Ts Nguyễn Đức Thành (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS)).
LÃNH ĐẠO cùng nhau trên chuyên cơ EC-155B1 trong một chuyến tuần thú. |
Bài này tôi viết cho Thời Báo Kinh tế Sài Gòn (TBKTSG) số Tết Dương Lịch. Tuy nhiên, do khuôn khổ của báo có hạn, nên bài đăng đã phải lược đi một phần nội dung.
Để những ai quan tâm có thể đọc bài đầy đủ, tôi đăng nguyên văn bài của tôi dưới đây. Tôi sẽ dẫn link bản rút gọn của TBKTSG dưới comment.
CẦN NHÌN NHẬN VỤ KÍT XÉT NGHIỆM VIRUS SARS-CoV-2 LÀ LŨNG ĐOẠN NHÀ NƯỚC.
Dư luận đã rúng động mạnh mẽ và bức xúc dữ dội khi vụ kít xét nghiệm virus SARS-CoV-2 (gọi tắt là kít xét nghiệm COVID-19) bị phanh phui với nhiều tình tiết bất thường liên quan tới sự can dự của nhiều cơ quan nhà nước và bộ chủ quản.
Nhìn vào bản chất và rà soát lại diễn biến của vụ việc, chúng ta có thể thấy toàn bộ câu chuyện này đã được chuẩn bị rất công phu, có mục tiêu chính sách được thiết lập rõ ràng, và được thực hiện qua các công đoạn đầy đủ theo quy trình pháp luật cũng như việc xây dựng tính chính danh qua hệ thống truyền thông chính thống.
Với tính chất quy mô và bài bản như vậy, có thể nói đây là một bằng chứng cho thấy tham nhũng của Việt Nam đã tiến từ giai đoạn tham nhũng hành chính và tham nhũng chính sách sang một giai đoạn mới, có tính chất hoàn toàn khác, là lũng đoạn nhà nước(state capture).
Trước hết cần phải phân biệt rõ tham nhũng thông thường với lũng đoạn nhà nước. Tham nhũng là các hành vi trục lợi của người nắm các chức vụ trong bộ máy hành chính, bộ máy chính quyền, lợi dụng vị trí của mình trong quá trình thực thi luật pháp để trục lợi.
Vì nhà nước có bản chất là cơ quan độc quyền cung cấp dịch vụ công quan trọng nhất trên một lãnh thổ (quốc gia), nên các vị trí hành chính và chính trị trong khu vực nhà nước có bản chất độc quyền.
Điều này khác với những người cung cấp dịch vụ trong khu vực tư nhân, khi họ cung cấp các dịch vụ tư hoặc gần với dịch vụ công, vì khu vực tư nhân được điều tiết bằng cạnh tranh trên thị trường, cũng như các quy định pháp luật đã được thiết lập cho ngành đó. (Vẫn có thể có tham nhũng trong khu vực tư nhân, khi tổ chức tư nhân bị hành chính hóa cao, nhưng những tổn hại đó bị giới hạn trong khu vực tư, tức là của một nhóm người cụ thể, chứ không gây mất mát nguồn lực công). Ngăn chặn sự lợi dụng vị thế độc quyền của các cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ và hàng hóa công là nhiệm vụ thiết yếu của nhà nước nếu nó muốn tồn tại hiệu quả.
Do thiếu vắng cơ chế cạnh tranh của thị trường, nên trong toàn bộ lịch sử, người ta phải sử dụng các quy chế giám sát chặt chẽ, nghiêm ngặt, với sự minh bạch và tính chịu trách nhiệm cao. Tuy nhiên, điều này không bao giờ có thể thực hiện một cách hoàn hảo. Do đó, tham nhũng luôn tồn tại trong khu vực công, chỉ là ít hay nhiều mà thôi.
Trong điều kiện Việt Nam, do khả năng giám sát kém hiệu quả vì thiếu cơ chế dân chủ và minh bạch, nên tham nhũng là thường xuyên, phổ biến và mức độ ngày càng trầm trọng.
Thiết nghĩ điều này không cần phải chứng minh nữa nếu chúng ta theo dõi các đại án tham nhũng ngày càng nhiều và nghiêm trọng trong 20 năm qua.
Tuy nhiên, đặc điểm quan trọng của các loại hình tham nhũng nói chung là chúng vẫn thừa nhận một hệ thống luật pháp đã có sẵn. Kẻ tham nhũng chỉ thực hiện trục lợi thông qua quá trình thực thi hệ thống pháp luật đó mà không có khả năng biến đổi nó theo ý mình.
“Lũng đoạn nhà nước” là một bước tiến về chất của những kẻ muốn trục lợi từ tài sản của nhà nước và công chúng.
Điểm khác biệt chủ chốt là họ chủ động tác động vào quá trình hình thành nên các quy định pháp luật. Trên cơ sở đó, hệ thống quy định ấy được thực thi một cách chính danh và hợp pháp, đem lại quyền lợi cho những kẻ lũng đoạn ở quy mô lớn.
Tổ chức Minh bạch Quốc tế, dựa trên các nghiên cứu có thẩm quyền trong lĩnh vực này, đã xác nhận biểu hiện của lũng đoạn nhà nước qua ba dấu hiệu có hệ thống như sau:
(1) Quá trình có một mục tiêu chính sách rõ ràng;
(2) Những kẻ lũng đoạn sẽ trục lợi khi tiến trình được thực thi;
Và (3) Quá trình hình thành chính sách, bao gồm cả luật và quy định, không còn hướng tới mục tiêu vì lợi ích công mà chỉ nhằm phục vụ lợi ích của nhóm lũng đoạn.
Nhóm lũng đoạn ở đây chính là các công ty tư nhân hoặc cá nhân, tập thể trong khu vực tư, cùng nhóm hợp tác là các quan chức hành chính hoặc chính trị gia.
Tất cả hình thành một mạng lưới phối hợp chặt chẽ, phân chia nhiệm vụ một cách tỷ mỉ và chính xác, để trục lợi cho toàn bộ mạng lưới một cách hợp pháp.
Từ khung phân tích như trên, chúng ta có thể soi chiếu lại vụ việc kít xét nghiệm COVID-19 để thấy rằng đây là quá trình có tính chất lũng đoạn nhà nước. Người đọc có thể tự rà soát lại toàn bộ chi tiết các bước liên quan, nhưng có thể tóm lược nhanh như sau:
1. Việc hình thành các chính sách hạn chế nhập khẩu các bộ kit từ nước ngoài, nhằm chuẩn bị thị trường độc quyền cho sản phẩm.
2. Việc hình thành đề tài nghiên cứu cấp nhà nước, với nguồn vốn lớn từ ngân sách, do các cơ quan chính thống trong ngành y đồng tham dự, để tăng tính chính danh cho sản phẩm.
3. Việc các bộ và cơ quan chuyên môn cùng đồng loạt công bố thông tin về chất lượng sản phẩm (mà hiện nay đã bị phanh phui là sai) để xây dựng tính chính danh cho sản phẩm.
4. Đồng thời tạo dự luận và nâng cao tinh thần dân tộc, sử dụng sản phẩm tự chế của người Việt, thậm chí trao Huân chương Lao động cho đơn vị tạo ra sản phẩm.
5. Việc ban hành các quy định yêu cầu xét nghiệm trên quy mô rộng, trong thời hạn ngắn, để việc bắt buộc phải sử dụng sản phẩm trên quy mô và thời gian tương ứng.
Với một bộ khung chính sách đã được chuẩn bị sẵn như vậy, một công ty Việt Á hay bất cứ một công ty nào đó đã được mạng lưới này chuẩn bị sẵn, chỉ việc thực hiện đúng quy trình chính sách để trục lợi.
Cần lưu ý rằng, việc Việt Á được phép bán sản phẩm, đồng thời nâng giá bán sản phẩm cao bất thường, chỉ là những diễn tiến tiếp theo của vụ việc, và về cơ bản, không vi phạm luật pháp hiện hành cũng như cơ chế thị trường – NẾU bộ khung chính sách và môi trường cho kít xét nghiệm như nói trên đã được chuẩn bị sẵn (và trên thực tế đã đi vào cuộc sống với hàng chục triệu cuộc xét nghiệm diễn ra trên toàn quốc).
Vì lý do đó, việc hiện nay các cơ quan chức năng hoặc cơ quan truyền thông có khuynh hướng chỉ quy kết vụ việc vào một nhóm nội dung là Công ty Việt Á sản xuất kít kém chất lượng, lừa dối trong công bố thông tin, và sau đó là thông đồng bán hàng với giá cao cho các CDC trên toàn quốc… như thể đó là một kịch bản do Việt Á là kẻ chủ mưu và đồng thời thực hiện, là cách tiếp cận chưa đầy đủ về bản chất sự việc.
Cần lưu ý rằng, đây không phải là một vụ việc vi phạm luật pháp đơn thuần, mà là một quá trình thay đổi có chủ đích hệ thống thông tin chính thống và quy định hiện hành, nhằm tạo cơ chế cho sản phẩm của Việt Á được đưa ra thị trường một cách chính danh và hợp pháp.
Do đó, không thể coi đây là một vụ tham nhũng hay lừa đảo đơn thuần, mà cần xem xét nó như một vụ lũng đoạn nhà nước với đầy đủ đặc điểm và tính chất của nó.
Việc nhận thức đúng bản chất sự việc có ý nghĩa quan trọng, vì như thế mới hình thành được giải pháp thích hợp. Sự tiến hóa từ tham nhũng nhỏ lẻ lên tham nhũng có hệ thống, tham nhũng và thao túng chính sách, rồi lên đến giai đoạn lũng đoạn nhà nước, là bước phát triển về chất của sự suy thoái xã hội.
Cần nhìn nhận rõ thực trạng này, cả trong thực tiễn lẫn lý luận, để chuẩn bị cho những giải pháp đối phó có hệ thống, có lý luận, và do đó là phù hơp với bản chất nghiêm trọng của vấn đề.
Nguyễn Đức Thành
USA, ngày 27/12/2021.