăn trong việc đạt được các hiệp định thương mại có ý nghĩa, bởi vì bất kỳ thỏa thuận nào cũng cần có sự đồng thuận của 164 thành viên, vốn có lợi ích và triết lý kinh tế rất khác nhau. Và kể từ năm ngoái, Cơ quan phúc thẩm của WTO đã bị tê liệt do thiếu một túc số tối thiểu [a quorum]. Đây là một mất mát cho tất cả các quốc gia — lẽ ra họ cần phải hoạt động một cách xây dựng nhằm cải tổ các tổ chức đó thay vì làm giảm hiệu quả của chúng hoặc bỏ qua chúng hoàn toàn.


MỘT HY VỌNG THIẾT THA 

Các lựa chọn chiến lược mà Hoa Kỳ và Trung Quốc đưa ra sẽ định hình các đường nét chính của trật tự toàn cầu đang dần dần xuất hiện. Đó là điều tự nhiên đối với các cường quốc cạnh tranh. Nhưng chính khả năng hợp tác của họ mới là phép thử thực sự của tài trị quốc [statecraft] và nó sẽ quyết định là loài người có tiến bộ về các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, phổ biến hạt nhân và sự lây lan các bệnh truyền nhiễm hay không.

Đại dịch COVID-19 là một lời nhắc nhở rõ ràng về tầm quan trọng của việc các quốc gia hợp tác với nhau. Các bệnh tật không hề tôn trọng biên giới quốc gia, và vì thế hợp tác quốc tế là hết sức cần thiết để đưa đại dịch vào tầm kiểm soát và giảm thiệt hại cho nền kinh tế toàn cầu. Ngay cả nếu có các mối quan hệ tốt nhất giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, việc đưa ra một phản ứng tập thể đối với COVID-19 cũng đã là rất khó khăn. Thật không may, đại dịch đang làm tồi tệ thêm sự cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, làm tăng sự ngờ vực, sự đề cao mình để chà đạp đối phương [one-upmanship], và đổ lỗi cho nhau. Điều này chắc chắn sẽ trở nên tồi tệ hơn nếu đại dịch trở thành một vấn đề lớn trong cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ —  bây giờ điều này dường như không thể tránh khỏi. Chúng ta chỉ có thể hy vọng rằng sự nghiêm trọng của tình hình sẽ tập trung tâm trí của con người và cho phép các khuyến nghị khôn ngoan thắng thế.

Trong khi đó, các nước châu Á đang hết sức bận rộn, đương đầu với đại dịch và nhiều trở ngại khác để cải thiện cuộc sống của người dân và tạo ra một khu vực an toàn và thịnh vượng hơn. Thành công của họ — và triển vọng của một thế kỷ châu Á — sẽ phụ thuộc rất lớn vào việc liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể vượt qua sự khác biệt của họ, xây dựng niềm tin tưởng lẫn nhau và làm việc một cách xây dựng để duy trì trật tự quốc tế ổn định và hòa bình hay không. Đây là một vấn đề cơ bản của thời đại chúng ta.